Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động việt nam và pháp luật cộng hòa liên bang nga dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.59 MB, 115 trang )

BỘ TƢ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT
CỘNG HÒA LIÊN BANG NGA DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)

Hà Nội - 2018


BỘ TƢ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT
CỘNG HÒA LIÊN BANG NGA DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)

Chuyên ngành: Luật Kinh Tế


Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Thị Hằng

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sỹ kinh tế của mình, ngoài sự nỗ lực cố
gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân
và tập thể.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy,
cô giáo trong khoa Kinh tế, khoa Sau đại học – Trường Đại học Luật Hà Nội;
đặc biệt là sự quan tâm chỉ dẫn tận tình của PGS.TS Đào Thị Hằng, người đã
trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Qua đây, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình và bạn bè đã

giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ được viết tắt

Kí hiệu viết tắt

1

Bộ luật lao động

BLLĐ

2

Người lao động

NLĐ

3

Người sử dụng lao động


NSDLĐ

4

Quan hệ lao động

QHLĐ


0

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1 ................................................................................................................7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ PHÁP LUẬT
LAO ĐỘNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ..........................................................7
1.1. Khái niệm bồi thƣờng thiệt hại trong pháp luật lao động ..........................7
1.1.1. Định nghĩa bồi thƣờng thiệt hại ...............................................................7
1.1.2. Định nghĩa bồi thƣờng thiệt hại trong pháp luật lao động .....................9
1.1.3. Căn cứ để áp dụng trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong pháp luật
lao động ..............................................................................................................11
1.2. Sự khác biệt giữa chế độ bồi thƣờng thiệt hại trong luật lao động với
chế độ bồi thƣờng thiệt hại trong luật dân sự ...................................................17
1.2.1. Phạm vi điều chỉnh ..............................................................................17
1.2.2. Đối tƣợng điều chỉnh ...........................................................................18
1.2.3. Chế độ bồi thƣờng thiệt hại .................................................................18
1.3. Pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại .............................................21
1.2.1 Vai trò của pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại .........................21
1.2.2 Nội dung của pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại .....................22
CHƢƠNG 2 ..............................................................................................................28

SO SÁNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG HIỆN HÀNH VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI CỦA VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG NGA .......................................................28
2.1. Bồi thƣờng thiệt hại về tài sản ..................................................................28
2.1.1. Bồi thƣờng thiệt hại về tài sản trong pháp luật lao động Việt Nam..28
2.1.2. Bồi thƣờng thiệt hại về tài sản trong pháp luật lao động Liên bang
Nga
35
2.1.3. Nhận xét ...............................................................................................40
2.2. Bồi thƣờng thiệt hại về sức khỏe, tính mạng...........................................44
2.2.1. Bồi thƣờng thiệt hại về sức khỏe, tính mạng trong pháp luật lao động
Việt Nam ............................................................................................................45
2.2.2. Bồi thƣờng thiệt hại sức khỏe, tính mạng của pháp luật lao động
Liên bang Nga ...................................................................................................52
2.2.3. Nhận xét ...............................................................................................55
2.3. Bồi thƣờng thiệt hại do đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật ...............................................................................................................57


1

2.3.1. Bồi thƣờng thiệt hại do NSDLĐ đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao
động 57
2.3.2. Bồi thƣờng thiệt hại do NLĐ đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật ............................................................................................62
2.4. Bồi thƣờng thiệt hại trong một số trƣờng hợp khác ..............................65
2.4.1. Bồi thƣờng thiệt hại về tiền lƣơng ......................................................65
2.4.2. Bồi thƣờng thiệt hại khi đình công bất hợp pháp ..............................67
2.4.3. Bồi thƣờng thiệt hại khi vi phạm hợp đồng đào tạo ..........................71
2.5.4 Một số trƣờng hợp bồi thƣờng thiệt hại đặc thù của pháp luật lao động
Việt Nam và pháp luật cộng hòa Liên bang Nga .............................................74

CHƢƠNG 3 ..............................................................................................................79
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI............................................................................................................................79
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về bồi thƣờng thiệt
hại 79
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại cần phải khắc
phục những yếu tố bất cập, tồn tại trong quy định pháp luật hiện hành. ......79
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại nhằm mục đích
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao
động. ...................................................................................................................79
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại nhằm đƣa pháp
luật Việt Nam tiến gần hơn với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới.
............................................................................................................................80
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật lao động Việt Nam về bồi thƣờng thiệt hại ......................................81
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật ..............................................81
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi
thƣờng thiệt hại .................................................................................................86
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................91


1

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài


Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và những chuyển biến trong đời
sống xã hội ngày nay, các quan hệ xã hội cũng ngày càng trở nên phức tạp,
phát sinh nhiều mâu thuẫn tranh chấp, đòi hỏi sự điều chỉnh kịp thời của pháp
luật để giải quyết. Trong số đó phải kể đến quan hệ lao động, là một nội dung
quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của hoạt động sản xuất và
nền kinh tế. Việc điều hòa và giải quyết các vấn đề trong pháp luật lao động là
một yêu cầu quan trọng trong pháp luật hiện nay. Đối với quan hệ pháp luật
nói chung và trong quan hệ pháp luật lao động nói riêng, một trong số các vấn
đề được quan tâm chính là việc đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia
quan hệ lao động. Đặc biệt trong lao động sản xuất, các chủ thể luôn có khả
năng gặp phải những thiệt hại về thân thể, vật chất và tinh thần do nhiều
nguyên nhân. Do đó pháp luật lao động đã có nhiều quy định về vấn đề bồi
thường cho những thiệt hại đã phát sinh này, như bồi thường thiệt hại do tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bồi thường thiệt hại liên quan đến tài sản,
bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐLĐ. Các quy định này đã góp phần giải
quyết những vấn đề mâu thuẫn trong quan hệ lao động. Tuy nhiên cùng với sự
phát triển của kinh tế - xã hội, quan hệ lao động cũng ngày càng trở nên phức
tạp, dẫn đến những thiệt hại trong lao động cũng ngày càng đa dạng, phức tạp,
khó xác định được trách nhiệm của các bên liên quan. Điều đó gây khó khăn
cho nhà quản lý cũng như ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể. Do đó pháp luật cần không ngừng hoàn chỉnh và bổ sung các quy
định về bồi thường thiệt hại để đảm bảo tính công bằng của xã hội, sự nghiêm
minh của pháp luật và quyền lợi của các bên liên quan trong quan hệ lao
động.
Nghiên cứu về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động không phải
là một vấn đề mới trong hoạt động nghiên cứu pháp luật ngày nay. Thực tế
cho thấy cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều quốc gia trên thế giới


2


cũng luôn phải có sự điều chỉnh và bổ sung các nội dung về bồi thường thiệt
hại trong lao động. Do đó việc nghiên cứu các vấn đề pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong lao động ở nước ta hiện nay đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần đặt
trong mối tương quan so sánh với nội dung có liên quan trong pháp luật nước
ngoài, nhằm lựa chọn những nội dung thích hợp từ đó xây dựng một hệ thống
các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động phù
hợp với tình hình phát triển và các đặc trưng của Việt Nam.
Nước Cộng hòa Liên bang Nga là một quốc gia có mối quan hệ tốt đẹp
với Việt Nam từ lâu. Trong giai đoạn cuối những năm 80 đầu những năm 90
của thế kỷ 20, cùng với sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới,
Liên bang Nga đã lâm vào một thời kỳ kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó chính phủ Nga đã thực hiện nhiều cải cách đối với đất
nước nói chung và đối với pháp luật nói riêng. Kết quả là sau gần 30 năm,
Liên bang Nga hiện nay đã trở lại vai trò là một cường quốc kinh tế trên thế
giới, có mức tăng trưởng kinh tế và GDP ở mức cao. Góp phần trong sự phát
triển đó, chính là Liên bang Nga có một nền pháp luật nghiêm minh và hiệu
quả. Trong pháp luật về lao động ở Liên bang Nga, các quy định về bồi
thường thiệt hại được quy định chặt chẽ, rõ ràng, qua đó bảo đảm tính công
bằng, nghiêm minh của pháp luật cũng như quyền lợi của các chủ thể tham
gia. Các quy định này có tác dụng so sánh, tham khảo rất tốt đối với hoạt
động nghiên cứu pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại ở Việt Nam hiện
nay.
Theo định hướng phát triển kinh tế hội nhập với quốc tế tầm nhìn 2030
và bắt kịp với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới, đòi hỏi cần
nghiên cứu các nội dung quan trọng trong pháp luật lao động, trong đó có vấn
đề bồi thường thiệt hại. Trong bối cảnh đó, tác giả xin được lựa chọn đề tài
nghiên cứu “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam và pháp
luật cộng hòa Liên bang Nga dưới góc độ so sánh” làm đề tài luận văn Thạc
sĩ Luật học của mình, với mục đích góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật lao



3

động về bồi thường thiệt hại, cũng như bổ sung cho hệ thống các nghiên cứu
pháp luật về bồi thường thiệt hại ở Việt Nam.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

2.1.

Các nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài

Hiện nay mới chỉ có một số nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến bồi
thường thiệt hại trong pháp luật lao động, bao gồm:
- Nguyễn Hữu Chí (chủ biên), Đỗ Gia Thắng (2006), Chế độ bồi thường
trong luật lao động Việt Nam, Nxb Tư pháp
- Nguyễn Thị Bích Nga, 2014, Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên ngành
Luật Kinh tế “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực
tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
- Nguyễn Thị Lan Phương, 2015, Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên
ngành Luật Kinh tế “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam”,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các nghiên cứu này đều có nghiên cứu trực tiếp về bồi thường thiệt hại
trong lĩnh vực pháp luật lao động Việt Nam, và đã có ý nghĩa trong việc
nghiên cứu và hoàn thiện các quy định về bồi thường thiệt hại trong pháp luật
lao động ở Việt Nam. Tuy nhiên các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc
xem xét đánh giá các quy định pháp luật của riêng từng quốc gia, chứ chưa

đặt vấn đề so sánh với quy định về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao
động giữa Việt Nam với quốc gia khác. Trong bối cảnh hiện nay, khi Nhà
nước đặt mục tiêu phát triển nền kinh tế hội nhập với thế giới, việc nghiên
cứu pháp luật cũng cần đặt trong sự so sánh, học hỏi các quy định tương tự
trong pháp luật của các nước có nền pháp luật phát triển. Đây là cơ sở để củng
cố và phát triển hệ thống chế định về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao
động, từ đó tạo đà để phát triển kinh tế, củng cố các quan hệ xã hội.
2.2.

Các nghiên cứu có liên quan gián tiếp đến đề tài


4

Bồi thường thiệt hại là một nội dung quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi
của các chủ thể trong các loại quan hệ xã hội. Hiện nay, đã có nhiều nghiên
cứu liên quan đến bồi thường thiệt hại trên nhiều góc độ của pháp luật Việt
Nam, trong đó gần đây phải kể đến một số đề tài tiêu biểu như:
- Hà Thu Hương, 2013, Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên ngành Pháp
luật về quyền con người “Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước gắn liền với
quyền con người: lý luận và thực tiễn”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phạm Thị Hương, 2014, Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên ngành Luật
dân sự và tố tụng dân sự “Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức
khỏe trong pháp luật Việt Nam”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Đào Thảo Ly, 2014, Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên ngành Luật dân
sự và tố tụng dân sự “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người
khác gây ra theo pháp luật Việt Nam”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Hoàng Thị Thu Thủy, 2017, Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên ngành
Luật Kinh tế “Chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
mua bán hàng hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam”, Học viện Khoa học

xã hội Việt Nam.
- Kulya A.V, 1999, Các quy định chung về bồi thường thiệt hại do tai
nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho NLĐ, Đại học Saint-Petersburg.
- Ngoài ra còn có nhiều bài báo, nghiên cứu khác có liên quan đến bồi
thường thiệt hại ở Việt Nam.
Tất cả các nghiên cứu trên dù không liên quan trực tiếp đến bồi thường
thiệt hại trong pháp luật lao động, nhưng cũng là những tài liệu có tác dụng
tham khảo cần thiết nhằm bổ sung cho những hiểu biết về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ pháp luật, góp phần trong xây dựng, nghiên cứu và so sánh hệ
thống chế định pháp luật về bồi thường thiệt hại ở Việt Nam và Cộng hòa liên
bang Nga.
3.

Mục đích nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên

cứu của luận văn


5

Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý
luận về bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại trong pháp luật
lao động nói riêng. Đồng thời so sánh pháp luật lao động về bồi thường thiệt
hại của Việt Nam và Liên bang Nga để đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật của Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật lao động
bồi thường thiệt hại của Việt Nam và Liên bang Nga.
Pháp luật về bồi thường thiệt hại cần được nghiên cứu trên nhiều phương
diện như bồi thường thiệt hại về tài sản, bồi thường thiệt hại về tính mạng sức
khỏe, bồi thường thiệt hại về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái

pháp luật, một số trường hợp bồi thường khác cũng như giải quyết tranh chấp
về bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trên cơ sở dung lượng của một luận văn
thạc sĩ luật học định hướng nghiên cứu, tác giả không thể trình bày hết những
vấn đề nói trên.
Do đó, trong phạm vi luận văn này, tác giả xin phép chỉ tập trung nghiên
cứu, tìm hiểu và làm sáng tỏ bốn loại bồi thường thiệt hại về tài sản, bồi
thường thiệt hại về tính mạng sức khỏe bồi thường thiệt hại do đơn phương
chấm dứt hợp đồng trái pháp luật và bồi thường thiệt hại trong một số trường
hợp khác theo quy định của pháp luật lao động hiện hành của Việt Nam và
Liên bang Nga từ đó so sánh giữa hai hệ thống pháp luật về vấn đề này.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu luận văn

Trong khuôn khổ đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp hệ thống hóa: Là phương pháp giúp tác giả tập hợp các
tài liệu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại trong
pháp luật lao động ở Việt Nam. Phương pháp này nhằm giúp tiếp cận với cơ
sở lý luận của bội thường thiệt hại trong pháp luật lao động, nhằm nghiên cứu
các quy định hiện hành của pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại dưới
góc độ so sánh với các quy định pháp luật của Liên bang Nga.


6

- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh là phương pháp
nhằm phân tích các nội dung pháp luật lao động hiện hành về bồi thường thiệt
hại của Việt Nam và Liên bang Nga. Phương pháp này nhằm tập hợp các nội
dung pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại ở Việt Nam và Liên bang

Nga.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

- Kết quả nghiên cứu có thể đóng góp nhất định vào việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về bồi thường thiệt hại.
- Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và học
tạp ở các cơ sở đào tạo luật.
- Kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo cho NLĐ, NSDLĐ và
những người quan tâm đến vấn đề bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao
động.
6.

Bố cục của luận văn

Không tính lời cam đoan, danh mục từ viết tắt, Mở đầu, Danh mục tài
liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn được kết cấu làm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại và pháp luật
lao động về bồi thường thiệt hại.
- Chương 2: So sánh pháp luật lao động hiện hành về bồi thường thiệt
hại của Việt Nam và Liên bang Nga.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật lao động Việt Nam về bồi thường thiệt hại.


7

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ

PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
1.1. Khái niệm bồi thƣờng thiệt hại trong pháp luật lao động
1.1.1. Định nghĩa bồi thƣờng thiệt hại
Theo Từ điển tiếng Việt thì thiệt hại là "bị mất mát về của cải, vật chất
hoặc tinh thần"1. Cũng theo từ điển tiếng Việt, bồi thường được hiểu là “trả lại
cho người khác cái có giá trị (thường bằng tiền) tương xứng với những thiệt
hại mà mình đã gây ra”.
Như vậy, dưới góc độ chung nhất, bồi thường thiệt hại là việc người gây
thiệt hại trả lại cho người bị thiệt hại một vật có giá trị (thường là tiền) tương
đương với những mất mát về vật chất hoặc tinh thần mà người đó gây ra cho
người bị thiệt hại. Hành vi này nhằm điều hòa và giải quyết các mối quan hệ
trong xã hội, củng cố sự phát triển hài hòa của cộng đồng.
Dưới góc độ kinh tế, bồi thường thiệt hại là một công cụ quan trọng để
giải quyết các hậu quả mà thiệt hại đem lại. Theo đó bên bị thiệt hại sẽ được
bên gây thiệt hại đền bù một khoản tiền. Đối với bên bị thiệt hại, khoản tiền
này có thể sử dụng để giải quyết hoặc phục hồi phần nào những rủi ro, thiệt
hại về vật chất, tinh thần, thậm chí là thiệt hại về sức khỏe, tính mạng. Còn
bên gây thiệt hại qua đó bù đắp cho hành vi gây thiệt hại của mình. Thông
thường, khi xảy ra thiệt hại, những câu hỏi được đặt ra về vấn đề bồi thường
sẽ thường bao gồm chủ thể nào bị thiệt hại cần được bồi thường, chủ thể nào
có trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường thiệt hại, phương thức bồi thường
thiệt hại. Hơn nữa, bồi thường thiệt hại cũng là một cơ chế để mỗi người
trong xã hội có ý thức tự giác chấp hành các quy tắc, hạn chế gây thiệt hại cho
người khác để tránh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ thiệt hại được hiểu là "tổn thất về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật
1

Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, trang 943, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.



8

bảo vệ"2. Như vậy, thiệt hại có thể phân làm hai loại là thiệt hại về tài sản
(gồm những tài sản bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng, chi phí phải bỏ ra để khắc
phục, ngăn chặn thiệt hại cùng hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng lẽ
phải thu được) và những tổn thất về tinh thần (như danh dự, uy tín, tên tuổi,
nhân thân… là những yếu tố có vai trò trong việc tạo lập, duy trì và phát triển
các mối quan hệ cá nhân và cộng đồng của chủ thể bị xâm hại). Thuật ngữ bồi
thường thể hiện sự đền bù bằng tiền đối với những thiệt hại về vật chất và tinh
thần mà người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm3.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, bồi thường thiệt hại có thể hiểu là sự đền
bù bằng vật chất đối với những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà chủ thể
gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
chủ thể bị thiệt hại. Những quyền và lợi ích hợp pháp này có thể bao gồm
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, vốn góp trong doanh nghiệp,... Quyền và lợi ích hợp pháp
cũng có thể bao gồm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Những quyền này
được bảo vệ thông qua các quy định của nhiều ngành luật khác nhau như: luật
dân sự, luật hình sự, luật lao động, luật thương mại,… Thông qua các quy
định này, nhà nước đảm bảo rằng các chủ thể có hành vi gây thiệt hại có
nghĩa vụ bồi thường, khắc phục hậu quả của những hành vi mình gây ra đối
với chủ thể bị thiệt hại.
Tóm lại, nghiên cứu về bồi thường thiệt hại từ những góc độ khác nhau,
có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về bồi thường thiệt hại như sau: bồi
thường thiệt hại là một trách nhiệm dân sự nhằm buộc người vi phạm nghĩa
vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải khắc phục hậu quả
bằng cách đền bù các tổn thất mà mình đã gây ra.
2


Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội
3
Nguyễn Ngọc Lan (2005), Vấn đề bồi thường thiệt hại theo Luật lao động Việt Nam, tr 8, Luận
văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.


9

1.1.2. Định nghĩa bồi thƣờng thiệt hại trong pháp luật lao động
Trong quá trình thực hiện các quan hệ được luật lao động điều chỉnh có
thể xảy ra những hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích của các bên trong quan
hệ đó, bởi vì khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, NLĐ khó có thể tránh
khỏi những sơ suất, vô ý gây thiệt hại cho NSDLĐ hoặc NSDLĐ vì lợi nhuận
hoặc do những hoàn cảnh nào đó mà vi phạm nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại
cho NLĐ. Để ngăn chặn và khắc phục hậu quả của những hành vi vi phạm
gây thiệt hại, Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó, bồi
thường thiệt hại có thể được coi là một phương tiện pháp lý quan trọng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao động.
Về khái niệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động, cũng đã có
một số công trình nghiên cứu đề cập về vấn đề này. Theo như PGS.TS.
Nguyễn Hữu Chí “bồi thường thiệt hại trong luật lao động là một loại trách
nhiệm pháp lý phát sinh khi một bên trong quan hệ lao động có hành vi vi
phạm nghĩa vụ, gây thiệt hại cho bên kia nhằm khôi phục tình trạng tài sản,
bù đắp tổn thất về tinh thần, sức khỏe cho người bị thiệt hại”4. Một ý kiến
khác tương tự cũng đề cập cụ thể. Theo đó, bồi thường thiệt hại trong QHLĐ
“là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi một bên trong quan hệ lao
động có hành vi vi phạm pháp luật lao động, gây thiệt hại cho bên kia nhằm
khôi phục tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất về tinh thần, sức khỏe cho người

bị thiệt hại”5. Cách định nghĩa này có nhiều điểm tương đồng với định nghĩa
về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động của PGS.TS Nguyễn Hữu Chí.
Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Thị Bích
Nga đưa ra quan điểm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động chỉ phát
sinh khi có vi phạm pháp luật lao động.
Nguyễn Hữu Chí (chủ biên), Đỗ Gia Thắng (2006), Chế độ bồi thường trong luật lao động Việt
Nam, trang 45, Nxb Tư pháp
5
Nguyễn Thị Bích Nga (2014), Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực
tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trang 16, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội.
4


10

Theo cách hiểu trên, bồi thường thiệt hại theo luật lao động là một loại
trách nhiệm pháp lý phát sinh khi một chủ thể trong quan hệ pháp luật lao
động có hành vi trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho chủ thể phía bên kia.
Tuy nhiên, cách hiểu này chưa bao hàm được hết các trường hợp bồi thường
thiệt hại trong luật lao động trên thực tế, bởi trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
không phải chỉ xuất phát từ các chủ thể trong quan hệ lao động, mà trong một
số trường hợp còn xuất phát từ các chủ thể của quan hệ liên quan đến quan hệ
lao động, chẳng hạn như quan hệ pháp luật về học nghề, việc làm, hay quan
hệ pháp luật về đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Còn trong luật lao động của cộng hòa Liên bang Nga, định nghĩa bồi
thường được quy định cụ thể tại Điều 164 “Bồi thường là các khoản thanh
toán bằng tiền, được thiết lập để bù đắp chi phí của nhân viên liên quan đến
quá trình lao động của mình và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật liên bang”. Quan điểm này cũng có điểm tương đồng với khái niệm về

bồi thường thiệt hại mà PGS.TS Nguyễn Hữu Chí đưa ra.
Như vậy, bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động có thể hiểu như
sau:
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động là trách nhiệm
pháp lý phát sinh khi một bên chủ thể trong quan hệ lao động hoặc
quan hệ liên quan đến quan hệ lao động có hành vi trực tiếp hay
gián tiếp gây thiệt hại cho chủ thể bên kia, nhằm bù đắp những tổn
thất về vật chất, sức khỏe, tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp những tổn thất
về vật chất, tinh thần hay tính mạng, sức khỏe do hành vi gây thiệt hại gây ra.
Việc xác định mức bồi thường thường căn cứ vào mức độ thiệt hại, hình thức
lỗi của người gây thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể và được trả bằng tiền
để bên bị thiệt hại dễ dàng sử dụng nhằm bù đắp những thiệt hại xảy ra. Chế
định bồi thường thiệt hại trong luật lao động có vai trò quan trọng trong việc


11

đảm bảo củng cố kỷ luật lao động, cũng như đảm bảo lợi ích của các bên
tham gia vào quan hệ lao động và quan hệ liên quan đến quan hệ lao động.
Trong lĩnh vực pháp luật lao động cũng có thể có các loại bồi thường
thiệt hại khác nhau. Cụ thể, có các loại bồi thường thiệt hại cơ bản sau đây:
- Bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe: Trong quá trình lao động,
là người trực tiếp thực hiện các thao tác nghiệp vụ trong sản xuất nên khi gặp
sự cố tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp thì NLĐ sẽ bị ảnh hưởng trực
tiếp đến tính mạng, sức khỏe của họ. Trong trường hợp đó, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trước hết thuộc về NSDLĐ nếu họ có lỗi để xảy ra tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp.
- Bồi thường thiệt hại về tài sản: Trong quá trình lao động phải sử dụng
tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất. Khi xảy ra hỏng hóc, mất mát về mặt tài

sản, bên có hành vi vi phạm, gây tổn hại về tài sản cho bên kia phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Thông thường thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thường chỉ áp dụng đối với NLĐ, nhưng trong một số trường hợp trách nhiệm
này còn áp dụng cho cả NSDLĐ hoặc người thứ ba có liên quan đến quan hệ
lao động.
- Bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật:
Khi giao kết HĐLĐ, các bên có quyền tự do thỏa thuận theo ý chí của mình
trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Sau khi hợp đồng đã có hiệu lực, NLĐ
và NSDLĐ phải tuân theo những quy định của luật lao động và những thỏa
thuận trong hợp đồng. Vì vậy, khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp
luật, trách nhiệm bồi thường có thể thuộc về bất cứ chủ thể nào tham gia quan
hệ pháp luật lao động đã có hành vi gây thiệt hại đối với chủ thể phía bên kia.
Ngoài ra, còn có thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại của một số chủ thể
trong các trường hợp khác.
1.1.3. Căn cứ để áp dụng trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong pháp
luật lao động
Chế độ bồi thường thiệt hại trong luật lao động là tổng hợp các quy
định về căn cứ, mức độ, phạm vi, cách thức, biện pháp thực hiện bồi thường


12

thiệt hại mà căn cứ vào đó các bên có liên quan thực hiện nghĩa vụ bồi thường
khi xảy ra những điều kiện thỏa mãn quy định của pháp luật hoặc sự thỏa
thuận của các bên trong quan hệ lao động.
Khi đề cập tới một loại chế độ về một vấn đề nào đó là ta đề cập đến
tổng hợp những quy định về vấn đề đó, những quy định này có thể do pháp
luật quy định hay do các bên thỏa thuận. Trong luật lao động, chế độ bồi
thường cũng là tổng hợp những quy định của pháp luật và thỏa thuận của các
bên trong hợp đồng lao động, hợp đồng học nghề hay hợp đồng trách nhiệm

về trách nhiệm bồi thường khi có hành vi gây thiệt hại. Nếu như không có
những quy định này thì không thể áp dụng trách nhiệm bồi thường đối với
người vi phạm.
Phạm vi áp dụng của chế độ là áp dụng đối với toàn bộ thiệt hại phát
sinh trong quan hệ lao động và các quan hệ có liên quan đến quan hệ lao
động.
Điều đặc biệt là mặc dù quan hệ lao động là quan hệ song phương
giữa NLĐ và NSDLĐ song chế độ bồi thường thiệt hại trong luật lao động
không chỉ áp dụng đối với những chủ thể của quan hệ lao động mà còn áp
dụng với người thứ ba có liên quan. Đó có thể là cha mẹ, người đại diện hợp
pháp của người lao động trong những trường hợp NLĐ chưa thành niên.
Mục đích của việc truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là buộc
chủ thể vi phạm phải gánh chịu hậu quả bất lợi về tài sản, bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của bên bị vi phạm trong quan hệ lao động. Do đó việc qui định
bồi thường thiệt hại do gây thiệt hại cho một người không thể xác định một
cách tùy tiện, vô căn cứ, nhất là trong quan hệ lao động thì NLĐ là đối tượng
chủ yếu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì vậy, chế độ bồi thường
trong luật lao động nói riêng và pháp luật nói chung đã quy định việc giải
quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra phải căn cứ trên
các dấu hiệu có tính điều kiện. Theo pháp luật lao động Việt Nam, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ bốn điều kiện sau đây.


13

1.1.3.1. Có hành vi vi phạm gây thiệt hại
Từ góc độ pháp lý, một hành vi không thể thể bị coi là trái pháp luật
và chủ thể thực hiện hành vi đó không phải gánh chịu trách nhiệm nếu có thiệt
hại xảy ra khi hành vi đó không bị pháp luật cấm, cho dù nó có trái đạo đức
hay bị dư luận xã hội lên án. Hành vi trái pháp luật thường được biểu hiện ở

hành động vi phạm những quy định của pháp luật hoặc cũng có thể được biểu
hiện dưới dạng không hành động (không thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật quy
định phải thực hiện hoặc thực hiện không đúng với các yêu cầu của pháp luật)
nên gây thiệt hại cho xã hội.
Hành vi vi phạm pháp luật lao động là hành vi trái pháp luật lao động
do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp luật lao động thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý xâm phạm tới quan hệ lao động và các quan hệ liên quan đến
quan hệ lao động được pháp luật bảo vệ và phải chịu trách nhiệm pháp lý
thích hợp. Đối với NLĐ thì hành vi vi phạm được thể hiện bằng hành vi vi
phạm kỷ luật lao động, không hoàn thành nghĩa vụ lao động được giao hoặc
thực hiện không đúng những nghĩa vụ đó, vi phạm hợp đồng lao động. Đối
với NSDLĐ là hành vi vi phạm các quy định về an toàn, vệ sinh lao động, vi
phạm hợp đồng lao động...
Vi phạm pháp luật lao động được thể hiện ở dạng không hành động
hoặc hành động.
Vi phạm pháp luật lao động có thể chia thành hai loại là vi phạm trực
tiếp và vi phạm gián tiếp. Vi phạm trực tiếp pháp luật lao động là những hành
vi trái với quy định của Nhà nước về quan hệ lao động, về an toàn, vệ sinh lao
động và những quy định trong lĩnh vực quản lý lao động. Vi phạm gián tiếp
các quy định của pháp luật lao động là những hành vi vi phạm các qui định
khác có tính chất thỏa thuận trong quan hệ lao động như vi phạm thỏa ước lao
động tập thể, vi phạm hợp đồng lao động, vi phạm nội quy lao động. Tuy có
sự phân biệt này song xét đến cùng thì những vi phạm trên đều là vi phạm
quy định của luật lao động, vì mặc dù vi phạm gián tiếp chỉ là vi phạm sự


14

thỏa thuận nhưng các thỏa thuận đó vẫn phải dựa trên cơ sở các quy định của
BLLĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành về các vấn đề như tiền lương, bảo

hiểm xã hội, bảo hộ lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, kỷ luật
lao động... và khi có sự vi phạm sẽ xử lý bằng pháp luật.
1.1.3.2. Có thiệt hại xảy ra
Là một yếu tố cấu thành cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
đây là một điều kiện được coi là bắt buộc và quyết định việc có phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không. Thiệt hại xảy ra trong quan hệ
pháp luật lao động khác với thiệt hại trong quan hệ pháp luật hình sự vì trách
nhiệm hình sự được đặt ra do tính chất nguy hiểm của hành vi gây ra hoặc có
khả năng gây ra hậu quả mà phải chịu trách nhiệm hình sự, còn đối với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động phải phát sinh thiệt hại dù
là thiệt hại không nghiêm trọng thì người gây thiệt hại mới phải bồi thường.
NLĐ khi tham gia vào quan hệ lao động cần được bảo đảm về tính mạng, sức
khỏe, cần được bảo đảm nguồn thu nhập ổn định do bán sức lao động. Còn
NSDLĐ khi bỏ vốn ra đầu tư không những mong muốn bảo toàn tài sản mà
còn muốn thu được lợi nhuận.
Do đó, thiệt hại trong quan hệ lao động chính là sự giảm sút về số lượng
cũng như chất lượng của hàng hóa sức lao động, là thiệt hại về tài sản và thu
nhập đáng lẽ ra các bên có được hoặc là những thiệt hại về danh dự, uy tín
của các bên. Tuy nhiên, tính chất của thiệt hại phải như thế nào mới đặt ra vấn
đề bồi thường thiệt hại. Yêu cầu đối với những nhà làm luật và những người
áp dụng pháp luật khi đánh giá một thiệt hại làm cơ sở cho việc quy trách
nhiệm bồi thường thiệt hại là phải nhìn nhận thiệt hại một cách khách quan.
Có thiệt hại xảy ra và thiệt hại đó phải trị giá được bằng tiền, được thể hiện
bằng sự giảm sút thu nhập của NLĐ, sự mất mát về tư liệu sản xuất của
NSDLĐ... (nếu thiệt hại về tài sản) và tính mạng, sức khỏe, danh dự bị xâm
phạm của NLĐ... (nếu là thiệt hại tinh thần) thì mới đặt ra trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Thiệt hại do luật lao động điều chỉnh có thể phân chia thành


15


nhiều loại như thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần, cũng có thể phân
thành thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
1.1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và sự
thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi thiệt hại là kết quả
trực tiếp tất yếu của hành vi vi phạm. Đó là mối liên hệ của sự vận động nội
tại mà về nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả và hành vi trái
pháp luật phải là nguyên nhân trực tiếp hoặc là nguyên nhân quan trọng có ý
nghĩa quyết định với việc xảy ra thiệt hại. Đây là mối quan hệ biểu hiện nội
dung của cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả trong phép duy vật biện chứng.
Một thiệt hại có thể xảy ra do một hoặc nhiều hành vi trái pháp luật và
ngược lại, một hành vi trái pháp luật có thể gây ra nhiều thiệt hại khác nhau.
Điều quan trọng là phải xác định hành vi trái pháp luật gây thiệt hại là hành vi
độc lập hay ở trong mối quan hệ tổng hợp và có sự tác động qua lại của nhiều
hiện tượng chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại, phải xem xét
trường hợp thiệt hại xảy ra có thể là do một hành vi trái pháp luật khác xen
vào gây ra chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng thực tế làm phát
sinh thiệt hại gây ra. Hành vi trái pháp luật (với vai trò là nguyên nhân) có ý
nghĩa quyết định làm phát sinh thiệt hại, nhưng diễn biến của thiệt hại xảy ra
theo chiều hướng nào thì lại phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác tác
động vào. Hành vi trái pháp luật, tự nó mới chỉ có khả năng gây thiệt hại chứ
chưa được xác định hoàn toàn. Thiệt hại trên thực tế thì tùy từng hoàn cảnh,
điều kiện khác nhau sẽ có hậu quả khác nhau. Xem xét mối quan hệ này,
ngoài ý nghĩa làm căn cứ cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
còn có ý nghĩa xác định mức bồi thường thiệt hại. Vì vậy, ta phải đánh giá tất
cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan, toàn diện và đầy
đủ, từ đó mới có thể rút ra kết luận đúng đắn. Nói tóm lại, để đánh giá chính
xác mối quan hệ nhân quả cần phải chú ý đến nhiều vấn đề, trong đó cần xác
định chính xác những vấn đề chủ yếu sau:



16

-

Hành vi vi phạm phải xảy ra trước hậu quả thiệt hại;

-

Hành vi vi phạm xảy ra độc lập hoặc trong mối liên hệ với các sự

kiện, hiện tượng khác, phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu
quả;
-

Đối với hậu quả thiệt hại xảy ra phải là sự hiện thực hóa khả

năng thực tế làm phát sinh thiệt hại của hành vi vi phạm.
1.1.3.4. Có lỗi của người vi phạm
Lỗi là trạng thái tâm lý của con người nhận thức được hành vi vi phạm
và hậu quả của hành vi đó. Lỗi được xem là biểu hiện của thái độ tiêu cực
chống đối xã hội của chủ thể vi phạm.
Hành vi là biểu hiện bên ngoài, là yếu tố vật chất thực tế của lỗi. Một
hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả
của sự tự lựa chọn và quyết định của một chủ thể trong khi chủ thể đó có đủ
điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn một xử sự khác phù hợp hơn
với yêu cầu của xã hội. Nhưng vì chủ thể đã lựa chọn và thực hiện hành vi
gây thiệt hại nên chủ thể đó sẽ bị coi là có lỗi trong hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại của mình. Lỗi được xem như là thước đo của trách nhiệm pháp lý và

suy cho cùng, mọi trách nhiệm pháp lý do lỗi đều gắn liền với một hành vi,
tức là sự biểu lộ ra ngoài ý chí của một người thông qua cách xử sự cụ thể.
Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại của luật lao động cũng như
trong luật dân sự được chia làm hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý là lỗi
của một bên nhận thức rõ hành vi của mình vi phạm pháp luật lao động, vi
phạm hợp đồng lao động và sẽ gây thiệt hại cho phía bên kia mà vẫn thực
hiện dù mong muốn hoặc không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho
thiệt hại xảy ra. Lỗi vô ý là lỗi của một bên không thấy trước được hành vi
của mình có khả năng gây ra thiệt hại cho bên kia dù phải biết hoặc có thể biết
trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy được thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.


17

Tuy nhiên pháp luật lao động với điểm đặc thù là bảo vệ người lao
động nên đương nhiên những quy định về chế độ bồi thường có nhiều điểm
khác biệt so với các ngành luật khác. Thông thường, bồi thường thiệt hại chỉ
đặt ra khi thoả mãn cả bốn điều kiện trên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
nhất định trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi không có đủ
các điều kiện trên. Ví dụ như trong trường NLĐ và NSDLĐ đã kí kết hợp
đồng trách nhiệm trong dó có điều khoản về bảo quản tài sản của NSDLĐ,
nếu NLĐ gây thiệt hại, cho dù NLĐ có lỗi hay không có lỗi thì đều phải bồi
thường theo thỏa thuận trước đó.
Ngoài ra để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại với NLĐ thì cần
phải xem xét đến các yếu tố khác như tài sản, hoàn cảnh gia đình, tâm lý, sức
khỏe, khả năng, kinh nghiệm làm việc... của họ để vừa đảm bảo cuộc sống
cho NLĐ vừa đảm bảo quyền lợi cho NSDLĐ.
1.2.


Sự khác biệt giữa chế độ bồi thƣờng thiệt hại trong luật lao

động với chế độ bồi thƣờng thiệt hại trong luật dân sự
1.2.1. Phạm vi điều chỉnh
Nếu như Bộ luật Dân sự điều chỉnh các quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động thì luật lao động điều chỉnh các
quan hệ lao động giữa NLĐ làm công ăn lương với NSDLĐ và các quan hệ
xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động, trong đó QHLĐ được coi là
nền tảng, là tiền đề của nhiều quan hệ khác có liên quan.
Các QHLĐ đó được thiết lập dưới hình thức hợp đồng lao động. Mặc dù
đều là mối quan hệ thiết lập trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện, bình đẳng nhưng
điểm khác biệt cơ bản giữa hợp đồng lao động với hợp đồng dân sự là ở chỗ
đối tượng của hợp đồng lao động không phải là hàng hóa, dịch vụ thông
thường mà là việc làm, là sức lao động - một thứ hàng hóa đặc biệt trong nền
kinh tế thị trường. Việc ký kết hợp đồng lao động gắn liền với tư cách cá
nhân, có tính chất đích danh nên các chủ thể không thể chuyển giao quyền và
nghĩa vụ lao động của họ cho người khác.


18

1.2.2. Đối tƣợng điều chỉnh
Bồi thường thiệt hại trong luật lao động chỉ phát sinh trên cơ sở tồn tại
một quan hệ lao động, dưới hình thức một hợp đồng lao động. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong luật dân sự không chỉ phát sinh dựa trên quan hệ
hợp đồng dân sự mà có thể phát sinh dựa trên hành vi gây thiệt hại ngoài hợp
đồng, có nghĩa là giữa các bên không cần tồn tại một quan hệ hợp đồng nào
cả cũng có thể phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu như hành vi đó
trái pháp luật và gây thiệt hại cho chủ thể khác. Mặt khác, chủ thể tham gia
quan hệ bồi thường thiệt hại trong luật lao động chỉ có thể là NLĐ, NSDLĐ

trong khi đó chủ thể tham gia quan hệ bồi thường thiệt hại trong các ngành
luật dân sự, có thể là cá nhân, tổ chức bất kỳ thỏa mãn điều kiện của luật dân
sự.
1.2.3. Chế độ bồi thƣờng thiệt hại
Xuất phát từ những đặc trưng nêu trên nên vấn đề bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động cũng mang những nét tương đồng và khác biệt so với
bồi thường thiệt hại trong quan hệ dân sự. Phát sinh trong quan hệ hợp đồng,
gắn liền với hành vi vi phạm và lỗi của người vi phạm... là những đặc điểm
chung của bồi thường thiệt hại trong tất cả các ngành luật. Bên cạnh đó, bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động còn có một số điểm khác biệt cơ bản
so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các quan hệ khác.
1.2.3.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của
Luật Lao động cũng như trong Luật Dân sự đều đòi hỏi bốn yếu tố: hành vi vi
phạm, thiệt hại về tài sản, quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
xảy ra và có lỗi của người vi phạm. Tuy nhiên, căn cứ để xác định hành vi vi
phạm hợp đồng trong luật lao động không chỉ bao gồm các cam kết trong hợp
đồng, quy định của pháp luật mà còn là quy định trong nội quy đơn vị sử
dụng lao động. Đặc biệt là khi NSDLĐ áp dụng trách nhiệm vật chất đối với
NLĐ, nếu không có nội quy lao động quy định trước thì NSDLĐ không thể


×