Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.27 KB, 10 trang )

 Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1 
LỜI MỞ ĐẦU
Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con
người là một trong những quyền cơ bản, quan trọng nhất được luật hình sự nói
riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Vì vậy mà, các tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người được quy định ngay trong
chương thứ hai sau chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia của Bộ luật hình
sự Việt Nam. Đây là một trong những chương quan trọng nhất của Bộ luật hình
sự bao gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con người. Vì vậy, việc tìm hiểu các loại tội này và các
giai đoạn thực hiện tội phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định
trách nhiệm hình sự đối với các tội này. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về đề
tài này nên em đã chọn tình huống dưới đây cho bài tập lớn học kỳ của mình:
Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng, A rút dao
đâm B ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp
thời, B đã được cứu sống. Tòa án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2
Điều 93 Bộ luật hình sự.
Hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự, hãy phân loại tội phạm đối với tội
giết người.
2. hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao?
3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án.
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi
không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 21%. A có
phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao?
5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát
hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 93
Bộ luật hình sự tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Tòa án quyết
định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao?
 Họ và tên: Lục Thị Liễu- lớp N01-TL4, nhóm 3, MSSV:342017 
1


 Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1 
6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty
liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lý
theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao?
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. phân loại tội phạm đối với tội giết người:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS thì, tội giết người quy định tại khoản 1
Điều 93 Bộ luật hình sự là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội giết người
quy định tại khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng.
Vì:
Theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù; tội
phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình”.
Ta thấy: theo quy định trên thì việc phân loại tội phạm căn cứ vào hai dấu
hiệu: một là, Mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi phạm tội là không lớn hay
là lớn, rất lớn, đặc biệt lớn. Nhưng ta có thể thấy rằng trên thực tế việc xác định
mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi phạm tội rất phức tạp bởi mức độ nguy
hại được phản ánh ra thực tế rất đa dạng, vì vậy việc xác định mức độ nguy hại
cần dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm ấy trong từng trường hợp cụ thể đồng
thời cũng cần xem xét tới thiệt hại do tội phạm ấy gây ra.
 Họ và tên: Lục Thị Liễu- lớp N01-TL4, nhóm 3, MSSV:342017 
2
 Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1 
Hai là, căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt theo quy định của

pháp luật đối với tội ấy cụ thể là bao nhiêu. Bởi vì hình phạt chính là sự phản
ánh tương xứng của mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi.
Xét quy định tại khoản 1 Điều 93: “Người nào giết người thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
 Họ và tên: Lục Thị Liễu- lớp N01-TL4, nhóm 3, MSSV:342017 
3
 Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1 
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn”.
Ta thấy, theo quy định tại khoản này thì mức cao nhất của hình phạt đối với
tội này là tử hình- mức hình phạt nghiêm khắc nhất.Thông qua việc quy định
hình phạt như vậy ta cũng có thể thấy tội phạm quy định tại khoản này có mức
độ nguy hại cho xã hội là đặc biệt nghiêm trọng. Do đó tội giết người quy định
trong khoản này là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Xét quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS: “Phạm tội không thuộc các trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm
năm”. Ta thấy, mức cao nhất của hình phạt đối với tội này là mười lăm năm tù.
Như vậy có thể khẳng định đây là loại tội rất nghiệm trọng.
Từ phân tích trên đây ta nhận thấy rằng, tội giết người là loại tội mà tính
nguy hiểm cho xã hội rất lớn hoặc đặc biệt lớn nhằm tước đoạt tính mạng–
quyền được sống - một quyền cơ bản của con người. Do đó, pháp luật quy định
hình phạt nghiêm khắc đối với tội này là rất hợp lý, không chỉ nhằm trừng phạt
mà còn có tính răn đe, giáo dục góp phần đẩy lùi tội phạm.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào?
Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt (chưa đạt đã hoàn
thành).
Vì:
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện
hết các hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng hậu quả
của tội phạm chưa xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng hậu quả đó chưa thỏa mãn dấu
hiệu hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm.
 Họ và tên: Lục Thị Liễu- lớp N01-TL4, nhóm 3, MSSV:342017 
4
 Bài tập lớn học kỳ, môn Luật hình sự Việt nam modul 1 
Chưa đạt trong trường hợp này là chưa đạt về hậu quả và đã hoàn thành về
hành vi.
Trong cấu thành tội giết người, thời điểm hoàn thành của tội phạm được tính
từ khi xảy ra hậu quả chết người.
Đối chiếu với hành vi phạm tội của A, B chưa chết, tức là hậu quả chết
người chưa xảy ra nhưng xét về mặt hành vi khách quan A đã thực hiện xong
hành vi khách quan A cho là cần thiết để giết B – đâm ba nhát dao. Vì A cho
rằng B đã chết nên mới bỏ đi. B được phát hiện và cấp cứu kịp thời nên đã được

cứu sống nghĩa là việc A không thực hiện tội phạm được đến cùng là vi nguyên
nhân ngoài ý muốn của A – A không mong muốn và không thể biết trước là sẽ
có người phát hiện và cứu sống B.
3. Chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án.
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội
phạm có thể là con người, các đối tượng vật chất, hoạt động bình thường của
chủ thể,…
Trong vụ án này khách thể của tội phạm là quyền được sống của con người
và đối tượng tác động tác động của tội phạm là thân thể con người đang
sống một cách bình thường – đó chính là B.
Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội – những đối
tượng được chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của
mình.
Công cụ được sử dụng trong vụ án này chính là con dao mà A đã dùng
để đâm B.
Việc xác định đối tượng tác động và công cụ phạm tội có ý nghĩa quan
trọng, đối tượng tác động là một bộ phận của khách thể và công cụ phạm tội là
một yếu tố trong mặt khách quan của tội phạm. các yếu tố này giúp ta đánh giá
 Họ và tên: Lục Thị Liễu- lớp N01-TL4, nhóm 3, MSSV:342017 
5

×