Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Quy định của pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người theo hiến pháp năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHÙNG THỊ NGỌC ANH

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM
THÂN THỂ, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA CON
NGƢỜI THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)

DC52 = 2 quyển mỗi quyển 98 trang

Hà Nội – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHÙNG THỊ NGỌC ANH

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM
THÂN THỂ, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA CON
NGƢỜI THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013



Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Quý Tỵ

Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
trích dẫn, ví dụ trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực
theo những nguồn đã công bố. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phùng Thị Ngọc Anh


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Tiến sĩ Phạm Quý Tỵ, các Thầy, Cô
giáo Trường đại học Luật Hà Nội, Trung tâm Thông tin thư viện Trường đại
học Luật Hà Nội, các bạn đồng khóa và gia đình đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn
thành bản Luận văn này.



MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM
THÂN THỂ, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA CON NGƢỜI 9
1.1 Định nghĩa về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con ngƣời

9

1.2 Nội dung quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con ngƣời

13

1.2.1 Quyền bất khả xâm phạm đối với thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm

13

1.2.2 Quyền không bị tƣớc đoạt tự do khi không có quyết định của cơ
quan có thẩm quyền

14


1.2.3 Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể ngƣời và hiến xác

16

1.3 Đặc điểm của quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con ngƣời

17

1.3.1 Quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
thuộc về cá nhân

17

1.3.2 Quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị

18

1.3.3 Quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
đƣợc bảo đảm vô thời hạn và có thời hạn

19


1.3.4 Quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
trong nghĩa vụ quốc gia

20


1.4 Quy định của Công ƣớc quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và
pháp luật của Việt Nam quy định về quyền bất khả xâm phạm thân thể,
sức khỏe, danh sự, nhân phẩm của con ngƣời

21

1.4.1 Công ƣớc quốc tế

21

1.4.2 Pháp luật của một số quốc gia

26

1.4.3 Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam

29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

32

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN
PHẨM CỦA CON NGƢỜI THEO HIẾN PHÁP VIỆT NAM NĂM 2013 33
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật về quyền bất khả xâm phạm
thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời theo Hiến pháp
năm 2013


33

2.1.1 Quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền bất khả xâm phạm
thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

33

2.1.2 Quy định của các bộ luật, luật hiện hành trong hệ thống pháp luật
Việt Nam về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con ngƣời

38

2.2 Hạn chế của những quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm
thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

58

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

64

CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ, SỨC KHỎE,
DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA CON NGƢỜI

65


3.1 Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm

thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

65

3.1.1 Thể chế hóa đƣờng lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con ngƣời

65

3.1.2 Khắc phục những hạn chế trong quá trình đảm bảo quyền bất khả
xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

67

3.1.3 Hoàn thiện các cơ chế thúc đẩy và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm
thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

69

3.1.4 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân
thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế

71

3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

73


3.2.1 Hoàn thiện chính sách pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân
thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

73

3.2.2 Tăng cƣờng các thiết chế bảo đảm quyền bất khả xâm phạm thân
thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

79

3.2.3 Tăng cƣờng giáo dục, phổ biến, tuyên truyền quyền bất khả xâm
phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

81

3.2.4 Tích cực tham gia, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế, ký kết các
Điều ƣớc quốc tế liên quan đến quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngƣời

82

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

84

KẾT LUẬN

85


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CRC: Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của trẻ em năm 1989
ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
LHQ: Liên hiệp quốc
NXB: Nhà xuất bản
UDHR: Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948
UNCAT: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn
ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày nay, hầu hết các quốc gia ở mọi khu vực trên thế giới, ở mọi
trình độ phát triển, đều khẳng định cam kết về quyền con người (nhân quyền).
Từ sâu trong tư duy và tâm hồn của nhân loại là một niềm tin chắc chắn rằng
mỗi người trên thế giới này đều có các quyền, trong đó có các quyền hiến định
cơ bản như quyền được sống, quyền tự do không bị áp bức, quyền tự do lựa
chọn và không phải chịu những hành vi đối xử tàn bạo. Ở Châu Âu thế kỷ
XVIII xuất hiện khái niệm “luật tự nhiên” – dựa trên một trật tự chung – trao
những quyền đó cho tất cả mọi người. Triết lý đó có ảnh hưởng rất lớn tới
cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776, và những khái niệm trong Hiến pháp Mỹ
(1787), một văn kiện cho đến ngày nay vẫn điều chỉnh mọi Bộ luật của Mỹ.

Ngoài ra, tại Anh, khái niệm về quyền con người nằm trong Luật về các quyền
(1689) và ở Pháp nằm trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (1789).
Sau này, các khái niệm về quyền con người được ghi nhận trong các văn kiện
quốc tế do Liên hiệp quốc khởi xướng.
Có thể thấy, tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực xác định và ủng
hộ nhân quyền. Ở đâu cũng vậy, cốt lõi của khái niệm này là giống nhau, đó
là: Nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có, đơn giản vì họ là con
người. Nhân quyền là của mọi người, bình đẳng cho mọi người và cũng là
những quyền bất khả xâm phạm. Các quyền này có thể bị trì hoãn một cách
chính đáng hay sai trái, ở nhiều nơi nhiều lúc, song ý tưởng về các quyền cố
hữu không thể bị phủ nhận. Nếu mất đi những quyền này, con người sẽ không
còn là con người nữa. Một thực tế cho thấy, trên toàn cầu, chế độ nào phủ
nhận các quyền cơ bản của con người thì chế độ đó sẽ không ổn định lâu dài.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người là một trong số những quyền cơ bản của con người đã được quy
định trong nhiều văn kiện pháp lý của Liên hiệp quốc (LHQ) và của các quốc


2

gia, các khu vực, trong đó Việt Nam đã tham gia một số văn kiện quốc tế như:
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), Công ước chống tra tấn và
các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm năm 1984 (UNCAT), Công ước về quyền của người khuyết tật năm
2006 (CRPD), Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của trẻ em năm 1989
(CRC)… Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay, việc tham gia
và thực hiện nghiêm túc các cam kết, điều ước quốc tế có một ý nghĩa hết sức
quan trọng, đóng góp vào việc thực hiện chủ trương nhất quán về bảo đảm và
thúc đẩy quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của

con người, đồng thời hỗ trợ cho quan hệ của Việt Nam với các quốc gia khác
và các tổ chức quốc tế, góp phần nâng cao vị thế và hình ảnh của đất nước
trong cộng đồng quốc tế.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người đối với các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam, đó không
phải là một vấn đề mới. Trong những văn bản pháp luật sơ khai đầu tiên, nhà
nước Việt Nam đã ghi nhận vào bảo vệ một số nội dung của quyền này. Hiến
pháp năm 1946 quy định về việc tư pháp chưa quyết định thì không được bắt
bớ và giam cầm người công dân (Điều 11), cấm không được tra tấn, đánh đập,
ngược đãi những bị cáo và tội nhân (Điều 68). Qua các thời kỳ phát triển của
đất nước, quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người đã được mở rộng, bổ sung và hoàn thiện. Hiến pháp năm 2013
(Điều 20) đã thể hiện một cách toàn diện phạm vi quy định quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Văn kiện Đại
hội XII của Đảng đã xác định: Thực hiện quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ
bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với
trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước
có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền
công dân, theo phương hướng: Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển


3

toàn diện của con người; bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của con người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con
người mà nước ta ký kết.
Cùng với sự phát triển mở rộng này, đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung hệ
thống các văn bản pháp luật đã được ban hành trước đó có quy định điều chỉnh
các mặt khác của quyền này như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố
tụng hình sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.

Trên thực tế đã chỉ ra hành vi xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người đang là vấn đề nổi cộm, có tính phổ biến ở Việt
Nam trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Bên
cạnh đó, quy định hiện hành về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm ở Việt Nam còn nhiều hạn chế và bất cập, bị lỗi thời so
với sự phát triển của đời sống xã hội, các quy định chồng chéo, có nhiều điểm
không tương thích, đa phần chỉ dừng lại ở hình thức liệt kê, có rất ít các quy
định cụ thể điều chỉnh quan hệ pháp luật này. Tiếp theo đó là sự nhận thức về
quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người chưa cao. Những bất cập đó làm giảm sút hiệu quả việc thực thi bảo
đảm các quyền này. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần ban hành, sửa
đổi, bổ sung quy định về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người trong các văn bản pháp luật hiện hành đảm bảo
tính hợp hiến và hợp pháp, mang tính khả thi cao và phù hợp với các văn kiện
quốc tế có liên quan. Mặt khác, cần tiến hành rà soát một cách chi tiết và cụ
thể các văn bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về quyền bất khả
xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Trong quá trình rà soát,
cần so sánh, đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế
về nội dung quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
để có thể nhìn nhận một cách rõ nét mức độ tương thích của giữa hai hệ thống
pháp luật trong việc bảo đảm nhóm quyền này. Để hiện thực hóa mục tiêu
trên, cần phải có nhiều hơn nữa các công trình nghiên cứu từ khái quát đến sâu


4

rộng về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con người. Mặc dù trong quá trình hội nhập quốc tế đẩy mạnh việc bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nhưng hiện
nay số lượng các công trình nghiên cứu đi vào chiều sâu của vấn đề dưới góc

độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng ở Việt Nam còn khá hạn chế. Vì vậy,
việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật về quyền bất khả xâm phạm
thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thực tiễn thi hành áp dụng nhóm
quyền này để đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật cũng như những giải
pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định là cấp thiết.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Quy định của pháp luật
về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con người theo Hiến pháp năm 2013” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình,
với mục đích đóng góp phần nhỏ trong nghiên cứu khoa học về bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm trước bối
cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhìn lại tiến trình lịch sử đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt
là chặng đường thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, chúng ta đã đạt được những
thành tựu hết sức quan trọng và toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trong đó không thể phủ nhận những kết quả trong xây dựng con người,
bảo vệ và phát huy giá trị con người, quyền con người trong đời sống xã hội.
Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đặc biệt là Quốc hội
thông qua Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo
vệ, thực thi quyền con người và ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền
con người.
Trong khoa học pháp lý nước ta, vấn đề bảo đảm quyền con người
được nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình với các góc độ khác nhau.
Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình: “Quyền
con người và luật quốc tế về quyền con người” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà


5

Nội, 1997) của PTS.TS Chu Hồng Thanh; “Quyền con người, quyền công dân

trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (NXB Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2012) của GS.TS Trần Ngọc Đường; “Giáo trình Lý
luận và pháp luật về quyền con người” (NXB Chính trị Quốc gia, Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2009) do các tác giả Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã
Khánh Tùng đồng chủ biên.
Từ góc độ nghiên cứu về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con người có: “Bảo đảm thực hiện quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm theo Hiến pháp năm 2013” (Bình
luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, NXB Công an Nhân dân, 2015) của PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí; “Cấm
tra tấn – Bước tiến quan trọng về bảo vệ quyền nhân thân trong Hiến pháp
năm 2013” (Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013, NXB Công an Nhân dân, 2015) của TS. Vũ Công Giao
và NCS. Lã Khánh Tùng; “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người” (Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự phần các
tội phạm, NXB T.P Hồ Chí Minh, 2002) của tác giả Đinh Văn Quế.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có một số tài liệu khác được
đăng trên các tạp chí chuyên ngành và các website điện tử (,
, ...).
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người nhưng
nhìn chung những công trình nêu trên chưa đi sâu vào vấn đề quyền bất khả
xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người một cách
riêng biệt. Mặt khác, nhiều công trình đã xuất bản cách đây nhiều năm, đến
nay pháp luật và thực tiễn về quyền con người nói chung cũng như quyền bất
khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người nói
riêng trong Hiến pháp đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, đây là công trình nghiên
cứu có tính hệ thống và đi vào chuyên sâu, phân tích các vấn đề cụ thể liên
quan đến quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm



6

của con người, qua đó đưa ra những nhận định, đánh giá về nhóm quyền này
trong Hiến pháp năm 2013.
3. Câu hỏi nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện dựa trên việc đặt ra một số câu hỏi mang tính
định lý xuyên suốt toàn bộ nội dung của vấn đề.
- Câu hỏi thứ nhất đặt ra là: Cơ sở lý luận về quyền bất khả xâm phạm thân thể,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người? Công ước quốc tế, pháp luật
quốc tế, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã có những quy định gì về quyền
bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người?
- Câu hỏi thứ hai đặt ra là: Pháp luật quy định thế nào về quyền bất khả xâm
phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người theo Hiến pháp
năm 2013? Quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người được quy định trong pháp luật Việt Nam có sự tương thích như
thế nào đối với pháp luật quốc tế?
- Câu hỏi thứ ba đặt ra là: Cần có những giải pháp gì để việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con người đạt hiệu quả cao?
4. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của Luận văn nhằm giúp chúng ta có những hiểu biết nhất
định và sâu rộng về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm của con người và thực trạng tình trạng bảo vệ quyền bất khả xâm
phạm thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm về mặt luật định cũng như
thực trạng thực hiện quyền này ở nước ta.
Luận văn chủ yếu nghiên cứu những quy định của pháp luật về quyền
bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, những quy định của pháp luật ban
hành sau khi có Hiến pháp năm 2013 và những quy định của pháp luật được
ban hành trước khi có Hiến pháp năm 2013 còn phù hợp. Luận văn cũng đề



7

cập đến những nét lớn về quyền này trong pháp luật quốc tế và một số quốc
gia trên thế giới.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con
người, những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng - Nhà nước về con
người và sự phát triển của con người.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp duy vật biện
chứng, phân tích, đối chiếu, tổng hợp, hệ thống, thống kê, so sánh và kết hợp
nghiên cứu lý luận với thực tiễn…Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu
của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận điểm.
6. Tính mới của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn đã có những điểm mới nổi bật
như sau:
- Nêu được cơ sở lý luận về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người; làm rõ hơn một số khái niệm về “quyền bất khả
xâm phạm; danh dự; nhân phẩm”, làm rõ hơn về nội dung của quyền bất khả
xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
- Phân tích một cách cụ thể và có hệ thống các quy định của pháp luật về
quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người được ghi nhận trong Hiến pháp.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ bản để việc thực thi pháp luật về quyền
bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đạt
hiệu quả cao.
7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần cung cấp những tri thức cơ bản mang tính lý luận

về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Đồng thời tìm hiểu thực
trạng thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay, sự tương thích của pháp luật


8

Việt Nam và pháp luật quốc tế về nhóm quyền này. Trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu, phân tích, đánh giá, Luận văn cũng đưa ra những kiến nghị, giải
pháp lâu dài góp phần xây dựng pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân
thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp, các
nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật về lĩnh vực này, các nghiên
cứu sinh, học viên cao học và các sinh viên thuộc các cơ sở đào tạo luật.
8. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật về quyền bất khả xâm
phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người theo Hiến pháp
năm 2013.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.


9

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ,
SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA CON NGƢỜI

1.1. Định nghĩa về quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con ngƣời
Con người luôn là đối tượng phản ánh của các hệ thống pháp luật. Bảo
vệ con người là bảo vệ thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và sự tự do
của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với bất kỳ một con
người nào. Và một khi các quyền lợi đó bị xâm phạm sẽ có ảnh hưởng tiêu
cực đến con người.
Hiện nay, pháp luật nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể về “bất khả
xâm phạm” nghĩa là gì, phạm vi của “bất khả xâm phạm” như thế nào. Để
làm rõ định nghĩa “Quyền bất khả xâm phạm” cần xây dựng được hai định
nghĩa – đó là định nghĩa “quyền” và định nghĩa “bất khả xâm phạm”.
Khi đề cập đến định nghĩa “quyền”, có thể hiểu là cái mà pháp luật, xã
hội, phong tục hay bản chất con người cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành
và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt thì có thể đòi hỏi để giành
lại1. Quyền còn được hiểu là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những
điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để
theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn
cản, hạn chế2. Có thể nhận xét, dưới góc độ ngôn ngữ học, quyền được hiểu là
điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho con người được hưởng, được
làm, được đòi hỏi; còn dưới góc độ pháp lý, quyền là những việc mà một
người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế.

1
2

Từ điển bách khoa Việt Nam (2000), NXB Từ điển Bách khoa.
Từ điển luật học (2006), NXB Từ điển Bách khoa.


10


Như vậy, để được coi là quyền và được bảo vệ cần có sự thể hiện thái
độ của xã hội và pháp luật. Trên thực tế, các lợi ích của con người trở thành
quyền khi được xã hội và pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Ví dụ như
các nhóm quyền: (1) Quyền đương nhiên như quyền làm người, quyền được
sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; (2) Quyền do luật pháp
cho phép làm hoặc luật pháp không cấm làm (quyền pháp lý); (3) Quyền do
điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng cho phép hội
viên được làm; (4) Quyền do người khác uỷ quyền.
Theo Từ điển luật học “bất khả xâm phạm” nghĩa là không ai có thể
xâm phạm đến, đụng đến. (Ví dụ: Quyền của một quốc gia, nhà nước, cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật, không bị bất cứ một cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác xâm phạm đến một số đối tượng của quốc gia, nhà
nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân đó). Hay còn có nghĩa là không được động
đến hoặc chiếm lấy quyền lợi của người khác, chủ quyền của nước khác.
Từ những phân tích trên, có thể khái quát “Quyền bất khả xâm phạm”
là một quyền thuộc cá nhân của con người được ghi nhận trong Hiến pháp và
Luật. Theo đó, một số quyền con người được bảo đảm và không ai có thể xâm
phạm đến quyền lợi đó.
Thực tế hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào ghi nhận
các định nghĩa về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Trong quá trình
tiếp cận đề tài tác giả có tìm hiểu về một số định nghĩa như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2003 của Viện Ngôn ngữ học, “thân
thể” còn gọi là cơ thể của người, đó là toàn bộ cấu trúc của một con người,
bao gồm đầu, cổ, thân (chia thành 2 phần là ngực và bụng), hai tay và hai
chân. Khi con người còn sống, cơ thể của con người là một thực thể của tự
nhiên, là nhân tố quyết định sự tồn tại của con người và là một thực thể tự
nhiên có mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố tự nhiên và xã hội liên quan đến
sự tồn tại của thực thể con người. Cơ thể của con người là một tập hợp các bộ
phận tự nhiên tạo thành thân thể của con người. Mỗi bộ phận cơ thể của con



11

người có chức năng trao đổi chất để bảo toàn sự sống của chính nó và là một
bộ phận không thể thiếu của một cơ thể sống hoàn chỉnh. Khi một con người
chết đi, cơ thể của người đó được gọi là thi thể (xác).
Theo Tổ chức Y tế thế giới thì “sức khỏe” là trạng thái thoải mái toàn
diện về thể chất, tinh thần và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có
bệnh hay thương tật. Vì vậy, sức khoẻ không chỉ là tình trạng không bệnh tật
của cơ thể, mà còn là trạng thái tinh thần bình an, tâm lý thoải mái với tất cả
các mối quan hệ trong cuộc sống. Điều đó có nghĩa sức khoẻ của một người là
kết quả tổng hoà của tất cả các yếu tố tạo nên tinh thần và thể chất của con
người ấy. Từ trước đến nay, sức khỏe được coi là vốn quý giá và quan trọng
nhất của con người, bởi vậy, khi một người bị xâm phạm về sức khỏe thì bên
cạnh những mất mát về mặt vật chất thì người đó còn phải gánh chịu tổn thất
về mặt tinh thần.
Danh dự, nhân phẩm, là một phạm trù mang tính xã hội. Theo đó,
“danh dự” là sự coi trọng và đánh giá của dư luận xã hội, mọi người xung
quanh dựa trên giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp đối với một người hoặc một tổ
chức cụ thể. Như vậy, danh dự của con người chính là sự tôn trọng của xã hội
đối với các tiêu chuẩn về mặt đạo đức. Với mỗi con người đó là ý thức giữ gìn
và bảo vệ những phẩm chất cá nhân mà họ lấy làm tự hào. Vì vậy, danh dự là
một trong những yếu tố khẳng định vị trí, vai trò của con người trong xã hội.
Ngoài ra, danh dự còn được hiểu là sự coi trọng của xã hội về con người hoặc
tổ chức nào đó và được thừa nhận như một quyền nhân thân. Danh dự là phạm
trù cá nhân mang tính xã hội, luôn gắn liền với chủ thể xác định, là một trong
những yếu tố để khẳng định vai trò, vị trí, uy tín của một người hoặc một tổ
chức trong xã hội, được Hiến pháp, pháp luật bảo hộ, không ai được xâm
phạm3. Có thể khái quát lại, danh dự của con người là sự đánh giá của xã hội

đối với con người về mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người

3

Từ điển luật học (2006), NXB Từ điển Bách khoa.


12

đó. Danh dự của một con người được hình thành từ những hành động và cách
cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà người đó đạt được. Đối với
tổ chức thì danh dự là sự đánh giá của xã hội và sự tín nhiệm của mọi người
đối với hoạt động của tổ chức đó.
“Nhân phẩm” (hay phẩm giá con người), là những phẩm chất, giá trị
chỉ con người mới có và tạo nên tư cách, vị thế, sự khác biệt của con người
trong thế giới động vật. Phẩm giá là như nhau và tồn tại bên trong đời sống
của mỗi con người. Trong bản thân khái niệm phẩm giá có chứa tư tưởng về
giá trị của mỗi con người, về tính độc nhất vô nhị và bản sắc của mỗi cá nhân
mà được mọi người, mọi thiết chế và toàn xã hội tôn trọng4. Ở một góc độ tiếp
cận khác nhân phẩm được định nghĩa là phẩm chất, giá trị của một con người
cụ thể được pháp luật bảo vệ. Nhân phẩm của cá nhân phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, thể chế xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định5. Qua các nhận định trên,
nhân phẩm của con người được hiểu là sự coi trọng, thừa nhận của những
người xunh quanh, của xã hội về những phẩm chất mang tính đặc trưng tạo
nên giá trị của mỗi con người.
Dù dưới góc độ nào thì “danh dự” và “nhân phẩm” của mỗi con
người đều có mối quan hệ qua lại gắn bó với nhau, gắn liền với mỗi cá nhân
và không thể chuyển giao cho người khác. Những yếu tố này được hình thành
trong cuộc sống, trong hoạt động nghề nghiệp và các mối quan hệ xã hội mà
con người tham gia. Đó là những giá trị vô cùng thiêng liêng và là đặc trưng

của mỗi con người về mặt tinh thần, cần được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
Trên cơ sở những quan điểm trên, xuất phát từ bản chất và nội dung có
thể đúc kết về “quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con người” đó là những quyền thuộc cá nhân của con người được
ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, trong đó, quyền con người
được đảm bảo và không bị xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân
4
5

V.E.Davidovich - Dưới lăng kính triết học – Nxb Chính trị quốc gia năm 2002, tr.591.
Từ điển luật học (2006), NXB Từ điển Bách khoa.


13

phẩm hay nói cách khác là được Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền về
thể chất, tinh thần và giá trị của con người.
1.2. Nội dung quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con ngƣời
Nội dung của quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người được hiểu là phạm vi các quyền liên quan đến thân
thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm được Nhà nước ghi nhận và bảo vệ. Có thể
xác định nội dung của quyền này như sau:
1.2.1. Quyền bất khả xâm phạm đối với thân thể, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm
Xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm có phạm vi rất
rộng lớn bao gồm thể chất và tinh thần của mỗi người. Các hành vi này có thể
dưới dạng hành động và không hành động. Hành vi dưới dạng hành động có
thể là dùng sức mạnh hoặc công cụ (vũ khí, chất độc, gậy, thanh sắt, dao,
kéo…) tác động vào cơ thể người khác, hoặc tước đi những công cụ hỗ trợ sự

sống của người khác (rút máy thở, máy trợ tim…) hoặc đối xử tàn ác, ngược
đãi, làm nhục người lệ thuộc mình hoặc làm người đó tự sát, hoặc dùng ngôn
từ xúi giục người khác tự sát, hoặc các hành vi giết người, hành vi hiếp dâm,
hành hạ gây thương tích cho người khác, hành vi nhục mạ, vu khống cho
người khác…Hành vi dưới dạng không hành động là biết người khác đang rơi
vào trạng thái nguy hiểm đến thân thể, sức khỏe mà bỏ mặc cho hậu quả xảy
ra dù không phải là người trực tiếp gây ra tình trạng nguy hiểm đến thân thể,
sức khỏe cho người đó (Ví dụ: Thấy người bị tai nạn trên đường mà không
dừng lại giúp đỡ, gặp người đánh nhau không can ngăn...). Những hành vi này
một khi phát sinh sẽ gây ra những tổn thương về thân thể, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm hoặc trong trường hợp xấu nhất là cướp đi sinh mạng của con người.
Bên cạnh đó, việc tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử tàn bạo nào khác cũng là xâm phạm đến nhóm quyền này. Qua
quá trình tìm hiểu, tra tấn (bao gồm cả hành hạ, nhục hình) là việc có chủ ý


14

gây đau khổ tâm lý hoặc thể chất (bạo lực, hành hạ, làm đau đớn, tạo sự lo sợ
hoặc làm nhục) của người này gây ra cho người khác…Sự tra tấn thường được
sử dụng như một phương tiện cho một mục đích cụ thể, chẳng hạn như để ép
có được một lời thú tội, ép cung khai báo, một sự rút lui hoặc để có một thông
tin hoặc để phá vỡ ý chí và sức đề kháng của các nạn nhân bị tra tấn. Hành vi
này tạo ra sự đau đớn nặng nề hoặc đau khổ cả về mặt thể xác hay tinh thần,
nếu các hành vi bạo lực, truy bức chưa tới mức tra tấn vẫn có thể bị coi là
hành vi đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc làm mất đi phẩm giá của con người.
Ở khía cạnh khác, đối với những người bị tước tự do phải được đối xử
nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người. Trừ những trường
hợp đặc biệt, người bị tước tự do phải được giam giữ tách biệt với những
người đã bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng phù hợp với quy chế

dành cho những người bị tạm giữ, tạm giam. Trên thực tế, không phải ai bị
tạm giam, tạm giữ đều là người phạm tội hoặc phải chịu mức án là phạt tù. Do
vậy khi một người chưa bị kết tội, họ có quyền được đối xử nhân đạo và tôn
trọng phẩm giá trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đưa ra kết luận
cuối cùng.
Có thể nhận thấy, con người có quyền được đảm bảo bất khả xâm
phạm về thân thể, bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của mình. Điều đó
có nghĩa là, các quyền này được pháp luật ghi nhận và bảo đảm một cách tuyệt
đối. Bất kể hành vi nào tác động đến các quyền này đều sẽ bị coi là xâm phạm
đến quyền cá nhân của con người.
1.2.2. Quyền không bị tước đoạt tự do khi không có quyết định của
cơ quan có thẩm quyền
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
là quyền tất yếu, vốn có của quyền con người. Đó là quyền hưởng tự do và an
toàn cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ trừ trường hợp việc tước
quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định.
Việc bắt, giam, giữ cá nhân nào đó khi chưa có quyết định của cơ quan có


15

thẩm quyền là một hành động sai trái, vi phạm đến quyền bất khả xâm phạm
thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Bất kỳ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo vào lúc bị bắt
những lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội
đối với họ. Việc làm này nhằm tạo điều kiện cho người bị bắt giữ biết được
mình bị bắt vì tội danh nào, lý do gì mình bị bắt, đảm bảo quyền được biết và
quyền không bị bắt tùy tiện bởi một cơ quan có thẩm quyền xét xử.
Đối tượng bị tước đoạt tự do (bắt, giam, giữ) là bị can, bị cáo, người
phạm tội quả tang hoặc người mà cơ quan tiến hành tố tụng có tài liệu, chứng

cứ nghi họ phạm tội. Ngoài các đối tượng kể trên không ai có thể bị áp dụng
hình thức bắt, giam, giữ khi chưa có quyết định của cơ quan có thẩm quyền,
mọi hành vi bắt, giam, giữ không đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ cũng
như thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật, người có hành vi vi phạm tùy theo
tính chất và mức độ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thẩm quyền áp dụng hình thức bắt, giam, giữ thuộc về những người tiến hành
tố tụng có thẩm quyền của các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc
những người có chức vụ trong các cơ quan khác được giao thực hiện một số
hoạt động tố tụng, công dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả tang,
bắt người theo lệnh truy nã.
Có thể thấy, không một ai, dù ở cương vị nào có quyền tự ý tước đoạt
tự do của người khác vì những lý do không chính đáng hoặc do nghi ngờ
không có căn cứ. Việc tự ý tước đoạt tự do của người khác khi chưa có quyết
định của cơ quan có thẩm quyền là hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người, nếu vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Những hành vi
bắt, giam, giữ người trái phép không chỉ gây ra những tổn thương nhất định về
thân thể, sức khỏe mà còn vô hình chung làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân
phẩm của họ. Vì vậy, buộc các cơ quan xét xử phải công tâm, làm việc khách


16

quan và đúng pháp luật, tránh tình trạng lạm quyền, vi phạm pháp luật dẫn đến
oan sai, truy tố người vô tội.
1.2.3. Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và quyền hiến xác hiểu theo
nghĩa khách quan là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc,
điều kiện, hình thức, thủ tục hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác cùng
việc yêu cầu bảo vệ của chủ thể khi có tranh chấp về việc thực hiện quyền

hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác. Bộ phận cơ thể người khi được
ghép vào một cơ thể người khác cần được chữa bệnh thì chất lượng mô ghép
này phải là những mô không mang bệnh, phù hợp với chức năng sinh lý của
bộ phận cơ thể cá nhân được ghép. Vì bộ phận cơ thể người là một phần của
cơ thể được hình thành từ rất nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức
năng sinh lý nhất định, cho nên những mô ghép vào bộ phận cơ thể của con
người phải đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn sinh học của bộ phận cơ thể được
ghép trong cơ thể của người được chữa bệnh. Nhưng đối với bộ phận cơ thể
người được sử dụng vào mục đích nghiên cứu khoa học hay giảng dạy thì
không nhất thiết phải là bộ phận cơ thể không mang bệnh. Bởi vì, đối tượng
của nghiên cứu có thể là bộ phận cơ thể chưa mang bệnh hoặc đã mang bệnh.
Thân thể của con người là bất khả xâm phạm, tuy nhiên trong một số
trường hợp con người có thể hiến mô, bộ phận cơ thể của mình hay đăng ký
hiến xác khi mình chết đi để cứu giúp những người khác hoặc phục vụ cho
nghiên cứu khoa học. Nhiều người cho rằng chỉ khi con người chết đi thì mới
có thể hiến tạng, tuy nhiên một người bình thường hiến đi một phần tạng của
mình vẫn có thể sống khỏe mạnh. Hiện tại những người sống hiến tạng chủ
yếu hiến thận và một phần gan, đây là hai bộ phận vẫn có thể hoạt động tốt
chức năng khi được hiến đi một phần. Còn lại hầu hết những mô và tạng khác
chỉ được lấy ghép cho người bệnh khi người hiến mô, tạng đã chết, chết não
(giác mạc, tim, xương…).


17

Điều kiện tiên quyết đặt ra đó là việc hiến mô, bộ phận cơ thể hay hiến
xác phải dựa trên ý chí tự nguyện của con người. Nói cách khác, không ai bị
ép buộc hiến mô, bộ phận cơ thể của họ theo ý muốn của người khác cũng như
cấm các hành vi thí nghiệm y tế hay khoa học trên người mà không có sự đồng
ý của người hiến xác. Nếu hành vi cưỡng chế này xảy ra sẽ vi phạm đến quyền

bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe của con người.
1.3. Đặc điểm của quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con ngƣời
Quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con người là một trong những quyền được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Tuy
nhiên, qua quá trình phân tích đưa ra khái niệm cũng như nội dung chính, có
thể thấy quyền này còn có những đặc điểm riêng. Việc xem xét những đặc
điểm này đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các hành vi xâm phạm
đến nhóm quyền này. Trong khi tìm hiểu, tác giả đưa ra một số đặc điểm về
quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người như sau:
1.3.1. Quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm thuộc về riêng cá nhân
Chủ thể của quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm là cá nhân mỗi con người, bất kể dân tộc, chủng tộc, thành phần
xuất thân, tôn giáo, tư tưởng, giới tính, độ tuổi…Ngoài ra, trong xã hội còn tồn
tại một nhóm chủ thể đặc biệt, gọi là nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Nhóm xã
hội dễ bị tổn thương (gồm các nhóm người như: Phụ nữ, trẻ em, người khuyết
tật, người cao tuổi, người không quốc tịch, người lao động di trú, người dân
tộc thiểu số, người đồng tính…). Nhóm người này là những người yếu thế, bị
thiệt thòi do sự kì thị, phân biệt đối xử hoặc thờ ơ, quên lãng của xã hội, dẫn
đến việc tham gia, thụ hưởng vào các quyền con người của họ gặp trở ngại,
khó khăn thậm chí quyền của họ vô tình bị vi phạm, tước đoạt. Qua thực tiễn
pháp luật cho thấy, quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương cũng chính là


×