Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Một số câu hỏi và trả lời học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.99 KB, 9 trang )

a) Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức cá nhân
Đạo đức hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy tắc, những quan niệm về các giá trị thiện, ác,
lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công bằng… được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa con
người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa con người với xã hội. Xuất phát từ bản chất, con người luôn có
khát vọng hướng tới chân, thiện, mĩ nhằm hoàn thiện bản thân. Để vươn tới sự hoàn thiện, trước hết con người phải tự
tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Do vậy đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người.
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lí, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá
nhân, mỗi con người có vai trò vô cùng quan trọng. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người, vì
vậy ai cũng phải tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn,
vì họ là “người chủ tương lai của nước nhà”, là cái cầu nối các thế hệ – “người tiếp sức cách mạng cho thế hệ già, đồng
thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Chính vì vậy, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm
giáo dục đạo đức, chăm lo rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định: “Thanh niên
phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì
chẳng những không làm được gì có ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như
ông Bụt không làm hại gì nhưng cũng không có lợi gì cho loài người”.
Người còn chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hằng ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác
dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính trị của họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn thử thách.
Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước… khi gặp
thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ được tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không
kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Người chỉ rõ, trong xã hội mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ,
nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
– Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh viên, thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh
đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức tối cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu, rèn luyện. Trong Bài nói tại Đại
hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (ngày 7–5–1958), những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong “sáu cái yêu”: yêu Tổ
quốc; yêu nhân dân; yêu chủ nghĩa xã hội; yêu lao động; yêu khoa học và kỉ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải
có khoa học và kỉ luật”.
Theo Hồ Chí Minh, để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như: Trung


thành, tận tụy, thật thà, trung thực và chính trực, phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải là hỏi nước nhà đã
cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn?
Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hi sinh phấn đấu chừng nào”. Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lí luận với thực
hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi. “Chống
tâm lí ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng
xa xỉ, chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? Học
để phục vụ ai? Phải xác định rõ tác nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?”… Người chỉ rõ: “Đối với người, ai làm
gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kì là ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quát ta tức là kẻ
thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành
động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù… Điều gì phải, thì phải cố làm cho kì được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì
hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”.
b) Nội dung học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
– Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức dấn thân, đạo đức trọng hành động: nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu
diệt chủ nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, vô ngã vị tha, chí công vô tư. Dưới ngọn cờ của tư tưởng đó,
trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam đã lập được nhiều kì tích to lớn, đóng góp vào tiến trình chung vào
lịch sử dân tộc.
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, một nền đạo đức mới đã và đang hình
thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng là nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền


đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người, song nghĩa tình trọn vẹn,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu mới, những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và thời đại.
Nhờ đó, phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; khiêm tốn, luôn
cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với
những khó khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, trây lười; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng
dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, do sự bùng phát của lối sống thực dụng, chạy
theo danh lợi bất chấp đạo lí đã dẫn đến những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là: tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong

một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”. Đó là “tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở
một bộ phận công chức, nhất là các cơ quan trực tiếp giải quyết công việc của nhân dân và doanh nghiệp, chậm được
khắc phục”. Đó còn là tình trạng “một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt yếu kém về phẩm chất và
năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”. Thêm vào đó là những
biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của thế lực phản động quốc tế nhằm
thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”… đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm
tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm
tin, lí tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng, sống thử,
sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút sách; thiếu trung thực, gian lận
trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp… Đây là những biểu hiện không thể coi thường.
– Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức lỗi lạc mà còn là một tấm gương vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư
tưởng và tấm gương đạo đức của Người có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao không chỉ với nhân dân Việt Nam
mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội,
người chủ tương lai của nước nhà, thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Một là, học trung với nước, hiếu với dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất và là một trong những con người đẹp nhất của thời đại chúng ta.
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục tiêu hiến dâng cả cuộc đời mình
cho cách mạng. Người đã chấp nhận một sự hi sinh, luôn kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn,
“thắng không kiêu, bại không nản”, “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”
nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó Người nói: “Bài học chính trong đời tôi là tuyệt đối và hoàn toàn cống hiến đời
mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất Tổ quốc giải phóng giai cấp công nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội, cho sự hợp tác anh em và hòa bình giữa các dân tộc”; “Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một
ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Đến lúc phải rời thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người là “không
được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Tấm gương vì nước, vì dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người
của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế thừa nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và
trang trọng nhất để ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nhà cách mạng triệt để”, “nhà hoạt động quốc tế thần thoại”, “một

nhân vật nổi bật nhất trong thời đại của chúng ta”, “một tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng và nhân đạo
cao cả nhất”. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên
mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy”, một con người “mà cái chết là mầm sống của sự sống và
nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”.
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ít lòng ham muốn vật chất. Đó là
tư cách người cán bộ cách mạng, và tự mình Người đã gương mẫu thực hiện. Suốt đời, Người sống trong sạch thực hành
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn vì nước, vì dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng viết: “Hồ Chủ tịch không có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của Người. Quyền lợi tối cao của nước, lợi
ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của Người. Gia đình của Người là đại gia đình Việt Nam.
Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng cầu kì,


suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch tao nhã, giản dị, khiêm tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc
cho dân. Nói về những đức tính vĩ đại của Hồ Chí Minh, X. Agienđê – vị Tổng thống anh hùng của nước Cộng hoà Chilê đã
khái quát: “Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng
giản dị và sự khiêm tốn phi thường”.
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân;
luôn thân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh và
trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán bộ, đảng viên việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải
hết sức tránh; phải gần dân, hiểu dân, phải học dân, kính trọng nhân dân; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người phê
phán quyết liệt đầu óc “quan cách mạng” và tự mình thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu “lắng nghe ý kiến của
đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng”. Là người có uy tín rất cao và sức hấp dẫn rất lớn, song
không bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn nhân dân, chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của nhân dân, “như một
người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận”.
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh giành cho tất cả, chia sẻ với mọi người những nỗi đau riêng. Người nói, trong
“mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mọi người, mọi gia đình thì
thành nỗi đau khổ của tôi”.
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của dân tộc, nên có sức mạnh và cảm hoá

to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương tri. Ở Hồ Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn. Cho nên, khi làm cách
mạng, Hồ Chí Minh đặt vấn đề tự do và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn cộng sản vừa thánh
thiện, vừa gần gũi đã làm xúc động trái tim nhân loại và Người được suy tôn “một ông thánh cộng sản”, “một con người
của huyền thoại”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã bình luận: Lòng nhân đạo, tình thương đồng bào, đó là điều sâu sắc
nhất, tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch.
Bốn là, ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng vô cùng gian khổ. Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử
hình, có giai đoạn hoạt động rất sôi nổi, được đánh giá rất cao, có giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kị, không được giao
nhiệm vụ… Song, nhờ ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua thử
thách gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ chân lí, giữ vững quan điểm cách mạng của mình. Người đã làm thơ
để tự răn:
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng trong nhân cách Hồ Chí Minh. Một tờ báo nước ngoài viết:
“Đằng sau cái cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là một ý chí sắt thép. Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh
hùng không có gì uy hiếp nổi”.
Để cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của
nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự bồi dưỡng, rèn luyện của sinh viên, sự nêu gương của mọi người trong xã hội,
trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lí giáo dục và sự hướng dẫn của dư luận xã
hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như
mong muốn.
Hồ Chí Minh cho rằng , trong thế hệ trẻ việc tu dưỡng đạo đức là vô cùng quan trong vì đối với mỗi người sinh viên , họ chính là những con người được đào 
tạo bài bamnr để đóng góp cho đất nước của chúng ta khi họ ra trường, hay nói cách khác sinh viên chính là ” người chủ tương lai của nước nhà” ; là cầu nối 
giữa các thế hệ và sinh viên chính là người tiếp sức cho cách mạng trong thời đại hiện nay.   
          Sinh viên là những con người được đào tạo trong các trường đại  học và có tài năng tuy nhiên có tài mà không có đức thì chỉ là người vô dụng , cho nên 
việc tu dưỡng đạo đức với sinh viên là vô cùng quan trọng và cần thiết.
          Hồ Chí Minh không chỉ là nha đạo đức học lỗi lạc mà con là một tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm gương đạo
đức của Người có một sức sống mãnh liệt và cổ vũ lớn lao với nhân dân ta và nhân dân thế giới. Để có đủ tài đức để  trở thành chủ nhân tương lai của đất 
nước , thanh niên cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
          Thanh niên cần trung với nước , hiếu với dân , suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp , giải phóng con người.đó chính 

là một phẩm chất đạo đức quan trọng của sinh viên hiện nay, chính  là sự trung thành với đất nước với nhân dân, và đó cũng chính là phẩm chất đạo đức cần 
có với sinh viên của đất nước đi theo con đường Xã hội Chủ nghĩa như đất nước Việt Nam chúng ta, đạo đức vì cộng đồng vì nhân loại.


          Học cần, kiệm, liêm , chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng , nếp sống giản dị và đức khiêm tốn vô thường. Một đạo đức hi sinh tính cá nhân của 
con người, không phải vì riêng tư, từ bỏ những ham muốn cá nhân , sống trong sạch, giản dị , giàu lòng nhân ái , gương mẫu trong sinh hoạt học tập, tránh 
rơi vào thói ích kỉ , cá nhân , tham lam .
          Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích trong cuộc sống. Có được đức 
tính như vậy sinh viên có thể vượt qua các khó khăn thủ thách gặp được trong cuộc sống và sẽ gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống.
          Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thì sinh viên phải có sự tu dưỡng, rèn luyện hết mình , luôn luôn cố gắng phấn đấu 
vì gia đình quê hương đất nước, luôn yêu quê hương đất nước, giàu lòng nhân ái và tích cực làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh trong cuộc 
sống.                                                                                 
Vấn đề học tập và làm theo tấm ngương đạo đức của HCM của sinh viên trong giai đoạn hiện nay
1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức HCM
- Xác định đúng vị trí và vai trò của đạo đức đối với cá nhân HCM cho rằng việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trò
vô cùng quan trọng đặc biệt là thế hệ trẻ,vì họ : “ là người chủ tương lai của nước nhà“ : là cái cầu nối giữa các thế hệ - “ người tiếp sức CM
cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai“. Chính vì vậy việc giáo dục đạo đức của sinh
viên đã được Chủ tich HCM quan tâm từ rất sớm người khẳng định: “ Thanh niên phải có đức , có tài. Có tài mà không có đức ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lạ đi đến thụt kén thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội
nũa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người“
- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức HCM
Trong bài nói tại đại hội sinh viên VN lần thứ hai “ 7/5/1958“ những phẩm chất đó được người tóm tắt trong 6 cái yêu
+ Yêu tổ quốc: yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho tổ quốc ta giàu mạnh . Muốn cho tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức
tăng ra sản xuất, thực hành tiết kiệm
+ Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của dân, biết nhân dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn,
những công tác nặng nhọc với nhân dân
+ Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no
ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm
+ yêu lao động: muốn thật thà yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu lao động, vì lo co lao động thì chỉ là nói suông
+ Yêu khoa học và kỷ luật: Bời vì tiến lên CNXH thì phải co khoa học và kỷ luật

Theo người, để có đuợc những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như: trung thành, tận tuỵ, thật thà và
chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước
nhà? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hi sinh phấn đấu chừng nào?“. Trong học tập và rèn luyện phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập
với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo danh hám lợi
Phải trả lời được câu hỏi: học để làm gì? học để phục vụ ai?phải xác định rõ thế nào là tốt thế nào là xấu?Ai là bạn ai là thù?
2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức HCM
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
+ Đạo đức HCM là đạo đức cách mạng, đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động, nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân,
lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, vô ngã vị tha, chí công vô tư. Dưới ngọn cờ của tư tưởng đó, trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ
VN đã lập đựơc nhiều kỳ tích to lớn góp phàn vào tiến trình chung của lịch sư dân tộc
+ Trong thời kỳ hiện nay phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; khiêm tốn, luôn cần


cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có trí lập thân, lập nghiệp, năng động nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn thách thức,
dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười, luôn gắn bó với nhân dân, đồng hàng cùng dân tộc, phân đấu cho sụ nghiệp dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM
+ Một là, học trung với nước học hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người
+ Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản di và đức tính khiêm tốn phi thường
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha,
khoan dung và nhân hậu với con người
+ Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống
Đối với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng có ý nghĩa quan trọng vì họ là những 
“người chủ tương lai của nước nhà” là cầu nối giữa các thế hệ “người tiếp sức 
cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế 
hệ  thanh  niên  tương  lai”.  Thanh  niên  là  lực  lượng  quan  trọng  xây  dựng  và 
phát triển đất nước: “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là 
do các thanh niờn”. Người khẳng định thanh niên là “lực lượng nòng cốt để 
xây  dựng  xã  hội  mới”,  “người  chủ  tương  lai  của  nước  nhà”.  Chính  vì  vậy, 

việc giáo dục đạo đức chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã 
được Hồ Chí Minh quan tâm từ sớm. Nói chuyện với sinh viên Người khẳng 
định: “thanh niên phải có đức có tài, có tài mà không có đức ví như một anh 
làm kinh tế tài chính giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm
3. Thực hành đạo đức Cách mạng theo gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh 
Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng, trở về với thế giới Người Hiền đã hơn l/3 thế kỷ nay. Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa 
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã gần 20 năm, tính từ Đại hội VI ( l2 /l986 ) đến nay. Khoảng thời gian đó đã đủ để sinh thành một thế hệ.
Người đã đi xa nhưng ai cũng cảm thấy như Người vẫn ở bên cạnh chúng ta, cổ vũ khuyến khích những việc làm tốt, nhắc nhở giúp đỡ 
chúng ta những yếu kém, hạn chế, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm để tiến bộ trưởng thành.
Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then 
chốt, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Bất cứ một 
lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một hoạt động nào của tổ chức và cá nhân một người, đạo đức cũng thể hiện vai trò quan trọng của
nó.Thiếu vắng hoặc yếu kém về đạo đức, con người không có nhân tính đầy đủ, không phát triển được nhân tính để thành người và làm 
người. 
Suy thoái đạo đức, xã hội không thể phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hoá và xã hội.
Trong hệ thống các động lực phát triển xã hội, đạo đức là một động lực tinh thần không thể thiếu. Chúng ta đang đấu tranh quyết liệt chống 
quan liêu tham nhũng như một trọng bệnh, như một quốc nạn để đảm bảo môi trường xã hội ­ nhân văn lành mạnh cho sự phát triển kinh tế, 
ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
Tình hình đó đòi hỏi phải chú trọng xây dựng đạo đức xã hội và giáo dục tu dưỡng đạo đức cá nhân. Vào lúc này, thực hành đạo đức cách 
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, noi theo tấm gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên vô cùng cấp thiết, bức xúc. Đó còn là vấn đề cơ bản,
lâu dài dối với sự phát triển, hiện đại hoá xã hội ở nước ta.
Trước hết đó là thực hành đạo đức cách mạng trong Đảng, từ cán bộ đảng viên đến các tổ chức đảng. Đó còn là giáo dục và thực hành đạo 
đức cách mạng trong đội ngũ công chức của Nhà nước. Càng đi vào xây dựng Nhà nước pháp quyền càng phải chú trọng tới đạo đức công 
chức, đạo đức công dân. Đó là đảm bảo cho đạo đức xã hội và tăng cường tính nhân văn của pháp quyền dân chủ. Giáo dục đạo đức cách 
mạng cho thế hệ trẻ, cho thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên cũng như giới trí thức, văn nghệ sĩ cũng là một đối tượng xã hội cần đặc biệt 
quan tâm. Đi vào kinh tế thị trường, xây dựng đạo đức của tầng lớp doanh nhân, của người sản xuất kinh doanh cùng với pháp luật sẽ đảm 
bảo cho văn hoá kinh doanh định hình và phát triển. Việc thực hành đạo đức cách mạng theo gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh như vậy sẽ 
bao quát toàn diện các đối tượng xã hội, từ trong Đảng, trong Nhà nước tới các cộng đồng dân cư. Nói đi đôi với làm theo tư tưởng Hồ Chí 
Minh, thống nhất nhận thức với hành động hướng tới cơ sở, tới dân chúng là mục đích và thước đo tính trung thực đạo đức mà chúng ta 
cần đạt tới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 

III) NỘI DUNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình 
đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác ­ Lênin. Đó là sự 
tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu 
được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người.
   Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo 
đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách 


mạng.
   1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người.
   ­ Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 
điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, 
với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một
nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách 
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
   ­ Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. 
Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người 
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. 
   Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp 
khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, 
mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không 
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”. 
   ­ Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là: 
   + Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
   + Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng. 
   + Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, 
không chịu cúi đầu. 
   + Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. 

   + Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. 
   ­ Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu 
phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải 
tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
   ­ Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã 
hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với 
người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở 
thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm 
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. 
   2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh 
   a. Trung với nước, hiếu với dân 
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện 
mới. 
­ Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường 
quốc năm châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều 
của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”... 
  ­ Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”. 
  ­ Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối 
trung thành với Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. 
­ Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan
tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
  Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng
đồng, đất nước. 
  b. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình 
  Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân 
văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương 
con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội. 
  ­ Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã 
hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để 
phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. 

  ­ Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng 
con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. 
  ­ Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, 
giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ. 
  ­ Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
  Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác ­ Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ 
nghĩa Mác ­ Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ 
nghĩa Mác ­ Lênin được". 
  c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư 
  Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo 
đức của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”. 


  ­ Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích
cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm. 
  + Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười
biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”. 
  + Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; 
“không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...”. 
  Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác. 
  + Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân 
dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình...”. 
  + Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, 
không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. 
Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. 
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ. 
  ­ Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem 
lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo 
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn "chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. 
  Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật. 

  ­ Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, 
đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. 
  d. Tinh thần quốc tế trong sáng 
  Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi 
toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi 
lạc của phong trào cộng sản quốc tế. 
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện trong các điểm sau: 
  ­ Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. 
  ­ Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”. 
  ­ Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. 
­ Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi 
biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc... 
  3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới 
  Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, 
giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là: 
  a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức 
  ­ Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. 
  ­ Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất 
quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm 
gương cho cán bộ, nhân viên... 
­ Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta 
được họ yêu mến. 
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt 
chước” . 
  b. Xây đi đôi với chống 
  ­ Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, 
xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục 
đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
  ­ Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất
chung nhất phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với 

từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi 
người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện. 
­ Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn 
chặn. 
  ­ Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. 
Người đã phát động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống. 
  c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời 
  ­ Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “đạo đức cách mạng không phải 
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng 
luyện càng trong”. 
  ­ Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn 
lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ 
nghĩa cá nhân”. 
  ­ Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có 


ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy 
và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như
trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình. 
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức 
tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Hơn 
lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo 
đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân. Kế thừa truyền thống 
đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng để khắc phục 
sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định 
chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi người 
chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ 
đại. 
Thứ nhất, luôn xác định cho thế hệ trẻ biết ngoài 3 nguy cơ đang đặt ra cho đất nước ta về xu hướng chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tụt hậu
về kinh tế và diễn biến hoà bình cần quan tâm đến một nguy cơ nữa: nguy cơ của chính giới trẻ không nhận thức được những nguy cơ trên.

Cần tạo những kênh thông tin chính thức cho thế hệ trẻ về những vấn đề đang đặt ra cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, những kênh
thông tin đó cần cởi mở, nhẹ nhàng, kịp thời và thường xuyên hơn. Thực tế, tuổi trẻ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã và
đang thực hiện tốt được nhiệm vụ này, qua hệ thống truyền thông khác nhau như phòng Thông tin, Bảng tin, Tờ tin nội bộ, Tờ tin sinh hoạt
chi đoàn hàng tháng, các buổi nói chuyện chuyên đề, trang bị báo Tiền phong, Sinh viên cho tất cả các chi đoàn… phần nào đã đáp ứng
được nhu cầu thông tin của đoàn viên sinh viên trong tình hình hiện nay. Đó là nguồn thông tin có định hướng, là hình thức tăng cường
nhận thức về chính trị nâng cao về lập trường tư tưởng cho thế hệ trẻ trong tình hình hiện nay. Từ vấn đề này, chúng tôi thiết nghĩ nắm bắt
dư luận thanh niên, sinh viên là một điều rất quan trọng nhưng việc định hướng tư tưởng cho thế hệ trẻ lại quan trọng hơn rất nhiều.
Thứ hai, thế hệ trẻ là nguồn nhân lực quan trọng cho nước nhà trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhiệm vụ mới đang đặt ra: làm
sao để có thể phát huy hơn nữa năng lực, trí tuệ thanh niên sinh viên Việt Nam ngày hôm nay với tư cách lực lượng nòng cốt cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, những chủ thể đại diện cho tương lai của dân tộc thông qua những hành động cụ thể phù hợp với đặc điểm của
lực lượng xã hội này. Trong những năm qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều phong trào thanh niên sinh viên sôi nổi và hiệu quả cao ở khắp
mọi miền Tổ quốc. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào và tin tưởng về những kết quả đạt được từ những phong trào đó. Đây thực sự là một
cơ sở thuận lợi để khơi dậy hơn nữa tinh thần chủ động và sáng tạo tham gia hoạt động đóng góp xây dựng của thanh niên sinh viên. Chúng
tôi muốn nhấn mạnh ở đây những đặc điểm, thế mạnh riêng của từng nhóm thanh niên, sinh viên, làm thế nào để họ chủ động phát huy khả
năng của mình. Điều này không thể xảy ra nếu các hoạt động của thanh niên sinh viên chỉ diễn ra trong khuôn khổ của những phong trào bề
rộng được phát động theo một chiều đơn nhất từ trung ương xuống cấp cơ sở, mà chủ yếu phải là từ chính những sáng kiến từ cấp cơ sở,
từ chính từng đoàn viên thanh niên.
Trên thực tế, những thành công trong các hoạt động của tuổi trẻ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong thời gian qua đã củng
cố niềm tin này của chúng tôi. Ví dụ: các đội hình sinh viên tình nguyện tại cộng đồng gắn liền với đặc thù chuyên môn đào tạo của Nhà
trường, các đội hình về dạy chữ Hán Nôm, các đội hình về tư vấn tâm lý, điều tra xã hội học, phóng viên tình nguyện, tuyên truyền sức khoẻ
sinh sản…. được tổ chức và đạt hiệu quả tốt một phần nhờ vào việc xác định rõ nội dung hành động trên cơ sở khai thác thế mạnh chuyên
môn của mình. Có thể nói, thế mạnh của sinh viên khối ngành xã hội-nhân văn đã được phát huy cao độ. Cũng chính xuất phát từ nhu cầu
được thể hiện tính chuyên môn của thế hệ trẻ, tuổi trẻ Nhà trường đã biết thu hút các nguồn lực từ các tổ chức phi chính phủ thành nguồn
lực của chính tuổi trẻ Nhà trường vừa nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ, vừa góp phần tạo những kết quả tốt đẹp cho xã hội.
Thứ ba, theo đúng tinh thần hành động giản dị và thiết thực của Hồ Chủ tịch, khi phát động tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, trong
nhiều chủ đề chúng ta có thể khai thác, theo tôi, chúng ta cần lưu ý đến khía cạnh văn hoá, tri thức thanh niên sinh viên. Cụ thể, đó là việc
hoàn thiện mình từ trong chính sinh hoạt, học tập ngày thường. Bên cạnh việc tuyên truyền, học tập những bài học lý luận, cần chú trọng
hơn nữa đến việc khơi dậy ý thức sống và hành động có văn hóa, học tập tự giác, thái độ suy nghĩ độc lập tự chủ, trí sáng tạo trong thanh
niên sinh viên. Nói một cách giản dị, tinh thần tự cường dân tộc của thanh niên sinh viên ngày nay không chỉ là sự tiếp nối ý chí, quyết tâm
của nhiều lớp ông cha đi trước mà, trong bối cảnh mới ngày nay, còn được mở rộng ra ở tinh thần năng động, óc tư duy sáng tạo độc lập,

thái độ tự tin, đàng hoàng của các bạn trẻ sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay. Để mãi mãi cho biểu tượng độc lập dân tộc, đi
lên chủ nghĩa xã hội trường tồn, thế hệ trẻ phải biết tự trang bị cho mình có thêm những tiêu chí của thanh niên thời đại mới, có tri thức,
năng lực và đặc biệt hơn cần có cái tôi xã hội, mình vì mọi người chứ không thuần tuý chỉ vì sự phát triển đơn thuần của bản thân.
Thứ tư, nói đến việc học tập lý tưởng nêu cao độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh, tôi muốn nhấn mạnh đến một
khía cạnh khác nữa đấy là một lý tưởng chung của toàn thể dân tộc và như vậy, nỗ lực đóng góp của thanh niên sinh viên cần phải được
nhìn nhận trong phạm trù ấy. Điều đó có nghĩa là các hoạt động của thanh niên sinh viên phải nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với những
nhiệm vụ chung của toàn thể dân tộc, đặt trong quỹ đạo định hướng và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Xét ở cấp độ vi mô, tôi xin đề cập đến
hai chiều cạnh. Trước hết, các hoạt động của thanh niên sinh viên phải gắn với lợi ích của cộng đồng. Và tiếp theo, các hoạt động đó chỉ
thực sự có hiệu quả khi nhận được sự tham vấn, chỉ đạo sát sao của cơ quan đoàn hội cấp trên, lãnh đạo Đảng và chính quyền cơ sở. Điều
này đã được minh chứng rất rõ ràng trong thực tiễn công tác. Trên thực tế, những phong trào, hoạt động thành công đều có một phần lớn
nhờ vào sự ủng hộ, hỗ trợ và tạo điều kiện của tổ chức Đảng, chính quyền. Thế hệ trẻ cần tạo nên một cách nhìn mới từ xã hội, hãy làm cho
xã hội tin tưởng hơn và lạc quan hơn về bản thân mình.
Thứ năm, và là vấn đề cuối cùng mà tham luận này muốn đặt ra: nhiều người mải mê tìm kiếm cái cao siêu, to tát ở con người Bác nhưng
không hiểu rằng cái làm nên sự vĩ đại của Hồ Chủ Tịch chính lại là sự giản dị của Người. Việc thực hiện theo lời Bác dạy cũng vậy, chúng ta
cần kiến tạo các hoạt động thật sự gắn liền với hoạt động của thanh niên, hãy tạo sức hút đối với thanh niên từ chính mối quan tâm của
thanh niên; hãy tạo cho thanh niên môi trường hoạt động bằng chính năng lực của họ; từng bước trang bị cho thanh niên không chỉ về kỹ
năng, trình độ chuyên môn mà hãy cho họ niềm tin và sự kỳ vọng…
Nhiệm vụ chính trị của thanh niên Việt Nam là: Rèn luyện về lý tưởng, đạo đức cách mạng, về trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp,
về thể chất, xung kích đi đầu tham gia phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ tổ quốc. Thanh niên Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, quốc tế hoá và hội nhập là người có lý tưởng, đạo đức cách mạng, có lối sống văn hoá, có ý chí tự tôn, tự cường dân tộc, có trình độ
chuyên môn, nghề nghiệp, có cái trách nhiệm với cộng đồng, xã hội trong từng cá nhân.
Chúng tôi cũng hy vọng, bằng những việc làm cụ thể, đặc thù, phù hợp với từng môi trường khác nhau, sẽ giúp cho thế hệ trẻ ngày càng có


trách nhiệm đối với xã hội, ngày càng tích luỹ và tăng khả năng thích ứng của bản thân đối với sự phát triển xã hội trong tình hình mới hiện
nay.
Xin được cùng chia sẻ với các bạn và cùng hy vọng sẽ tạo được nhiều môi trường hoạt động hữu ích hơn cho thế hệ trẻ trong tình hình
mới, để cùng nhau “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”./




×