Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và thực tiễn tại các tòa án nhân dân ở tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TRỌNG BÌNH

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: TS.HOÀNG NGỌC THỈNH

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Trọng Bình



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN
CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.................................................... 8
1.1. Nhận thức chung về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự............ 8
1.1.1. Khái niệm các biện pháp khẩn cấp tạm thời ................................................. 8
1.1.2. Khái niệm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự ...... 10
1.1.3. Đặc điểm của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. 13
1.1.4. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
các vụ án dân sự .................................................................................................... 17
1.2. Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời18
1.2.1. Các loại biện pháp khẩn cấp tạm thời ......................................................... 18
1.2.2. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ............................................ 32
1.2.3. Thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm ................................... 41
1.2.4. Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời ......................................................................................... 43
1.2.5. Trách nhiệm do việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng ... 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 48
Chương 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA VÀ KIẾN NGHỊ .............. 50
2.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án ở tỉnh Sơn
La và nguyên nhân ................................................................................................ 50
2.1.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án ở tỉnh Sơn La . 50
2.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời của các Tòa án ở tỉnh Sơn La ......................................... 59
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng pháp luật về
biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án ở tỉnh Sơn La ........................................ 65
2.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời..... 65



2.2.2.Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời của các Tòa án ở tỉnh Sơn La ........................................................................ 67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 73


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS

Tố tụng dân sự

BLDS

Bộ luật dân sự

PLTTDS

Pháp luật Tố tụng dân sự

HĐTP

Hội đồng thẩm phán


HĐXX

Hội đồng xét xử

ADBPKCTT

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

BPKC

Biện pháp khẩn cấp

KCTT

Khẩn cấp tạm thời

TAND

Tòa án Nhân dân

TANDTC

Tòa án Nhân dân tối cao

TATC


Tòa án tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VADS

Vụ án dân sự

HĐND

Hội đồng Nhân dân

UBND

Uỷ ban Nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bảo vệ các quyền con người là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong
quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Một trong các phương thức bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, quyền dân sự của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức là thông qua con đường khởi kiện và giải quyết tranh chấp, yêu cầu tại Tòa
án. Tại Điều 2 và 14 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”, “Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác

có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân”.
Để bảo vệ tốt nhất quyền dân sự của chủ thể, đòi hỏi Tòa án phải giải
quyết các vụ án dân sự kịp thời, nhanh chóng nhằm ổn định các quan hệ xã
hội và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Để đáp
ứng mục tiêu này, trong những trường hợp cần thiết, Tòa án có thể áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Với việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án có thể kịp thời giải
quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng
hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục hoặc đảm bảo thi hành án.
Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày càng hoàn thiện và
hiện nay được quy định tại Chương VIII BLTTDS năm 2015 từ Điều 111 đến
Điều 142. Theo đó, BLTTDS đã bổ sung thêm một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời mới phù hợp với các văn bản pháp luật khác có liên quan và thực tiễn giải
quyết các vụ việc dân sự. Đây là cơ sở pháp lý để Toà án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) được nhanh chóng, chính xác, là phương tiện để
cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy
nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của
các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La cho thấy các quy định của BLTTDS năm


2

2015 về biện pháp khẩn cấp tạm thời còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa
đáp ứng được thực tiễn xét xử. Mặt khác, do trình độ của đội ngũ cán bộ, nhận
thức của đương sự cũng như trình độ dân trí và điều kiện kinh tế, xã hội của
tỉnh Sơn La cũng dẫn đến những khó khăn nhất định cho các Tòa án ở tỉnh Sơn
La khi áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm và trong một số trường hợp đã ảnh
hưởng đến kết quả giải quyết vụ án dân sự của Tòa án, làm thiệt hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Nhận thức được những hạn chế, bất cập trong các quy định của

BLTTDS, từ thực tiễn áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của các Tòa
án ở tỉnh Sơn La em đã chọn đề tài “Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tố tụng dân sự và thực tiễn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La” làm
luận văn thạc sĩ ứng dụng của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự là một chế định
quan trọng, xuất phát từ vai trò và ý nghĩa thực tiễn của nó nên nhận được sự
quan tâm, đóng góp ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những
người làm công tác thực tiễn... Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều công trình
nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh khác nhau dưới các mức độ khác nhau về
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Có thể điểm qua một số công
trình nghiên cứu và các bài viết có liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tố tụng dân sự như sau:
Tác giả Trần Anh Tuấn đã có một số bài viết nghiên cứu về vấn đề này
gồm: “Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự” đăng trên
Tạp chí Luật học số đặc san Góp ý Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
và bài viết “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong BLTTDS và thực tiễn áp
dụng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 12 (165) năm 2005. Hai công trình
nghiên cứu này đã xây dựng nền tảng lý luận căn bản về biện pháp khẩn cấp


3

tạm thời. Tiếp theo đó, những vấn đề lý luận về biện pháp khẩn cấp tạm thời
được tác giả tiếp tục phát triển và hoàn thiện trong đề tài khoa học cấp trường
"Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định
hướng cải cách tư pháp", bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010.
Tác giả Trần Phương Thảo có 05 bài viết gồm: "Chế định biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong TTDS " đăng trên Tạp chí luật học số đặc san về BLTTDS
năm 2005; "Bàn về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không

đúng quy định tại Điều 101 BLTTDS " đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 19
năm 2009; "Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong BLTTDS
Việt Nam" đăng trên Tạp chí Luật học số 4 năm 2010; "Một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
Bộ luật TTDS "đăng trên Tạp chí kiểm sát số 24 năm 2010 và bài viết: "Bàn về
các Biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật TTDS" đăng trên
Tạp chí Luật học số 3 năm 2011. Sau khi công bố 05 công trình nghiên cứu nêu
trên, tháng 5/2012 tác giả Trần Phương Thảo tiếp tục bảo vệ thành công luận án
tiến sỹ luật học về "Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự". Gần đây
TS.Trần Phương Thảo cũng là chủ nhiệm Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường
"Biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015" và được bảo vệ thành công năm 2017. Ngoài ra, còn có một số bài viết có
đóng góp về vấn đề này như bài viết: "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án" của tác giả Nguyễn
Bích Thảo đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9 năm 2008; bài viết "Áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp về kinh doanh
thương mại tại Tòa án, những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện BLTTDS" của
tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3
năm 2010...v.v. Luận văn thạc sĩ luật học của học viên Nguyễn Thị Thủy, Khoa
Luật đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài “Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm”, năm 2013.


4

Tuy nhiên, trong các công trình này, các tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp khẩn cấp tạm thời nói chung
trong tố tụng dân sự mà không nghiên cứu chuyên sâu về việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Toà án cấp sơ
thẩm với tư cách là hoạt động chuyên biệt của Toà án. Vì vậy, đề tài "Áp dụng

biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và thực tiễn tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Sơn La" là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời ở các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ hơn những vấn đề chung về áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong tố tụng dân sự.
- Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng dân sự qua thực tiễn áp dụng của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
- Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
pháp luật về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án
dân sự của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để thực hiện được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài phải
làm rõ những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề chung về áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong tố tụng dân sự.
- Đánh giá được đúng thực trạng các quy định của pháp luật TTDS Việt
Nam hiện hành về điều kiện, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong tố tụng dân sự.


5

- Đưa ra được những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực hiện pháp luật về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
các vụ án dân sự của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề chung về áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự; các quy định của pháp luật
TTDS Việt Nam hiện hành về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự; thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ án
dân sự tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La từ năm 2014 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sĩ luật học ứng dụng, tác
giả chỉ tập trung vào nghiên cứu những vấn đề chủ yếu sau:
+ Luận văn tập trung nghiên cứu về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng thông thường. Luận
văn không nghiên cứu về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải
quyết các vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự.
Luận văn không nghiên cứu về việc áp dụng một số biện pháp khẩn cấp
tạm thời như: Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm
y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp cho người lao động; Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động; Cho
thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác; Cấm xuất cảnh
đối với người có nghĩa vụ; Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình; Tạm
dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu; Bắt giữ


6

tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án và các biện pháp khẩn cấp tạm
thời khác mà luật có quy định.
Bên cạnh đó, do thực tế tại địa phương các Tòa án gần như chưa áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: Tạm dừng việc đóng thầu và các

hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu, bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo
đảm giải quyết vụ án nên luận văn cũng không nghiên cứu các biện pháp này.
Đối với một số biện pháp mà các TAND ở tỉnh Sơn La ít áp dụng luận văn
cũng không nghiên cứu như: Biện pháp buộc người sử dụng lao động tạm ứng
tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí
cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai
nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động, Biện pháp tạm đình
chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định
sa thải người lao động.
+ Luận văn tập trung nghiên cứu về thực tiễn áp áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ án dân sự của các Tòa án nhân dân ở
tỉnh Sơn La từ năm 2014 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử... Phương pháp
thống kê được sử dụng khi xử lí các số liệu cụ thể về các yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn làm rõ hơn khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời.


7

Luận văn phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời qua thực tiễn áp dụng tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Sơn La. Từ những nghiên cứu này luận văn đã chỉ rõ những hạn

chế, bất cập trong các quy định của TTDS về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời, những vướng mắc trong quá trình áp dụng các biện pháp này tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Sơn La; đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo
đảm thực hiện pháp luật về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
7. Về bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 2 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Sơn La và kiến nghị.


8

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Nhận thức chung về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
dân sự
1.1.1. Khái niệm các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự là phương thức hữu
hiệu để giải quyết tranh chấp, yêu cầu dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án là cơ sở pháp lý để phân định quyền và nghĩa vụ của các bên
đương sự. Tuy nhiên, để có được bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự thì việc giải quyết các tranh chấp, yêu
cầu dân sự thường phải tuân theo một quy trình tố tụng dân sự chặt chẽ do
pháp luật quy định. Thông thường, thời gian giải quyết một vụ việc dân sự ít
nhất từ 3 tháng và không xác định thời hạn tối đa. Nếu không có biện pháp

phòng ngừa thì trong khoảng thời gian tương đối dài để có kết quả giải quyết
cuối cùng về nội dung vụ án, các bên đương sự có thể tẩu tán tài sản, chuyển
dịch, thay đổi hiện trạng tài sản hoặc tiêu hủy các chứng cứ, tài liệu của vụ án.
Ngoài ra, trong nhiều trường hợp để đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự
là những người yếu thế trong các quan hệ dân sự như người có yêu cầu cấp
dưỡng, người yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, người lao
động yêu cầu đòi tiền lương, tiền công lao động… thì Tòa án cần phải tạm
thời buộc bên bị kiện phải thực nghĩa vụ của họ mặc dù chưa có lập tức phán
quyết cuối cùng về nội dung vụ việc có giá trị thi hành… Xuất phát từ thực tế
này, pháp luật quy định trong những trường hợp khẩn cấp để đáp ứng nhu cầu
cấp bách của đương sự, cần bảo vệ ngay bằng chứng, bảo toàn tài sản, bảo
đảm khả năng thi hành án, tránh gây thiệt hại về tài sản không thể khắc phục
được thì Tòa án được quyền ra quyết định một loại biện pháp có giá trị thi


9

hành ngay trong một khoảng thời gian nhất định. Biện pháp này được gọi là
Biện pháp khẩn cấp tạm thời (viết tắt là BPKCTT).
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là cách thức giải quyết một vấn đề nào đó
một cách nhanh chóng, gấp gáp nhưng chỉ là giải pháp tạm thời, không mang
tính chất lâu dài, ổn định. Đây chính là công đoạn tố tụng rút ngắn và giản
đơn nhằm giúp cơ quan tài phán can thiệp nhanh chóng, kịp thời nhằm bảo vệ
tài sản tranh chấp, chứng cứ hoặc các đảm bảo khác thiết yếu cho thi hành các
nghĩa vụ, trong phiên tranh tụng chính chưa kết thúc1.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi vụ án dân sự đều được Tòa án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời mà chỉ có những vụ án dân sự xuất hiện tình
huống thực sự khẩn cấp và việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào việc
giải quyết vụ án đó là có căn cứ và cần thiết, khi đó Tòa án có thể xem xét
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Xuất phát từ tầm quan trọng

của việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ
án dân sự.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong TTDS được áp dụng trong việc giải
quyết các vụ án dân sự xuất phát từ yêu cầu việc giải quyết vụ án dân sự của Toà
án phải đảm bảo nguyên tắc giải quyết kịp thời, để từ đó bảo vệ kịp thời quyền,
lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, trong những trường hợp khẩn cấp,
Toà án phải có ngay biện pháp can thiệp phù hợp với các tình tiết, nội dung vụ
án để bảo vệ tạm thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên trong
TTDS các tranh chấp, yêu cầu dân sự phát sinh là rất đa dạng, phong phú, các
tình tiết và mức độ phức tạp của mỗi vụ án là không giống nhau, nên mỗi tình
thế khẩn cấp khác nhau đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết khác nhau nhằm
giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tài sản.
Như vậy, biện pháp khẩn cấp tạm thời có hai tính chất là tính khẩn cấp và tính
tạm thời. Hai tính chất này của biện pháp khẩn cấp tạm thời chi phối các quy
1

Tống Quang Cường (2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam - Nghiên cứu so sánh - NXB Chính trị quốc gia, tr 129.


10

định về điều kiện, thẩm quyền, thủ tục áp dụng và các cơ chế bảo đảm sự đúng
đắn của việc áp dụng từng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đồng thời buộc Tòa án
phải nhanh chóng áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong các điều kiện do pháp luật quy định.
Từ sự phân tích nêu trên, tác giả đồng tình với khái niệm về biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự như sau: Biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong TTDS là các biện pháp do pháp luật quy định và được Tòa án áp dụng
để tạm thời giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng,
bảo toàn tài sản, bảo đảm thi hành án, bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp

pháp của đương sự trong vụ án dân sự2.
1.1.2. Khái niệm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
dân sự
Theo Lý luận chung về nhà nước và pháp luật: "Áp dụng pháp luật là
hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan
nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các tổ chức xã hội được nhà
nước ủy quyền, thông qua những trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy
định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể
đối với các cá nhân tổ chức cụ thể ”3.
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một hình thức cụ thể của áp
dụng pháp luật nói chung, đó là việc Tòa án nghiên cứu, xem xét các quy định
của pháp luật TTDS về biện pháp khẩn cấp tạm thời như các quy định về
người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thời điểm có
quyền yêu cầu, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục áp dụng để quyết định các biện
pháp khẩn cấp tạm thời cũng như xem xét các khiếu nại, kiến nghị về việc áp
2

Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Tố tụng dân sự Trường đại học Luật Hà Nội (2017), ,
Nxb CAND, tr 179.
3

Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (2015), trường đại học
Luật Hà Nội, Nxb CAND, tr 381.


11

dụng để quyết định việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã
được áp dụng. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật nội dung và
pháp luật hình thức, Thẩm phán hay HĐXX vận dụng vào thực tiễn giải quyết

các vụ án dân sự để quyết định các biện pháp khẩn cấp tạm thời phù hợp hoặc
quyết định biện pháp thay thế nếu xét thấy cần thiết.
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có vai trò rất quan trọng, có tác
dụng rút ngắn thời gian tố tụng, giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng, bảo
vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, hoạt động áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học cũng như những người làm công tác pháp luật. Trong đó, khái
niệm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhận được nhiều sự quan tâm nhất,
bởi lẽ trên cơ sở xây dựng được khái niệm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời đầy đủ, chính xác, có khả năng bao quát cao sẽ tạo ra cơ sở pháp lý quan
trọng cho Tòa án và các đương sự thực hiện. Vì vậy, khái niệm áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời nhận được nhiều ý kiến khác nhau, có quan điểm cho
rằng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là việc xét các điều kiện luật định về
biện pháp khẩn cấp tạm thời và quyết định áp dụng hay không áp dụng một hoặc
nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời trên cơ sở thủ tục được pháp luật tố tụng dân
sự quy định.
Nếu giải thích theo câu chữ của tên gọi biện pháp khẩn cấp tạm thời thì
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự chỉ là việc Thẩm
phán giải quyết vụ án, hoặc HĐXX xem xét, nghiên cứu các căn cứ, thủ tục
do pháp luật quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trên cơ sở xem xét nội
dung, thời điểm yêu cầu của người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn hoặc tình huống cụ thể
của vụ việc dân sự để quyết định có áp đụng hay không áp dụng một hoặc
nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo nghĩa này, áp dụng biện pháp khẩn


12

cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ án dân sự chỉ là hoạt động áp dụng
pháp luật thuần túy, không bao gồm các vấn đề khác liên quan như việc ra

quyết định sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp
dụng. Theo tôi, cách giải thích này không phù hợp với tính chất và ý nghĩa
của biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Tôi cho rằng, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự
không đơn thuần chỉ là xét các căn cứ, nội dung của biện pháp khẩn cấp tạm
thời và quyết định áp dụng hay không áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn
cấp tạm thời trên cơ sở thủ tục được PLTTDS quy định nêu trên mà áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời còn được hiểu ở phạm vi rộng hơn, bao quát hơn,
mà còn bao gồm việc ra quyết định sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời đã được áp dụng. Việc áp dụng hay sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời đều nhằm mục đích bảo đảm tốt nhất quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tùy theo tính chất, mức độ phức tạp
của mỗi vụ án dân sự Thẩm phán giải quyết, các biện pháp khẩn cấp tạm thời
được áp dụng sẽ có tác dụng trong thời điểm này và có thể không còn tác
dụng, không còn cần thiết trong một thời điểm khác. Do vậy, căn cứ vào tình
hình thực tế, Thẩm phán giải quyết vụ án có thể sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng nhằm giúp cho việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án mang lại hiệu quả cao nhất. Việc sửa đổi,
bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng phải tuân theo đầy đủ các
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Vì vậy, áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các hoạt động là áp dụng,
sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời mới phản ánh được đầy
đủ, sâu sắc nhất bản chất của hoạt động áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Từ những phân tích nêu trên, khái niệm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết các vụ án dân sự có thể được hiểu như sau:


13

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự

là việc Tòa án, cụ thể là Thẩm phán hay HĐXX xét các căn cứ, thủ tục về biện
pháp khẩn cấp tạm thời để ban hành một hoặc nhiều quyết định biện pháp
khẩn cấp tạm thời hoặc ra quyết định sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng nhằm tạm thời giải quyết yêu cầu cấp
bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ,
bảo vệ chứng cứ, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.
1.1.3. Đặc điểm của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng dân sự
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoạt động áp dụng pháp luật, nó
có đầy đủ các đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật nói chung như:
Mang tính quyền lực nhà nước; do cơ quan nhà nước có thẩm quyền; mang
tính cá biệt, cụ thể; đòi hỏi sự sáng tạo. Tuy nhiên, áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ án dân sự sơ thẩm thì Tòa án là chủ
thể duy nhất được Nhà nước trao quyền thực hiện. Vì vậy, ngoài các đặc điểm
chung nêu trên, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời còn có những đặc điểm
riêng biệt dưới đây:
- Đa số các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trên cơ sở quyền
yêu cầu của đương sự, trừ các trường hợp nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách
của đương sự
Có thể khẳng định rằng, đa số các biện pháp khẩn cấp tạm thời thường là
các biện pháp liên quan đến tài sản chỉ được do một bên yêu cầu (có thể là
đương sự hoặc người đại diện của đương sự). Trường hợp đơn yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là có căn cứ và cần thiết, Tòa án ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và cũng trên cơ sở yêu cầu của
đương sự, Tòa án sẽ ra quyết định thay đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời nếu thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng là
không phù hợp hoặc không còn cần thiết.


14


Đối với một số biện pháp nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự
như yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng… Tòa án có
quyền chủ động áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không cần có đơn
yêu cầu của đương sự. Mục đích của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong các trường hợp này là nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương
sự, bảo vệ kịp thời quyền lợi của người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời hoặc người yếu thế.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong pháp luật Việt Nam rất
đa dạng, bao gồm nhiều loại biện pháp khác nhau, mỗi biện pháp được áp dụng
nhằm một mục đích nhất định, có biện pháp nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách
của đương sự (buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng, buộc thực
hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại...), có biện pháp nhằm bảo
toàn tài sản (kê biên tài sản, cấm chuyển dịch quyền về tài sản..), có biện pháp
nhằm giải quyết vụ án và đảm bảo thi hành án dân sự (cấm hoặc buộc đương
sự thực hiện những hành vi nhất định...). Mặc dù mỗi biện pháp khẩn cấp tạm
thời khác nhau, được áp dụng tương ứng với mỗi vụ án có tính chất khác nhau,
nhằm mục đích khác nhau, nhưng cái đích cuối cùng của việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
và chủ thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hướng tới vẫn là nhằm đáp ứng
nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ kịp thời quyền lợi của người có yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người yếu thế.
- Chủ thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án có thẩm quyền
giải quyết vụ việc, mà cụ thể là Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử tiến hành
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoạt động áp dụng pháp luật nên
phải tuân theo những trình tự, thủ tục luật định. Theo quy định của pháp luật
hiện hành, chỉ có Toà án mà cụ thể là Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử được
quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết các vụ
án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ



15

án là người am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ, đánh giá
chứng cứ và áp dụng pháp luật. Do đó, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết các vụ án dân sự do Thẩm phán tiến hành mới đảm bảo
được tính đúng đắn và tuân thủ đúng các quy trình của pháp luật TTDS. Nếu
vụ án đã được đưa ra xét xử tại phiên tòa thì các vấn đề phát sinh tại phiên
tòa, trong đó có việc quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời phải do Hội
đồng xét xử thực hiện.
- Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nhanh chóng, kịp thời
nhưng chỉ có hiệu lực thi hành tạm thời trong một khoảng thời gian nhất định
Với mục đích nhằm bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
trong vụ án dân sự, nếu các BPKCTT được áp dụng không đảm bảo được yếu tố
nhanh chóng, kịp thời, thì tính mạng, sức khỏe, tài sản ... của người yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ không được bảo đảm và trong nhiều trường
hợp người bị yêu cầu áp dụng sẽ tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chây ỳ trong việc
thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời sẽ tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích của bên bị áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời nên nếu không áp dụng kịp thời, người bị yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời sẽ tìm cách đối phó như tẩu tán, hủy hoại tài sản, rút tiền
ra khỏi tài khoản... gây thiệt hại cho người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Do đó, để việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phát huy được
hiệu quả thì ngoài việc đảm bảo yếu tố nhanh chóng, kịp thời trong quá trình áp
dụng còn phải bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ và có hiệu quả.
Tuy nhiên, quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời không phải là
phán quyết cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự. Quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời chỉ là giải pháp tạm thời khi Tòa án chưa đưa ra được
phán quyết có hiệu lực pháp luật về giải quyết vụ việc dân sự nên quyết định
về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ có hiệu lực cho đến khi có bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật về giải quyết vụ việc dân sự.


16

- Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải tuân theo các điều kiện,
trình tự thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành, việc áp dụng có tác động trực tiếp quyền, lợi ích của người
bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nên Tòa án (Thẩm phán hay HĐXX )
phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Đó là các điều kiện pháp luật về người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời (đơn yêu cầu, thời điểm yêu cầu, nội dung yêu cầu, tài liệu
chứng cứ kèm theo đơn yêu cầu, điều kiện về việc buộc thực hiện biện pháp
bảo đảm...); các điều kiện về trình tự, thủ tục ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, thời hạn ra quyết định, hình thức văn bản của Tòa án, thời
hạn gửi quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời... Đây là những điều
kiện bắt buộc mà Thẩm phán, hoặc HĐXX sơ thẩm phải tuân theo trong quá
trình áp dụng.
Việc tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định sẽ góp phần
bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các đương sự trong vụ án, đặc biệt là
người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bên cạnh đó, để dự
liệu các trường hợp Tòa án ban hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các
đương sự, pháp luật TTDS còn phải thiết lập các quy định khác nhằm ràng
buộc trách nhiệm của Tòa án, người yêu cầu trong trường hợp áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không đúng hoặc ngăn chặn sự lạm quyền yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu áp dụng
như các quy định về việc buộc thực hiện biện pháp bảo đảm, quy định về việc

Tòa án không áp dụng vượt quá yêu cầu của người có quyền yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, quy định về trách nhiệm do việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không đúng, khiếu nại, kiến nghị liên quan đến việc


17

áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời... để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
tất cả các đương sự trong vụ án dân sự.
1.1.4. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự
- Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần giải quyết nhu cầu cấp
bách của đương sự
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: Buộc thực hiện trước một phần nghĩa
vụ cấp dưỡng, buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, buộc
người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, trợ cấp tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp... được áp dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giải
quyết nhu cầu cấp bách của đương sự.
- Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần bảo vệ chứng cứ cho
việc giải quyết vụ án
Trong nhiều trường hợp để trốn tránh nghĩa vụ của mình, đương sự
thường có tâm lý muốn hủy hoại, tiêu hủy chứng cứ. Do vậy, việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần ngăn ngừa các hành vi tiêu cực của
đương sự như hành vi hủy hoại chứng cứ, mua chuộc, đe dọa người làm
chứng đã được Tòa án ngăn chặn kịp thời, tạo điều kiện cho Tòa án giải quyết
vụ án được đúng đắn, chính xác. Thông qua việc áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời như kê biên tài sản, cấm chuyển dịch quyền về tài sản, cấm thay
đổi hiện trạng tài sản… góp phần cho việc xem xét, đánh giá chứng cứ, giải
quyết vụ án của Tòa án được chính xác, khách quan.
- Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần bảo toàn tài sản, đảm

bảo khả năng thi hành án dân sự
Trên thực tế, phần lớn các tranh chấp dân sự có liên quan đến tài sản, có
thể tranh chấp trực tiếp một tài sản cụ thể hoặc thông qua một vụ việc tranh
chấp mà các vấn đề về tài sản được các đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết.


18

Do đó, các biện pháp khẩn cấp tạm thời khẩn cấp tạm thời như kê biên tài sản,
cấm chuyển dịch quyền về tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài
sản đang tranh chấp, phong tỏa tài sản, tài khoản... các biện pháp này được áp
dụng đối với người có nghĩa vụ nhằm ngăn chặn những người này tẩu tán,
hủy hoại tài sản... qua đó, có tác dụng bảo toàn tài sản, bảo đảm thi hành án.
- Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần thúc đẩy người có
nghĩa vụ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ
Thông thường các vụ việc tranh chấp được Tòa án giải quyết thông qua
con đường khởi kiện, Tòa án cũng như các đương sự phải tuân theo điều kiện
về trình tự, thủ tục rất chặt chẽ (thủ tục thụ lý, hòa giải, xét xử...). Do đó, đến
khi tranh chấp được giải quyết dứt điểm cũng phải mất một khoảng thời gian
khá dài. Trong khi đó, có những tình huống khẩn cấp đòi hỏi Tòa án phải
quyết định ngay các biện pháp cần thiết nếu không tính mạng, sức khỏe, tài
sản của người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm không được bảo đảm.
Do vậy, trong trường hợp khẩn cấp, pháp luật quy định cho phép đương sự
đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện, có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng ngay
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong nhiều trường hợp việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời buộc người có nghĩa vụ phải tự nguyện thi hành nghĩa vụ
của mình hoặc thỏa thuận với bên nguyên đơn về giải quyết vụ án.
1.2. Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời
1.2.1. Các loại biện pháp khẩn cấp tạm thời

BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều biện pháp khẩn cấp tạm
thời nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của BTTDS
năm 2015 với các Bộ luật, đạo luật khác có liên quan. Cụ thể so với BLTTDS
năm 2011, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm một số biện pháp như: Cấm
xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ, cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia


19

đình, tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu
thầu, bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
1.2.1.1. Nhóm các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có quyền tự
mình áp dụng
- Biện pháp giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân
hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
Thông thường biện pháp này được áp dụng khi Tòa án giải quyết các vụ
việc về hôn nhân và gia đình. Khi đó Tòa án quyết định chuyển người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi trong vụ án cho người khác hoặc cho một cơ quan, tổ
chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong trường hợp những
người này chưa có người giám hộ nhằm bảo vệ khẩn cấp quyền, lợi ích của
các chủ thể không có năng lực hành vi đầy đủ trong xã hội.
So với khoản 1 Điều 102 BLTTDS năm 2011, BLTTDS năm 2015 đã bổ
sung thêm đối tượng được giao để “trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục” là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Quy định này là
phù hợp với BLDS năm 2015, bởi BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định
về năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi. Bên cạnh đó, Điều 115 BLTTDS năm 2015 bổ sung thêm quy định:
Việc giao người chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên thì phải xem xét

nguyện vọng của người đó. Quy định này nhằm bảo đảm cho việc chăm sóc,
giáo dục người chưa thành niên được tốt nhất, quan tâm đến tâm tư, nguyện
vọng của họ.
Điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 115 BLTTDS
năm 2015, theo đó biện pháp này sẽ “được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có
liên quan đến người chưa thành niên chưa có người giám hộ”. Tuy nhiên, nếu
hiểu “người chưa thành niên chưa có người giám hộ” chỉ là trường hợp người


20

chưa thành niên người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi không có người giám hộ đương nhiên thì chưa thực
sự đầy đủ. Trong thực tiễn tố tụng có trường hợp người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi trong vụ án hôn nhân và gia đình đã có người giám hộ nhưng người giám hộ
đó lại đang chấp hành hình phạt tù, đang trong tình trạng bị hạn chế quyền của
cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc một bên cha, mẹ đang chấp hành hình
phạt tù còn bên kia rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như ốm nặng, nghèo
túng không thể trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục người chưa thành
niên. Với những trường hợp này tòa án cũng cần phải quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân, cơ
quan, tổ chức đó trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 4.
Vì vậy tôi cho rằng biện pháp khẩn cấp tạm thời này cần được áp dụng
đối với việc giải quyết việc tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân
sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nếu họ chưa có người
giám hộ hoặc đã có người giám hộ nhưng người giám hộ không có khả năng
thực hiện việc giám hộ.
- Biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

Biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ
cấp dưỡng là việc Tòa án quyết định buộc người bị yêu cầu cấp dưỡng phải
tạm cấp trước một khoản tiền nhất định để đảm bảo cho người được cấp
dưỡng giải quyết được những khó khăn trước mắt của họ, để họ không bị
ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống. Biện pháp này thường được Tòa án áp
dụng trong các vụ án về hôn nhân và gia đình như vụ án ly hôn, yêu cầu cấp
dưỡng khi ly hôn... trên cơ sở có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu hoặc do chính Tòa án
4

Bùi Thị Huyền, Bàn về một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của BLTTDS năm 2015, Ttạp chí
Khoa học kiểm sát, số 2/2017, tr 28-36.


×