Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận Vai trò của Bộ luật Lao động đối với việcnâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty TNHH MTV Công trình Đô thị MỹTho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.84 KB, 19 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp ngày càng trở nên khốc liệt. Theo thống kê của Cục quản lý đăng ký
kinh doanh – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2018, có 131.275 doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới (tăng 3,5% so với năm trước). Tuy nhiên, đi
kèm theo đó là 90.651 doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động (tăng 49,7%
so với năm trước). Qua đó, có thể thấy rằng doanh nghiệp luôn phải đối mặt
với rất nhiều bài toán khó khăn để có thể tồn tại và phát triển.Tuy nhiên, bài
toán khó nhất và cần thiết nhất đối với tất cả các doanh nghiệp đó là phải nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mà công ty TNHH MTV Công trình Đô thị
Mỹ Tho cũng nằm trong số đó.
Được thành lập vào năm 1998 đến nay, công ty TNHH MTV Công
trình Đô thị Mỹ Tho (gọi tắt là công ty) đã trải qua nhiều gia đoạn thăng trầm
nhưng chưa bao giờ rơi vào hoàn cảnh khó khăn như hiện tại: năng suất lao
động giảm, mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày
một tăng. Việc thắc mắc, khiếu nại của người lao động liên tục xảy ra dẫn đến
việc công ty bị Thanh tra tỉnh tiến hành thanh tra và đã có kết luận vào cuối
năm 2016 tuy nhiên đến nay, nhiều vụ việc vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Nguyên nhân là do trong một thời gian dài, một số chế độ của người lao động
không được công ty đảm bảo. Đồng thời, các nội quy, quy chế của công ty
cũng được xây dựng không đúng theo quy định của pháp luật. Hệ quả là trong
năm 2018, lần đầu tiên sau rất nhiều năm, công ty không đạt doanh thu và lợi
nhuận theo kế hoạch đề ra. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến thu nhập và các
chế độ cuối năm của người lao động tại đơn vị, càng khoét sâu, tác động tiêu
cực đến niềm tin của người lao động dành cho công ty. Tình trạng này nếu để
kéo dài sẽ rất nguy hiểm vì có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của
đơn vị.



2

Muốn thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn hiện tại, công ty bắt buộc phải tìm
ra cách để nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi
công ty phải nghiên cứu tìm giải pháp điều chỉnh phương thức sản xuất của
mình, trong đó tập trung chủ yếu ở yếu tố con người của lực lượng sản xuất
nhằm tăng năng suất lao động của người lao động. Để làm được điều này,
trước hết phải giải quyết được những mâu thuẫn hiện hữu giữa công ty và
người lao động một cách hài hòa, hợp tình, hợp lý bằng cách giải quyết các
chế độ cho người lao động, cũng như xây dựng các quy chế, nội quy của công
ty tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật về lao động mà trong đó Bộ luật
Lao động là trung tâm.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc áp dụng các quy định của Bộ
Luật lao động trong việc giải quyết những vấn đề tồn tại ở công ty, hướng đến
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm giúp đơn vị vượt qua những khó
khăn hiện tại, tôi quyết định chọn "Vai trò của Bộ luật Lao động đối với việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty TNHH MTV Công trình Đô thị Mỹ
Tho" làm đề tài cho tiểu luận.


3

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Phương thức sản xuất và vai trò của con người trong phương
thức sản xuất
1.1.1. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất được hiểu nôm na là cách thức sản xuất ra của
cải vật chất. Nếu có phương thức sản xuất hiện đại, hiệu quả thì năng suất lao
động sẽ được nâng cao. Bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng bao gồm lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Lực lượng sản xuất là tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên tham qua vào quá
trình sản xuất. Mối quan hệ đó được biểu hiện thông qua quá trình lao động
sản xuất của cải vật chất. Trong quá trình sản xuất của cải vật chất, con người
chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các năng lực thực tiễn của mình nhằm
đáp ứng các nhu cầu đời sống. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thể hiện khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người. Lực lượng sản
xuất được cấu thành từ hai yếu tố: tư liệu sản xuất và con người lao động.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất của cải vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt là: quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức, quản lý, phân công lao động và
quan hệ phân phối kết quả, sản phẩm lao động.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Đó là mối quan hệ giữa nội dung vật chất và hình thức kinh tế của quá
trình sản xuất; cũng là mối quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập, trên cơ sở quyết định của lực lượng sản xuất, tạo thành nguồn gốc và
động lực cơ bản của quá trình vận động, phát triển các phương thức sản xuất
trong lịch sử [3, tr.247]. Đó cũng chính là nội dung của quy luật cơ bản nhất


4

của quá trình phát triển xã hội: "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất".
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn có sự thống nhất
với nhau. Đây là hai phương diện rất cơ bản của phương thức sản xuất. Chúng
tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau trong quá trình sản xuất
của xã hội. Do đó, không một phương thức sản xuất nào có thể tiến hành nếu

thiếu một trong hai phương diện đó, trong đó lực lượng sản xuất chính là nội
dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trình này, còn quan hệ sản xuất
đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó [3,tr.247].
Thứ hai, trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất cũng tương
ứng như thế vậy. Bởi vì quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của
quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất là nội dung vậy chất, kỹ thuật của
quá trình đó [2, tr.136]. Do đó, khi trình độ của lực lượng sản xuất thay đổi thì
đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi tương ứng cho phù hợp. Sự thay
đổi này có thể diễn ra với tốc độ khác nhau, mức độ khác nhau, phạm vi khác
nhau,… nhưng tất yếu sẽ diễn ra nhưng thay đổi nhất định vì quan hệ sản xuất
chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất đóng
vai trò là nội dung vật chất của quá trình đó.
Thứ ba, quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quá trình
tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể diễn ra
với hai khả năng: tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực. Nếu quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, kèm theo đó là quá trình sản xuất của cải vật chất cũng tăng,
tạo tiền đề cho xã hội phát triển. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất không phù


5

hợp với lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất, dẫn đến việc kéo lùi quá trình sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã
hội.
1.1.2. Vai trò của con người trong phương thức sản xuất
Con người là một yếu tố trong lực lượng sản xuất - một phương diện
cấu thành và quyết định phương thức sản xuất. Con người ở đây được hiểu là
con người tham gia vào quá trình sản xuất, nằm trong độ tuổi nhất định, có

sức khỏe và đời sống tinh thần bình thường. Con người cùng với sức lao động
(thể lực và trí lực) thông qua hoạt động lao động tạo nên sức mạnh vật chất
tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu của bản thân
và xã hội. Do đó, trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, con người là chủ
thể của các yếu tố còn lại nên con người giữ vai trò quyết định. Vì suy cho
cùng, trình độ phát triển của tư liệu sản xuất chỉ là kết tinh giá trị lao động của
con người, là sản phẩm lao động của con người, phản ánh trình độ lao động
của con người mà thôi. Đồng thời, giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu
sản xuất phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao
động [2, tr.134].
Đặc biệt trong thời đại nhân loại bước qua cuộc cách mạng khoa học
công nghệ lần thứ tư, vai trò của con người lao động ngày càng quan trọng.
Trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, ý thức và thái độ của con
người trong quá trình lao động trở thành những tài sản vô giá quyết định sự
phát triển của phương thức sản xuất. Nhìn vào yếu tố con người, có thể nhận
biết được khả năng của một doanh nghiệp thế nào, trình độ phát triển của một
quốc gia ra sao. Do đó, việc đầu tư, bồi dưỡng phát triển yếu tố con người
một cách toàn diện là vô cùng cần thiết không chỉ đối với doanh nghiệp mà
còn đối với quốc gia, dân tộc.


6

1.2. Quan hệ lao động và vai trò của việc áp dụng luật đối với quan
hệ lao động
1.2.1. Quan hệ lao động
Quan hệ lao động là quan hệ mua bán hàng hóa là sức lao động giữa
người sử dụng lao động và người lao động. Quan hệ lao động mang bản chất
dân sự thể hiện ở chổ các bên xác lập, thực hiện, chấm dứt hợp đồng trên
nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng

lao động, các bên chủ thể đều phát sinh quyền và nghĩa vụ được quy định cụ
thể trong nội dung hợp đồng. Khi một hoặc các bên không tuân thủ các nghĩa
vụ theo hợp đồng thì đều có thể xảy ra mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp. Trong
quá trình tồn tại và phát triển của quan hệ lao động thì không thể tránh khỏi
việc xảy ra các mâu thuẫn về quyền và lợi ích giữa người lao động và người
sử dụng lao động. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, người sử dụng lao
động thường hướng đến lợi nhuận tối đa, cố gắng cắt giảm chi phí nên rất dễ
ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Quan hệ lao động có các đặc điểm như sau:
- Chủ thể của quan hệ lao động là người lao động và người sử dụng lao
động. Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động,
làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động là doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao
động theo hợp đồng lao động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ.
- Trong quan hệ lao động, người lao động luôn phụ thuộc vào người sử
dụng lao động. Về mặt pháp lý, người sử dụng lao động có quyền tổ chức,
quản lý quá trình lao động của người lao động, còn người lao động bắt buộc
phải tuân thủ. Bởi người sử dụng lao động là người có quyền sở hữu tài sản


7

mà các yếu tố cấu thành nên quan hệ sản xuất luôn chịu sự chi phối của quan
hệ sở hữu. Bên cạnh đó, người sử dụng lao động còn bỏ tiền ra để mua sức
lao động của người lao động. Do đó,để việc sử dụng sức lao động đó đạt hiệu
quả đòi hỏi người sử dụng lao động phải quản lý một cách chặt chẽ.Về mặt lợi
ích kinh tế, giữa người sử dụng lao động và người lao động vừa có sự mâu
thuẫn, vừa có sự thống nhất phụ thuộc lẫn nhau. Người sử dụng lao động luôn

muốn cắt giảm tối đa chi phí, trong đó có tiền lương và các khoản chế độ của
người lao động để tối đa hóa lợi nhuận nhưng tiền lương và các chế độ đó là
nguồn sống chủ yếu của người lao động. Đây là đặc điểm quan trọng để phân
biệt quan hệ lao động với các quan hệ khác và là căn cứ để xác định đối tượng
điều chỉnh của luật lao động.
- Quan hệ lao động chứa đồng bộ các yếu tố kinh tế và xã hội. Quan hệ
lao động không chỉ liên quan đến việc làm, giải quyết việc làm, hạn chế thất
nghiệp, bảo đảm đời sống cho người lao động, giảm thiểu các tình trạng tệ
nạn xã hội,… mà còn liên quan đến nguồn nhân lực, thu hút đầu tư, tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
1.2.2. Áp dụng luật trong quan hệ lao động
Trong quan hệ lao động, do phải phụ thuộc và chịu sự quản lý, điều
hành, phân công của người sử dụng lao động, người lao động luôn ở vị trí yếu
thế hơn. Vì vậy, nhằm hướng tới việc tạo ra quan hệ lao động bình đẳng hơn,
pháp luật đã có những quy định theo hướng bảo vệ người lao động, qua đó
hạn chế sự xâm hại về quyền và lợi ích hợp pháp từ người sử dụng lao động
đối với người lao động. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất của
pháp luật về lao động.
Tại khoản 1 Điều 4 Bộ luật Lao động về chính sách của Nhà nước về
lao động có quy định rõ: "Bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người lao
động; khuyến khích những thoả thuận bảo đảm cho người lao động có những


8

điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động; có chính
sách để người lao động mua cổ phần, góp vốn phát triển sản xuất, kinh
doanh." Theo đó, Nhà nước chỉ quy định mức tối thiểu về những quyền lợi mà
người lao động được hưởng, đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để người
lao động được thỏa thuận những điều khoản có lợi hơn cho mình.

Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là Nhà nước không bảo vệ
người sử dụng lao động. Phía sau việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động, Nhà nước cũng "bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng lao động, quản lý lao động đúng pháp luật, dân chủ, công
bằng, văn minh và nâng cao trách nhiệm xã hội". Vì dù người lao động là bên
yếu thế hơn trong quan hệ lao động, nhưng người sử dụng lao động là bên có
nguy cơ thiệt hại về kinh tế rất nhiều nếu người lao động không đáp ứng, tuân
thủ theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu không được bảo vệ thì sẽ không ai
dám bỏ tiền ra thuê mướn lao động làm việc. Khi đó sẽ khó thu hút đầu tư,
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Vì hai bên chủ thể của quan hệ lao động luôn đối kháng với nhau về lợi
ích: người lao động luôn muốn lương càng cao càng tốt còn người sử dụng
lao động thì luôn muốn càng ít chi phí càng tốt; người lao động luôn muốn
công việc nhẹ nhàng hơn, thời gian nghỉ nhiều hơn còn người sử dụng lao
động thì luôn muốn người lao động làm việc nhiều hơn, hiệu quả hơn, thời
gian nghỉ ít hơn;… nên bất cứ khi nào cũng dễ dàng dẫn đến mâu thuẫn. Do
đó, việc áp dụng luật để điều chỉnh quan hệ lao động nhằm đảm bảo sự hài
hòa, hợp lý về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên chủ thể là rất cần thiết.
Qua đó, có thể thấy vai trò của Bộ luật Lao động là rất quan trọng. Vì
nó không những giúp điều chỉnh, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên chủ thể
trong quan hệ lao động nhằm đảm bảo cho quan hệ lao động hài hòa, ổn định


9

mà thông qua đó, Nhà nước còn có thể tác động, thể hiện sự quản lý của mình
đối với nên kinh tế.
Chương 2: VAI TRÒ CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI CÔNG TY
TNHH MTV CÔNG TRÌNH ĐÔ THỊ MỸ THO

2.1. Những vấn đề hiện hữu tại công ty TNHH MTV Công trình Đô
thị Mỹ Tho
2.1.1. Giới thiệu về công ty TNHH MTV Công trình Đô thị Mỹ Tho
Công ty TNHH MTV Công trình Đô thị Mỹ Tho là doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước hoạt động lĩnh vực công ích và kinh doanh các dịch vụ công
cộng theo Giấy phép kinh doanh, Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp; chịu
sự quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang. Công ty được
thành lập theo Quyết định số 699/1998/QĐ-UB ngày 31/3/1998 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Tiền Giang với tên gọi là công ty Công trình Đô thị thành phố
Mỹ Tho. Đến năm 2011, công ty tiến hành chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
theo Quyết định 4085/QĐ-CTĐT ngày 31/12/2010 về việc phê duyệt đề án
chuyển đổi công ty Công trình Đô thị thành phố Mỹ Tho thành công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Từ đó lấy tên là công ty TNHH MTV Công
trình Đô thị Mỹ Tho đến nay. Địa chỉ trụ sở chính của công ty nằm ở số 12,
đường Huỳnh Tịnh Của, phường 7, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Công ty hoạt động kinh doanh chủ yếu ở bốn mảng: Chăm sóc, bảo
dưỡng công viên, cây xanh; duy trì hệ thống chiếu sáng công cộng; xây dựng,
duy tu hệ thống cầu đường, thoát nước; thu gom, vận chuyển rác thải sinh
hoạt. Ứng với các mảng hoạt động kinh doanh, công ty có bốn đội trực tiếp
thi công gồm: đội Công viên Cây xanh, đội Cơ điện, đội Xây dựng Cầu
đường Thoát nước và đội Vệ sinh Môi trường. Công ty hiện đang có gần 400


10

lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, trong đó
lao động phổ thông chiếm đa số.
Từ cuối năm 2016 đến nay, sau khi có kết luận của Thanh tra tỉnh Tiền
Giang về việc chấp hành chính sách pháp luật, thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao của công ty TNHH MTV Công trình Đô thị Mỹ Tho, các mâu

thuẫn giữa người lao động với người sử dụng lao động vẫn tiếp tục tăng cao.
Nguyên nhân do công ty chưa khắc phục, giải quyết triệt để được các nội
dung trong kết luận thanh tra, đồng thời, việc một số quy định trong nội quy,
quy chế của công ty, cũng như việc giải quyết các chế độ của người lao động
còn chưa hợp lý. Hệ quả là năm 2018 vừa qua, lầu đầu tiên kể từ khi thành
lập, công ty không hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra: tổng doanh thu là
72.254.118.063 đồng/83.000.000.000 đồng (đạt 87,05% kế hoạch đề ra); lợi
nhuận là 741.964.974 đồng/5.250.000.000 đồng (đạt 14,13% kế hoạch đề ra);
thu nhập hàng tháng bình quân người lao động 5.839.623 đồng/7.276.161
đồng (đạt 80,26% kế hoạch đề ra).
Với việc kết quả sản xuất kinh doanh cuối năm đạt quá thấp so với kế
hoạch, các chế độ tiền lương, tiền thưởng cuối năm của người lao động đều
thấp hơn nhiều so với mọi năm. Điều này lại càng tạo thêm những thắc mắc,
khiếu nại trong người lao động, càng kéo công ty vào hoàn cảnh khó khăn
hơn trong năm 2019 này.
2.1.2. Việc giải quyết chế độ tai nạn lao động đối với người lao động
Do đặc thù kinh doanh nên phần lớn người lao động tại công ty làm
việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại, nhất là công nhân ở đội Xây dựng
Cầu đường Thoát nước và đội Vệ sinh Môi trường. Điều này dẫn đến việc dù
công ty đã trang bị, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động
nhưng tai nạn lao động vẫn thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, trong một thời
gian dài, công ty đã không giải quyết chế độ cho người lao động bị tai nạn lao


11

động đúng theo quy định của Bộ luật Lao động. Cụ thể, từ năm 2011 đến năm
2016, công ty đã không khai báo, không tổ chức điều tra, lập biên bản 09 vụ
tai nạn lao động. Việc này đã vi phạm điều cấm tại khoản 2 Điều 146 Bộ luật
Lao động: “Che giấu, khai báo hoặc báo cáo sai sự thật về tai nạn lao động,

bệnh nghề nghiệp”.
Theo quy định tại Điều 144 Bộ luật Lao động, công ty phải có trách
nhiệm đối với người lao động bị tai nạn lao động như sau: thanh toán phần chi
phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao
động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu,
cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo
hiểm y tế; trả đủ tiền lương cho người lao động theo hợp đồng lao động trong
thời gian điều trị tai nạn lao động; bồi thường cho người lao động bị tai nạn
lao động theo quy định. Đồng thời, người lao động được hưởng chế độ tai nạn
lao động theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và được nhận trợ cấp bồi
thường từ công ty tùy vào tỉ lệ suy giảm khả năng lao động. Tuy nhiên, do
công ty không khai báo, không tổ chức điều tra, lập biên bản tai nạn lao động,
nên những người lao động này không được hưởng các quyền lợi theo chế độ
tai nạn lao động mà chuyển sang hưởng chế độ ốm đau. Điều này làm thiệt
thòi rất lớn cho người lao động gây ra bất bình, thắc mắc trong nội bộ.
Khi có khiếu nại từ người lao động, sự việc này đã được thanh tra và
kết luận tại Kết luận số 98/KL-TT ngày 15/11/2016 của Thanh tra tỉnh Tiền
Giang về việc chấp hành chính sách pháp luật, thực hiện chức năng được giao
của công ty TNHH MTV Công trình Đô thị Mỹ Tho.
2.1.3. Việc phân công, điều động người lao động
Việc phân công, điều động người lao động tại công ty cũng có nhiều
thiếu sót. Cụ thể vào năm 2016, công ty ra Quyết định số 06/QĐ-CTĐT ngày
05/01/2016 về việc điều động cán bộ đối với ông Trương Văn Long từ Đội


12

phó đội Vệ sinh Môi trường về Tổ trưởng tổ Thu phí vệ sinh - trực thuộc
phòng Kế toán Tài vụ. Tính chất, địa điểm làm việc, các mức phụ cấp đều
thay đổi so với hợp đồng lao động giao kết ban đầu nhưng hai bên không tiến

hành ký kết phụ lục hợp đồng cũng như không hề giao kết hợp đồng lao động
mới. Việc này là không đúng theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Lao động.
Sau một thời gian, ông Long không hoàn thành nhiệm vụ ở vị trí công
tác mới nên bị kỷ luật. Ông Long làm đơn khiếu nại vì cho rằng việc công ty
điều động ông Long về tổ Thu phí vệ sinh là không đúng quy định do không
được sự đồng ý từ ông Long. Trường hợp này cũng được thanh ra và đã kết
luận trong Kết luận số 98/KL-TT của Thanh tra tỉnh Tiền Giang. Hiện tại, ông
Long tiếp tục làm đơn khiếu nại đòi bồi thường danh dự, uy tín vì bị kỷ luật
mà nguyên nhân do trước đó công ty đã điều chuyển công tác đối với ông
Long sai quy định.
Ngoài ông Long, còn rất nhiều trường hợp người lao động bị điều động
từ bộ phận này sang bộ phận khác nhưng giữa công ty và người lao động
không ký kết hợp đồng lao động mới hay phụ lục hợp đồng lao động (ghi
nhận thay đổi về chức danh công việc, địa điểm làm việc cũng như các chế độ
được hưởng).
2.1.4. Việc xử lý kỷ luật lao động
Việc xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động tại công ty còn chưa
đúng quy định. Cụ thể, ngày 29 tháng 6 năm 2016, công ty ra Quyết định số
181/QĐ-CTĐT về việc kỷ luật hình thức cách chức đối với ông Lâm Thiện
Tất – Đội phó đội Xây dựng Cầu đường Thoát nước - với lý do: vu khống
lãnh đạo thiếu đúng đắn với phụ nữ trong công ty, làm ảnh hưởng xấu đến uy
tín, hạnh phúc gia đình lãnh đạo; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành ý kiến
chỉ đạo, kết luận của Đảng ủy – Ban Giám đốc công ty, nhiều lần nói xấu Bí
thư chi bộ là ăn cắp; gây mất đoàn kết nội bộ xúi giục công nhân làm ảnh


13

hưởng xấu đến tình hình hoạt động của công ty; thường xuyên gửi đơn thưa
kiện;… Sau khi nhận Quyết định kỷ luật, ông Lâm Thiện Tất làm đơn khiếu

nại vì cho rằng bị công ty trù dập vì trước đó, ông Tất đã có đơn thư tố cáo
một số sự việc ở công ty với cơ quan chức năng và quy trình xử lý kỷ luật
cũng không đúng theo quy định. Sự việc cũng được thanh tra và kết luận tại
Kết luận số 98/KL-TT của Thanh tra tỉnh Tiền Giang.
2.1.5. Việc giải quyết chế độ nghỉ hàng năm
Theo quy định tại Điều 114 Bộ luật Lao động về việc thanh toán tiền
lương những ngày chưa nghỉ: "Người lao động do thôi việc, bị mất việc làm
hoặc vì các lý do khác mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày
nghỉ hằng năm thì được thanh toán bằng tiền những ngày chưa nghỉ". Theo
đó, nếu người lao động vì một lý do nào đó mà chưa nghỉ hết số ngày nghỉ
hằng năm thì công ty phải thanh toán bằng tiền những ngày chưa nghỉ. Tuy
nhiên, Điều 8 Nội quy lao động của công ty lại quy định:
“1. Người lao động do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng
năm thì được thanh toán bằng tiền những ngày chưa nghỉ.
2. Trường hợp người lao động chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm
theo quy định thì những ngày chưa nghỉ công ty không thanh toán tiền lương
mà sẽ tạo điều kiện để người lao động nghỉ hết thời gian những ngày nghỉ
hằng năm. Thời gian nghỉ phép năm được thực hiện chậm nhất vào ngày
31/12. Sau thời gian trên, người lao động không nghỉ thì xem như kết thúc chế
độ nghỉ hằng năm.”
Việc quy định trong nội quy lao động như vậy là xung đột với tinh thần
của Bộ luật Lao động. Vì thực hiện theo nội quy lao động đã ban hành nên
đến nay, công ty vẫn chưa thực hiện việc thanh toán tiền những ngày chưa
nghỉ theo quy định của Điều 114 Bộ luật Lao động cho người lao động. Do
trình độ nhận thức về pháp luật của người lao động còn hạn chế nên dù đã có


14

nhiều thắc mắc từ phía người lao động nhưng vẫn chưa có bất kỳ đơn khiếu

nại nào được gửi yêu cầu công ty giải quyết. Điều này cần phải được khắc
phục sớm vì hiện đang xâm phạm đến quyền lợi của người lao động, nếu
không sẽ rất dễ xảy ra những xáo trộn trong người lao động cũng như tạo ra
những rủi ro về mặt pháp lý đối với đơn vị.
2.2. Mối liên hệ giữa tuân thủ Bộ luật Lao động và việc nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty TNHH MTV Công trình Đô thị
Mỹ Tho
Trong phương thức sản xuất thì yếu tố con người của lực lượng sản
xuất giữ vai trò quyết định. Vì thế, khi người lao động không tin tưởng ở công
ty, không còn tâm lý thoải mái lao động thì năng suất lao động giảm là điều
tất yếu. Tuy năng suất giảm nhưng công ty vẫn phải trả đủ lương cho người
lao động theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Điều này nếu kéo dài sẽ
kéo lùi hiệu quả kinh doanh, gây thiệt hại rất lớn cho công ty. Muốn nâng cao
hiệu quả kinh doanh, công ty cần có một đội ngũ lao động không những có
trình độ cao, mà còn phải có ý thức, thái độ tốt trong công tác, tâm huyết với
công việc. Vì vậy, buộc công ty phải xây dựng lại lòng tin của người lao động
dành cho mình mà trước hết là phải giải quyết tất cả những thắc mắc, mâu
thuẫn của người lao động đối với đơn vị. Những thắc mắc đó đa phần phát
sinh từ những thiếu sót, vi phạm các chế độ, quyền lợi của người lao động
được quy định tại Bộ luật Lao động.
Việc công ty không tuân thủ quy định của Bộ luật Lao động trong giải
quyết các chế độ, quyền lợi của người lao động không những làm ảnh hưởng
xấu đến quan hệ lao động mà còn tạo ra những rủi ro pháp lý đối với đơn vị.
Trong Kết luận số 98/KL-TT ngày 15/11/2016 của Thanh tra tỉnh Tiền Giang,
do công ty đã vi phạm không khai báo, không tổ chức điều tra, lập biên bản
09 vụ tai nạn lao động, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người


15


lao động nên phải tiến hành khắc phục, lập thủ tục báo cáo, đề nghị Hội đồng
Giám định y khoa thực hiện giám định mức độ suy giảm sức khỏe cho tất cả
09 trường hợp nêu trên làm căn cứ để chi trả bồi thường theo quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, việc này không hề dễ dàng vì một số tai nạn lao động đã
xảy ra từ nhiều năm về trước (có trường hợp tháng 8/2005 và tháng 11/2011).
Đồng thời, việc không khai báo tai nạn lao động mà chuyển người lao động
qua hưởng chế độ ốm đau từ cơ quan bảo hiểm xã hội hoàn toàn là lỗi của
công ty, vi phạm nghiêm trọng quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo
hiểm xã hội. Do đó, việc cơ quan bảo hiểm xã hội chi giải quyết tiền ốm đau
khi người lao động nghỉ việc để điều trị cho 09 trường hợp tai nạn lao động
này là sai. Vì vậy, công ty phải có trách nhiệm thu hồi số tiền nói trên để hoàn
trả cho cơ quan bảo hiểm xã hội và thanh toán đầy đủ tiền lương cho người
lao động trong thời gian nghỉ việc để điều trị theo quy định.
Đối với trường hợp của ông Trương Văn Long, công ty phải phục hồi
chức vụ Đội phó đội Vệ sinh Môi trường cho ông Long như ban đầu. Điều
này làm ảnh hưởng đến việc điều tiết nhân sự tại đơn vị. Không dừng lại ở đó,
sau khi có kết luận của thanh tra, ông Long tiếp tục làm đơn khiếu nại đòi bồi
thường danh dự, uy tín vì cho rằng quyết định kỷ luật của công ty là không
đúng quy định. Hiện vụ việc đang tiếp tục được các bên thỏa thuận hòa giải.
Nếu hòa giải không thành, vụ việc có thể sẽ phải giải quyết tại tòa án.
Đối với trường hợp của ông Lâm Thiện Tất, Thanh tra tỉnh Tiền Giang
đã kết luận việc xử lý kỷ luật của công ty là không đúng vì có dấu hiệu trù
dập và không đúng quy định do không chứng minh được người lao động có
lỗi vi phạm các quy định, quy chế của công ty. Do đó, công ty phải ra Quyết
định số 188/QĐ-CTĐT ngày 06/07/2016 để thu hồi quyết định kỷ luật ông Tất
và phục hồi chức vụ cùng các chế độ đối với ông Tất. Điều này làm ảnh


16


hưởng rất lớn đến uy tín cũng như tiếng nói của Ban Giám đốc đối với người
lao động tại công ty.
Qua đó, có thể thấy việc không tuân thủ quy định của pháp luật về lao
động làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty lớn thế nào.
Nếu công ty đảm bảo thực hiện, giải quyết đầy đủ các chế độ, quyền lợi của
người lao động trên tình thần tuân thủ quy định của Bộ luật Lao động, không
những sẽ bình ổn được nội bộ, không còn xảy ra thắc mắc, mâu thuẫn trong
quan hệ lao động, người lao động an tâm công tác, năng suất lao động sẽ được
đảm bảo và tăng cao mà còn giúp công ty tránh được những rắc rối, phiền hà
về mặt pháp lý. Dù công ty không bị thanh tra thì nếu để các mâu thuẫn trong
quan hệ lao động tăng cao sẽ dễ làm xảy ra tranh chấp lao động, nhất là các
tranh chấp lao động tập thể. Việc giải quyết tranh chấp lao động thực hiện
đúng theo quy định của Bộ luật Lao động sẽ khá rườm rà, mất nhiều thời gian
nên chắc chắn sẽ gây bất ổn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, làm ảnh
hưởng uy tín của đơn vị.
Vì vậy, để có thể phục hồi và nâng cao hiệu quả kinh doanh, công ty
buộc phải nhận thức rõ được tầm quan trọng của Bộ luật Lao động trong việc
xử lý những vấn đề liên quan đến người lao động (như việc điều động, kỷ luật
lao động) cũng như giải quyết các chế độ, quyền lợi của người lao động. Để
làm được điều này, công ty phải điều chỉnh lại nội quy lao động, các quy chế
của đơn vị cho phù hợp với quy định của luật, từ đó có thể áp dụng một cách
công khai, minh bạch, không gây ra thắc mắc cho người lao động. Đồng thời,
công ty phải chú trọng hơn công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật để nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động về pháp luật, cũng
như nội quy, quy chế của đơn vị, nhằm tránh để người lao động hiểu nhầm,
gây hoang mang, thắc mắc dẫn đến việc vi phạm quy định.


17


KẾT LUẬN
Muốn nâng cao năng suất, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp cần phải tìm được cho mình những phương thức sản xuất phù hợp. Mà
con người lao động luôn là yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất – một
trong hai phương diện cấu thành phương thức sản xuất. Do đó, để có thể nâng
cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, trước hết phải quan tâm bồi dưỡng
trình độ của lực lượng người lao động. Muốn làm được điều này, doanh
nghiệp phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao
động. Chỉ khi người lao động được đảm bảo đầy đủ về vật chất, tinh thần thì
mới có thể tận tâm, tận lực, tận tuệ với công việc.
Công ty TNHH MTV Công trình Đô thị Mỹ Tho đang lâm vào giai
đoạn khó khăn mà một trong những nguyên nhân lớn nhất là do mâu thuẫn
trong quan hệ giữa người lao động và công ty tăng cao. Người lao động
không còn tin tưởng vào công ty cũng như không còn tha thiết, dốc toàn tâm,
toàn lực thực hiện nhiệm vụ được phân công làm kéo lùi năng suất lao động.
Điều này phát sinh vì công ty đã thực hiện giải quyết các chế độ cho người
lao động không thỏa đáng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động. Việc này không những tạo ra những thắc mắc,
mâu thuẫn giữa công ty và người lao động mà còn gây ra những thiệt hại
không nhỏ cho đơn vị.
Vì vậy, muốn vượt qua khó khăn hiện tại, công ty trước hết phải nhận
thức được tầm quan trọng của Bộ luật Lao động trong việc giải quyết các chế
độ liên quan đến quyền lợi của người lao động, từ đó có những điều chỉnh
trong việc ban hành các nội quy, quy chế của công ty cho phù hợp nhằm giải
quyết những mâu thuẫn, bất đồng hiện hữu giữa công ty và người lao động
một cách hài hòa, hợp tình, hợp lý. Đồng thời, công ty cũng phải tích cực
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nhất là những quy định về pháp


18


luật lao động để người lao động thấy được, hiểu được những quyền lợi của
mình được công ty đảm bảo đầy đủ. Từ đó, công ty mới có thể dần dần xây
dựng lại niềm tin của người lao động, để người lao động thoải mái, an tâm
công tác, nâng cao năng suất lao động cũng như hiệu quả kinh doanh của đơn
vị.
Qua đó, có thể thấy rằng vai trò quan trọng của Bộ luật Lao động đối
với doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH MTV Công trình Đô thị nói
riêng. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Bộ luật Lao động không
chỉ giúp công ty ổn định tình hình nội bộ mà còn giúp hạn chế rủi ro pháp lý,
tránh gây những thiệt hại không đáng có cho doanh nghiệp; từ đó trở thành
chìa khóa để giải bài toán nâng cao năng suất, hiệu quả kinh doanh nhằm kéo
đơn vị ra khỏi hoàn cảnh khó khăn hiện tại./.


19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2012.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Triết học (Dùng trong đào tạo
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, các ngành khoa học xã hội và nhân văn không chuyên
ngành Triết học), Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.
4. Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (2018), Báo cáo Tình hình đăng ký doanh
nghiệp tháng 12 và năm 2018, Hà Nội.
5. Thanh tra tỉnh Tiền Giang (2016), Kết luận thanh tra về việc chấp hành
chính sách pháp luật, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao của Công ty
TNHH MTV Công trình Đô thị Mỹ Tho, Tiền Giang.




×