BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HUỲNH PHƢƠNG MINH
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CÁO
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành
: Luật Hình sự và Tố Tụng hình sự
Mã số
: 8380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HUỲNH PHƢƠNG MINH
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CÁO
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành
: Luật Hình sự và Tố Tụng hình sự
Mã số
: 8380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Mai
HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn,
đƣợc sự hƣớng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của bạn
bè, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ luật học. Qua đây, tôi xin đƣợc gửi lời
cảm ơn chân thành đến:
Các thầy cô Khoa Hình sự và Tố tụng hình sự Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội đã tận tình giảng dạy và truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu
trong suốt thời gian học tập tại trƣờng.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập vừa qua.
Đặc biệt tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Phan Thị Thanh Mai
ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực
hiện luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Huỳnh Phƣơng Minh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kì công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, đƣợc trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Huỳnh Phƣơng Minh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
KSV
Kiểm sát viên
NTHTT
Ngƣời tiến hành tố tụng
TAND
Tòa án nhân dân
THTT
Tiến hành tố tụng
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1.1a.
Số liệu số bị cáo đã xét xử trên tổng số bị cáo đã thụ lý và số
vụ án đã xét xử trên tổng số vụ án đã thụ lý.
Biểu đồ 3.1.1.
Công tác giải quyết, xét xử án hình sự trên toàn quốc từ năm
2013-2017
Bảng 3.1.1b.
Thống kê số lƣợng bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong tổng
số bịcáo xét xử trên cả nƣớc năm 2013-2017
Bảng 3.1.5.
Số liệu tổng số vụ án hình sự sơ thẩm có luật sƣ tham gia các
năm 2015, 2016
Biểu đồ 3.1.5
Tỉ lệ vụ án có luật sƣ bào chữa năm 2015, 2016
Bảng 3.1.6.
Số lƣợng bị cáo thực hiện quyền kháng cáo và tỷ lệ số bị cáo
thực hiện quyền kháng cáo trên tổng số bị cáo Tòa án sơ thẩm
đã xét xử.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 ................................................................................................... 7
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CÁO
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .................. 7
1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ...................................................................................... 7
1.2. Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ........................................................... 14
1.3. Những điều kiện bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ........................................................... 15
1.4. Sơ lƣợc lịch sử phát triển của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về
quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
................................................................................................................... 22
CHƢƠNG 2 ................................................................................................. 29
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ..................................................................... 29
2.1. Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự....... 29
2.2. Nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự... 53
CHƢƠNG 3 ................................................................................................. 58
THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CÁO
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ................................... 58
3.1. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................................................................... 58
3.2. Nguyên nhân và một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền và
nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .......... 76
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 85
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xét xử sơ thẩm mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đƣợc coi là giai đoạn
trung tâm của tố tụng hình sự. Bị cáo là một trong những chủ thể tham gia tố
tụng hình sự, việc nhà nƣớc bảo đảm cho bị cáo quyền bình đẳng trƣớc pháp
luật và đƣợc pháp luật bảo vệ là việc làm hết sức cần thiết. Điều 72 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị
giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại
về vật chất và phục hồi danh dự”. Nhƣng việc bảo đảm quyền không có nghĩa
là họ không phải thực hiện những nghĩa vụ khi tham gia tố tụng, song song
với việc có các quyền lợi pháp lý thì họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ
nhất định. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, sự bình đẳng cho
những ngƣời tham gia tố tụng, đặc biệt đối với bị cáo phải đƣợc pháp luật tôn
trọng và thực hiện triệt để, nhằm giúp cho quá trình giải quyết vụ án đƣợc
nhanh chóng, khách quan và chính xác, đồng thời là cơ sở để xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dân chủ, văn minh.
Trong những năm qua, quán triệt đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, pháp
luật của Nhà nƣớc, thực hành nghiêm chỉnh Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 20201, các cơ quan tiến hành
tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng đã đạt đƣợc nhiều thành tích trong việc bảo
đảm và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của công dân. Tuy
nhiên, các quy định pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng
về vấn đề bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị cáo vẫn
còn tồn tại bất cập. Các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng
mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị cáo
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
1
2
nhƣng vẫn còn những vi phạm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
họ, chƣa bảo đảm thực hiện đúng đắn quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do bản thân
các bị cáo vẫn chƣa có sự tự giác trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, một
số bị cáo còn cố tình tránh né và phải chờ đến khi có sự cƣỡng chế từ cơ quan
có thẩm quyền thì mới thực hiện nghĩa vụ, mặt khác, pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm còn nhiều hạn chế.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018 đã bổ sung nhiều quy định mới liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của bị cáo; do đó cần phải đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện để
từ đó có những giải pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đạt hiệu quả hơn, khắc phục
đƣợc những tồn tại, hạn chế so với các bộ luật trƣớc. Chính vì vậy, xuất phát
từ vị trí là một học viên, một ngƣời nghiên cứu pháp luật, tác giả lựa chọn đề
tài: “Quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự” làm luận văn thạc sĩ luật học với hy vọng góp phần nhỏ bé vào việc
làm cho vấn đề này ngày một thực tế, hoàn thiện và phù hợp hơn, bảo đảm
quyền và nghĩa vụ cho bị cáo khi tham gia tố tụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự là một vấn đề quan trọng. Việc tuân thủ pháp luật
của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng ảnh hƣởng trực tiếp
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo nhƣng trên thực tế, quyền lợi của họ
thƣờng không đƣợc bảo đảm. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, các đề tài
khoa học, giáo trình, bình luận khoa học nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể
tên một số công trình nghiên cứu nhƣ sau:
- Nghiên cứu có tính đại cƣơng nhƣ: Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (Nxb. Công an nhân dân, 2018)
do PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Bình luận khoa học Bộ luật Tố
3
tụng hình sự Việt Nam của Học viện Khoa học xã hội (Nxb. Tƣ pháp, 2012)
GS.TS. Võ Khánh Vinh, Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 (Nxb. Chính trị quốc gia, 2016) do PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình chủ biên.
- Nghiên cứu lí luận làm cơ sở cho nghiên cứu đề tài: Luận án tiến sĩ
luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình (Trƣờng Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2011); Bài viết “Đảm bảo quyền con người của
bị cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và định hướng tiếp tục hoàn
thiện” (Khoa học pháp lý, Số 6/2009) của tác giả Võ Thị Kim Oanh.
- Những nghiên cứu có liên quan đến đề tài: Luận văn thạc sĩ luật học
“Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong Luật tố tụng hình sự
Việt Nam” của tác giả Đinh Hải Ninh (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,
2017); Luận văn thạc sĩ luật học “Quyền bào chữa của người bị buộc tội
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Trần Hà Linh (Đại
học Luật Hà Nội, 2016).
- Những nghiên cứu trực tiếp về đề tài: Đáng chú ý là: Luận án tiến sĩ
“Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Võ Quốc Tuấn (Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2017); Luận án tiến sĩ luật học “Hoàn
thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo” của
tác giả Nguyễn Sơn Hà (Đại học Luật Hà Nội, 2015); Luận văn thạc sĩ
“Quyền của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thị
Thanh Thúy (Đại học Luật Hà Nội, 2013); Bài viết “Hoàn thiện quy định về
bị can, bị cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự” (tạp chí Kiểm sát số 01/2009)
của tác giả Phạm Hồng Hải; bài viết “Bất cập về thực hiện một số quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong thực tiễn” (Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật
số 12/2010) của tác giả Nguyễn Khắc Quang…
Những công trình khoa học, bài viết nghiên cứu khoa học này hoặc
chỉ chú trọng tìm hiểu đến quyền con ngƣời, quyền của bị cáo trong tố tụng
4
hình sự mà chƣa nghiên cứu về nghĩa vụ của bị cáo, hoặc nghiên cứu ở góc độ
bảo đảm quyền của bị cáo mà không nghiên cứu trực tiếp về quyền của bị
cáo; hoặc chỉ nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của bị cáo ở phạm vi rộng mà
chƣa có một công trình nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện cả về quyền
và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Bên cạnh
đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) đã có
những quy định mới về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm nên việc nghiên cứu đề tài là cần thiết và không trùng lặp nội dung…
Nhiều vấn đề lý luận thực tiễn xung quanh vấn đề quyền và nghĩa vụ của bị
cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng đòi hỏi phải đƣợc tiếp
tục nghiên cứu một cách tổng quan, toàn diện và sâu sắc hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về quyền và
nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tác giả đề
xuất một vài kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị
cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn xây dựng khái niệm về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; làm rõ ý nghĩa của việc quy định
quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; từ
đó xác định các điều kiện bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Luận văn
nghiên cứu sơ lƣợc lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về vấn đề
này và so sánh với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003; từ đó làm rõ
thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
5
thẩm vụ án hình sự; xác định nguyên nhân của những hạn chế vƣớng mắc và
kiến nghị sửa đổi bổ sung một vài điều trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 và kiến nghị một số giải pháp khác nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ
của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về quyền và
nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, những quy
định của pháp luật và thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm quyền và
nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; ý nghĩa và
những điều kiện bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự. Tập trung phân tích quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa
vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong 5 năm từ
năm 2013 đến năm 2017 trên phạm vi cả nƣớc. Tìm hiểu nguyên nhân, từ đó
đƣa ra một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị
cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, các quan
điểm và đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc về pháp luật, về quyền con ngƣời,
quyền công dân. Phƣơng pháp nghiên cứu khoa học đƣợc sử dụng là phƣơng
6
pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết, phân tích tổng hợp thực tiễn, phƣơng pháp
lịch sử, phƣơng pháp lí luận kết hợp với thực tiễn, phƣơng pháp so sánh luật
để làm rõ các vấn đề nghiên cứu,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học:
Ở một khía cạnh nhất định, có thể nói luận văn đóng góp một phần nhỏ
bé vào khoa học pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận văn góp phần
thống nhất nhận thức đối với các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn đƣợc bảo vệ thành công sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị
cho việc nghiên cứu, học tập tại các cơ sở đào tạo luật; luận văn cũng có thể
là tài liệu tham khảo cho những ngƣời làm công tác thực tiễn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm có ba chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chƣơng 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quyền
và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và một số kiến nghị bảo đảm thực hiện.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CÁO
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.
Khái niệm quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm bị cáo
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử”2. Còn theo từ điển Hán Nôm thì “Bị cáo là người bị tố cáo
được đưa ra xét xử”3. Định nghĩa bị cáo đƣợc đƣa ra đầu tiên trong bản hƣớng
dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thông tƣ số 16/TANDTC
ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao, theo đó “Bị cáo là người bị truy
cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử
TAND chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách là bị cáo nếu VKSND đã
truy tố người đó trước TAND, nếu Viện kiểm sát không truy tố thì TAND
không được xét xử một người với tư cách là bị cáo trừ những người mà TAND
xét xử về việc hình phạt nhẹ”. Tiếp đó, BLTTHS năm 1998 ra đời thì khái
niệm bị cáo đƣợc quy định tại Điều 34 của bộ luật4 và sau này, khái niệm bị
cáo tiếp tục đƣợc sửa đổi, ghi nhận theo hƣớng diễn đạt ngắn gọn hơn tại
Điều 50 BLTTHS năm 2003, theo đó: “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết
định đưa ra xét xử”. Nhƣ vậy, kể từ thời điểm Thẩm phán đƣợc phân công
chủ tọa phiên tòa ra quyết định đƣa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo
và tƣ cách này tồn tại suốt giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và chỉ chấm
dứt khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời là một
bƣớc phát triển mang tính đột phá trong lịch sử lập pháp của nƣớc ta, làm thay
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng,
tr.61.
33
Từ điển trực tuyến Việt Hán Nôm: www.hannom.huecit.vn , truy cập ngày 20/6/2018.
4
Xem Điều 34 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1998 ngày 28/6/1988.
2
8
đổi nhận thức truyền thống về tội phạm và hình phạt. Lần đầu tiên BLTTHS
năm 2015 ghi nhận bị cáo là ngƣời hoặc pháp nhân. Khoản 1 Điều 61
BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được
thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân”. BLTTHS
năm 2015 cũng đồng thời quy định quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng trong
các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự đối với
pháp nhân thông qua ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân. BLTTHS
năm 2015 đã xây dựng một chƣơng riêng là Chƣơng XXIX – Thủ tục tố tụng
truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, từ Điều 431 đến Điều 446. Cụ thể:
Điều 431 BLTTHS năm 2015 quy định phạm vi áp dụng của BLTTHS đối
với pháp nhân, theo đó: “Thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin
về tội phạm, kiến nghị khởi tố , bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được
tiến hành theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác
của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”. Nhƣ vậy, với tƣ
cách là chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS, pháp nhân thông qua ngƣời đại
diện theo pháp luật có quyền và nghĩa vụ tham gia đầy đủ vào các giai đoạn
TTHS. Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
đƣợc thông qua ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải
cử và bảo đảm cho ngƣời đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ
các hoạt động theo yêu cầu của cơ quan, ngƣời có th ẩm quyền. Trƣờng hợp
ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử hoặc không thể tham gia tố tụng đƣợc thì pháp nhân phải cử ngƣời khác
làm ngƣời đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trƣờng hợp
pháp nhân thay đổi ngƣời đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ
quan có thẩm quyền THTT. Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà
pháp nhân không có ngƣời đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều ngƣời cùng
là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền THTT chỉ định một
ngƣời đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng.5
Điều 434 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
5
9
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ghi nhận khái niệm bị cáo là cá nhân
hoặc pháp nhân là toàn diện và đầy đủ, đáp ứng yêu cầu cấp bách từ thực tiễn,
khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc xử lý các vi phạm pháp luật của
pháp nhân trong thời gian qua. Dƣới góc độ luật tố tụng hình sự, khái niệm bị
cáo đƣợc hiểu là cá nhân hoặc pháp nhân bị Tòa án quyết định đƣa ra xét xử.
Bị cáo là ngƣời hoặc pháp nhân bị buộc tội trong giai đoạn xét xử, thời điểm
bị can trở thành bị cáo là thời điểm Thẩm phán đƣợc phân công chủ tọa phiên
tòa ra quyết định đƣa vụ án ra xét xử. Từ khái niệm trên, có thể thấy bị cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tƣ cách bị cáo xuất hiện khi Thẩm phán đƣợc phân công chủ
tọa phiên tòa ra quyết định đƣa vụ án ra xét xử. Nhƣ vậy, bị cáo chỉ là khái
niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng đƣợc áp dụng đối với
ngƣời đó mà hình thành nên tƣ cách bị cáo. Một ngƣời sẽ trở thành bị cáo khi
bị Tòa án quyết định đƣa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng nhƣng cũng có
thể sai6. Bị cáo không phải là ngƣời có tội, bị cáo chỉ trở thành ngƣời có tội
nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực
pháp luật.
Thứ hai, đặc điểm về chủ thể: bị cáo có thể là là cá nhân hoặc pháp
nhân. Cá nhân là bị cáo bao gồm cả công dân, ngƣời nƣớc ngoài. Bị cáo là cá
nhân là nhóm phổ biến nhất. Bị cáo là pháp nhân tuy không phổ biến bằng
nhóm bị cáo là cá nhân nhƣng thực trạng đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới đã minh chứng, hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới ngày
càng xuất hiện nhiều các tội phạm kinh tế, tội phạm môi trƣờng,... ngƣời
phạm tội không chỉ là cá nhân mà còn là các pháp nhân. Việc truy cứu trách
nhiệm hình sự và xác định tƣ cách bị cáo đối với pháp nhân thƣơng mại là
một vấn đề mới đƣợc đặt ra. BLTTHS năm 2015 quy định bị cáo là cá nhân
và pháp nhân là một tiến bộ, tạo nên môi trƣờng xã hội an toàn, lành mạnh
cho mọi ngƣời dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nƣớc.
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2018.
6
10
1.1.2. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của bị cáo
Khái niệm quyền và nghĩa vụ có thể đƣợc tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau. Theo định nghĩa trong Đại từ điển tiếng Việt thì “Quyền là thế, sức
mạnh, lợi lộc được hưởng do pháp luật công nhận hoặc do địa vị đem lại”7.
Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tƣ pháp thì “Quyền
là một khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công
nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được
hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế”8. Có thể
đƣa ra định nghĩa quyền là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận
cho đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi.
Khi tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự, dù với tƣ cách là ngƣời bị
buộc tội thì bị cáo vẫn đƣợc pháp luật bảo vệ và tôn trọng dựa trên những
quyền con ngƣời, quyền công dân mà Hiến pháp đã ghi nhận cho họ, tuy
nhiên có những hạn chế nhất định nhằm bảo đảm thuận lợi cho các hoạt động
tố tụng đƣợc thực hiện, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các
chủ thể khác. Trong luận văn này, tác giả tiếp cận quyền dƣới góc độ là những
điều một ngƣời đƣợc làm hoặc buộc phải làm.
Thông qua các quy định của BLTTHS, Nhà nƣớc trao cho con ngƣời
những phƣơng tiện cần thiết để bảo vệ các quyền của mình và thiết lập các cơ
chế để giải quyết cũng nhƣ đảm bảo các quyền của các chủ thể tham gia tố
tụng. Các quyền này khi đƣợc pháp luật tố tụng hình sự quy định tức là đã
đƣợc Nhà nƣớc chính thức thừa nhận chủ thể đó có các quyền tố tụng nhất
định mà bất kì ai trong xã hội cũng đều phải tôn trọng. Trong các quyền của
bị cáo có những quyền là chủ động, tức là bị cáo tự mình quyết định hành
động mà không bị chi phối bởi ngƣời khác, bị cáo có quyền đƣợc hƣởng
những việc mà cơ quan THTT, NTHTT phải làm cho mình, có những quyền
Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (2009), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2009.
8
Bộ Tƣ pháp -Viện khoa học pháp lý (2005), Từ điển Luật học, NXb. Từ điển bách khoa – Nxb.
Tƣ pháp, Hà Nội, 2005.
7
11
bị động nhƣ quyền yêu cầu cơ quan THTT, NTHTT làm cho mình, tuy nhiên
đối với yêu cầu của bị cáo, cơ quan THTT, NTHTT có thể chấp nhận hoặc
không chấp nhận. Từ đó có thể đƣa ra khái niệm quyền của bị cáo nhƣ sau:
Quyền của bị cáo là những điều mà ngƣời bị Tòa án quyết định đƣa ra xét xử
theo quy định của BLTTHS đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi.
Mỗi ngƣời khi thực hiện quyền của mình đồng thời cũng phải có nghĩa
vụ tuân thủ pháp luật, tôn trọng và không đƣợc xâm phạm lợi ích của Nhà
nƣớc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác. Về nghĩa
vụ của bị cáo: Theo Từ điển tiếng Việt: “Nghĩa vụ là việc mà pháp luật hay
đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác”9. Còn theo Từ
điển Luật học: “Nghĩa vụ là việc phải làm theo bổn phận”10. Dƣới góc độ
pháp lý thì nghĩa vụ đƣợc hiểu là những hành vi mà một ngƣời phải thực hiện
vì lợi ích của ngƣời khác. Do vậy, có thể đƣa ra khái niệm: Nghĩa vụ của bị
cáo là những việc ngƣời bị Tòa án quyết định đƣa ra xét xử buộc phải làmtheo
quy định của BLTTHS vì lợi ích của bản thân và của xã hội. Sự tất yếu đó
đƣợc Nhà nƣớc quy định trong luật và bảo đảm thực hiện bằng mọi biện pháp,
kể cả biện pháp cƣỡng chế.
Theo quy luật tất yếu của cuộc sống, quyền đƣợc đặt trong mối quan hệ
với nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với xã hội và đƣợc giải quyết
trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội. Ngƣời đƣợc hƣởng những quyền lợi nhất
định đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ và ngƣời thực hiện nghĩa vụ thì phải
đƣợc hƣởng quyền. Quyền của ngƣời này có thể là nghĩa vụ của ngƣời khác.
Trong nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, con ngƣời đƣợc coi
là trung tâm của mọi chính sách kinh tế, xã hội, đƣợc tạo mọi điều kiện phát
triển. Mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và công dân là mối quan hệ bình đẳng trên
cơ sở pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của Nhà nƣớc và công dân đƣợc pháp luật
quy định rõ ràng và minh bạch. Nhà nƣớc và công dân đều phải thực hiện
quyền và nghĩa của của mình trên cơ sở quy định của pháp luật.
9
Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2010.
Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách Khoa và Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2006.
10
12
Trong tố tụng hình sự, bị cáo là hạt nhân trong quá trình THTT ở mọi
quốc gia, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị cáo tức là bảo đảm lợi ích hợp
pháp của công dân. Nếu nghiên cứu quyền của bị cáo dựa trên cơ sở quyền
công dân thì quyền của bị cáo trong TTHS chính là mối quan hệ pháp lý trong
đó bị cáo đƣợc yêu cầu chính đáng đối với NTHTT hoặc đối với cơ quan
THTT nhằm thực hiện một trách nhiệm liên quan tới việc thực hiện quyền của
bị cáo. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là quyền và trách nhiệm của cá nhân,
pháp nhân đƣợc quy định trong BLTTHS, đặt trong mối quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự giữa bị cáo và Tòa án. Việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của bị
cáo tạo cơ hội tốt cho bị cáo tham gia vào quá trình tố tụng. Tuy nhiên, hiện
nay chƣa có văn bản pháp luật nào đƣa ra định nghĩa về quyền và nghĩa vụ
của bị cáo nhƣng có thể kết luận: Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là tổng hợp
những điều mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho người bị Tòa án quyết
định đưa ra xét xử được hưởng, được làm, được đòi hỏi và những điều mà
người này bắt buộc phải làm đối với Tòa án.
1.1.3. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo từ điển Luật học: “Xét xử là hoạt động xem xét đánh giá bản chất
pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý
của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với
bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc”11. Từ điển Luật
học giải thích: “Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa
án có thẩm quyền12”. Quan điểm này mang tính chất khái quát chung, phản
ánh đặc trƣng của xét xử sơ thẩm là “lần đầu tiên” đƣa vụ án ra xét xử và do
“một Tòa án có thẩm quyền xét xử”. Nhƣ vậy, xét xử sơ thẩm là xét xử lần
đầu do Tòa án có thẩm quyền thay mặt Nhà nƣớc tiến hành việc xét xử tổng
thể vụ án hình sự một cách toàn diện, trên cơ sở bản cáo trạng của Viện kiểm
sát, xem xét, đánh giá chứng cứ và dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa
Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách Khoa và Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2006,
Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách Khoa và Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2006,
tr.780.
11
12
13
làm cơ sở để ra các phán quyết công minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng
bản án và quyết định của mình13.
Trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đƣợc coi
là giai đoạn trọng tâm của quá trình tố tụng vì “Không ai bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”14. Nhƣ vậy, để xác định một ngƣời có tội và phải chịu hình phạt hay
không đòi hỏi phải đƣa họ ra xét xử trƣớc phiên tòa, đầu tiên là ở phiên tòa sơ
thẩm. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử vụ án đó ở cấp đầu tiên, do Tòa
án có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật TTHS. Bản án, quyết
định của Tòa án chƣa có hiệu lực pháp luật ngay, bản án, quyết định đó có thể
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn luật định.
Trong hệ thống cơ quan tƣ pháp, Tòa án là cơ quan duy nhất đƣợc phân công
thực hiện chức năng xét xử, trong đó có xét xử hình sự. Việc xét xử của Tòa
án tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh chống tiêu cực. Tòa án có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đƣợc quy định trong BLTTHS 2015 là TAND
cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực, TAND cấp tỉnh và Tòa án cấp quân khu15
Nhƣ vậy, có thể kết luận: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai
đoạn, được thực hiện sau khi Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can bằng một
bản cáo trạng và chuyển hồ sơ vụ án hình sự sang Tòa án. Khi Tòa án nhận
được hồ sơ vụ án cùng với bản cáo trạng, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử thì mở ra giai đoạn tố tụng hình sự là xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhà nƣớc do
Tòa án thực hiện trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ đã đƣợc thu thập trong
quá trình điều tra, quyết định truy tố của Viện kiểm sát, đồng thời bằng việc
xem xét, đánh giá tòan diện các chứng cứ, các tài liệu có đƣợc qua hoạt động
xét xử tại phiên tòa, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định xác định có hành vi
Nguyễn Ngọc Chí (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, 2013, tr.359.
14
Điều 72 Hiến pháp 1992 ngày 15/4/1992.
15
Xem Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
13
14
phạm tội hay không, ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt đƣợc áp
dụng đối với ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề
khác có liên quan trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật thông qua
bản án hoặc quyết định.
Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm: Quyền và nghĩa vụ
của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là những việc mà
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, người bị Tòa án đưa ra xét xử
được hưởng, được làm, được đòi hỏi hoặc buộc phải làm trong giai đoạn Tòa
án xem xét, giải quyết vụ án về nội dung ở cấp thứ nhất, từ khi người đó bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử đến khi hết thời gian kháng cáo, kháng nghị
hoặc bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự có nhiều ý nghĩa quan trọng.
Ý nghĩa pháp lý:
Quy định của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là căn cứ pháp lý để bị cáo đƣợc thực hiện các
hoạt động tố tụng,buộc bị cáo phải làm theo yêu cầu của Tòa án trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đặc biệt là tranh tụng tại phiên tòa nhằm
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quy định về quyền và nghĩa
vụ của bị cáo cũng đồng thời là căn cứ pháp lý buộc Tòa án phải chủ động
làm những việc đối với bị cáo hoặc xem xét giải quyết yêu cầu của bị cáo, cho
phép Tòa án cấp sơ thẩm đƣợc chủ động thực hiện nhiệm vụ trong trƣờng hợp
bị cáo không thực hiện nghĩa vụ. Việc nắm vững quy định về quyền và nghĩa
vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và bảo đảm thực
hiện giúp Tòa án xét xử đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, có ý nghĩa rất
lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
15
ngƣời vô tội, góp phần bảo đảm lợi ích của nhà nƣớc, của xã hội, đáp ứng yêu
cầu của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác.
Ý nghĩa chính trị- xã hội:
BLTTHS năm 2015 đã quy định chi tiết, rõ ràng các quyền và nghĩa vụ
của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự giúp họ ý thức đƣợc
quyền và thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật,
đồng thời tránh đƣợc sự vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Việc
xét xử công khai của phiên tòa hình sự sơ thẩm góp phần giáo dục công dân ý
thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quy tắc cuộc sống, nâng cao ý thức đấu
tranh phòng chống tội phạm ở công dân. Những quy định cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của bị cáo giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong BLTTHS
năm 2015 góp phần nâng cao chất lƣợng công tác xét xử; nâng cao trách
nhiệm của các cơ quan THTT và NTHTT. Mọi hoạt động của cơ quan THTT,
NTHTT phải đƣợc đảm bảo thực hiện khách quan, công tâm, đúng trình tự,
thủ tục pháp luật quy định, bảo đảm công bằng xã hội, tăng cƣờng dân chủ,
củng cố lòng tin của ngƣời dân vào Tòa án, từ đó tin tƣởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, của Nhà nƣớc, góp phần ổn định trật tự xã hội.
1.3. Những điều kiện bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.1. Điều kiện về mặt pháp luật
Trong tố tụng hình sự Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đƣợc bảo đảm thực hiện bằng các chế
định mang tính pháp lý có giá trị thực tiễn. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo
đƣợc đảm bảo thực hiện thông qua các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
TTHS; việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có trách nhiệm bảo
đảm quyền của bị cáo và trình tự thủ tục liên quan đến việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của bị cáo.
16
Thứ nhất, việc bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo được quy định
trong nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự:
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS là những phƣơng châm định
hƣớng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động TTHS. Các
nguyên tắc này đƣợc cụ thể hóa trong BLTTHS 2015, quy định từ Điều 7 đến
Điều 33. Các nguyên tắc cơ bản thể hiện rõ tinh thần bảo vệ quyền của con
ngƣời trong tố tụng hình sự, trong đó có một vài nguyên tắc chính nhƣ sau:
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc pháp luật. Đây là một trong
những nguyên tắc hiến định, quy định tại Điều 16 Hiến pháp 2013, theo đó:
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai bị phân biệt đối xử trong
đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Nguyên tắc này đƣợc cụ
thể hóa tại Điều 9 BLTTHS năm 2015: “Tố tụng hình sự được tiến hành theo
nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân
tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người
nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế”. Nội
dung nguyên tắc thể hiện yêu cầu mọi cá nhân, pháp nhân khi tham gia vào
các hoạt động TTHS đều có quyền và nghĩa vụ nhƣ nhau, không có sự phân
biệt, việc áp dụng các biện pháp tố tụng đối với họ luôn phải dựa trên quy
định của pháp luật TTHS. Bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc pháp luật là yếu tố
không thể thiếu trong một xã hội dân chủ. Trong TTHS, quyền bình đẳng
trƣớc pháp luật đƣợc hiểu là khi tham gia với cùng một tƣ cách tố tụng sẽ có
các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhƣ sau. Tuy nhiên, bình đẳng không có nghĩa
là ngang bằng, nếu chủ thể thuộc nhóm yếu thế trong xã hội, ví dụ nhƣ ngƣời
dƣới 18 tuổi, ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần thì pháp luật có
những quy định có tính chất hỗ trợ pháp lý để họ có thể thực sự bình đẳng với
các chủ thể khác nhƣ đƣợc chỉ định ngƣời bào chữa trong trƣờng hợp không
có ngƣời bào chữa,… hoặc vì lí do nhân đạo nhƣ những trƣờng hợp ngƣời
phạm tội mà khung hình phạt cao nhất đối với tội họ phạm là chung thân, tử
17
hình thì đƣợc chỉ định ngƣời bào chữa,.. hoặc do đặc thù của chủ thể (bị cáo
là pháp nhân) thì pháp luật cũng có những quy định khác để bảo đảm quyền
lợi cho họ. Những chủ thể có đặc điểm giống nhau pháp luật quy định đƣợc
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Chính từ những yêu cầu đòi hỏi thực tiễn
này mà quyền và nghĩa vụ của bị cáo phải đƣợc bảo đảm bình đẳng trƣớc
pháp luật. Chỉ khi bị cáo có sự bình đẳng thì mới có điều kiện thực hiện các
quyền mà pháp luật cho phép nhằm chứng minh cho sự vô tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của mình, đồng thời tự bảo vệ mình trƣớc sự xâm phạm
bất hợp pháp từ phía cơ quan,ngƣời có thẩm quyền THTT.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS đƣợc quy
định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013 và cụ thể hóa tại Điều 16 BLTTHS
năm 2015: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa”. Quyền tự bào chữa đƣợc coi là quyền cơ bản, đặc thù của bị cáo, họ là
chủ thể bị buộc tội nên phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Bên cạnh đó, bị cáo cũng có thể nhờ ngƣời khác bào chữa. Đối với những bị
cáo thuộc nhóm đối tƣợng yếu thế trong xã hội mà theo pháp luật về trợ giúp
pháp lý thì họ có quyền đƣợc trợ giúp pháp lý, đƣợc bào chữa miễn phí mà
không phải trả tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác theo quy định pháp
luật16. Pháp luật quy định về trợ giúp pháp lý giúp những bị cáo thuộc đối
tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng
cao hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật cho bị cáo;
góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công
bằng xã hội. Có thể thấy, nguyên tắc bị cáo đƣợc quyền tự bào chữa hoặc nhờ
ngƣời khác bào chữa giúp bị cáo có cơ hội tự thể hiện thái độ, quan điểm của
mình trƣớc hành vi đã thực hiện và sự cáo buộc của Viện kiểm sát, đồng thời
đƣa ra những lí lẽ, chứng cứ chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của mình hoặc nhờ một ngƣời có hiểu biết để bào chữa bảo vệ quyền
lợi cho mình. Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền THTT có trách nhiệm thông
16
Xem Điều 7 Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 ngày 20/6/2017.
18
báo, giải thích và bảo đảm cho bị cáo thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền
và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đƣợc bảo đảm: Nguyên tắc này là
sự bảo đảm phù hợp với Hiến pháp 2013, đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc chuyển hƣớng tích cực của tố tụng hình sự nƣớc ta, có tính đột phá theo
tinh thần của cải cách tƣ pháp17 đƣợc quy định tại Điều 26 BLTTHS năm
2015. Theo đó, tranh tụng cần đến sự phân vai rõ ràng giữa các chủ thể và
nhờ đó, các chủ thể hình thành bên buộc tội, bên bào chữa với lợi ích tố tụng
độc lập và khác nhau. Tố tụng tranh tụng trong xét xử đƣợc coi là địa hạt hành
động của cả hai phía: phía nhà nƣớc mà đại diện là các cơ quan có chức năng
buộc tội; phía bị cáo cùng ngƣời bào chữa hoặc do ngƣời bào chữa đại diện18.
Bản chất của quá trình tranh tụng này là việc các bên đƣa ra những trình bày,
tranh luận để làm rõ các chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa. Thông qua
tranh tụng giữa các bên, Tòa án có thể hiểu rõ hơn các tình tiết của toàn bộ vụ
án, tái hiện lại vụ án một cách trung thực, khách quan, trên cơ sở đó vận dụng
chính xác của quy định của pháp luật để đƣa ra phán quyết đúng đắn. Nguyên
tắc này bảo đảm cho bị cáo đƣợc thực hiện các quyền của mình tại phiên tòa,
ví dụ nhƣ quyền đƣa ra chứng cứ, tài liệu đồ vật, quyền trình bày ý kiến,… tự
bảo vệ mình trƣớc sự buộc tội của Viện kiểm sát.
Thứ hai, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm bằng các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án. Quy định về quyền và nghĩa
vụ của bị cáo cũng đồng thời là căn cứ pháp lý buộc Tòa án phải thực hiện để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Quyền của bị cáo có thể là nghĩa
vụ đối với Tòa án, cụ thể là với Thẩm phán, Hội thẩm, Thƣ ký Tòa án,.. Điều
17 BLTTHS năm 2015 quy định: Trong quá trình THTT, cơ quan, ngƣời có
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến
năm 2020 xác định: “Nâng cao chất lượng trang tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột
phá của hoạt động tư pháp”.
18
Nguyễn Hòa Bình (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 83.
17