Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ÔN THI ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.22 KB, 21 trang )

NỘI DUNG ÔN THI ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.

Tại sao nối Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) ra đời đã

chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lâu dài về đường lối cứu nước của cách mạng Việt
Nam.
Ta nói cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) ra đời đã chấm dứt kỳ khủng
hoảng lâu dài về đường lối cứu nước của Cách Mạng Việt Nam vì:
a)

Do sự thất bại của hàng loạt phong trào yêu nước ở Việt Nam từ cuối thế kỉ

XIX đến đầu thế kỷ XX
-

Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, phòng trào yêu nước Việt Nam phát triển

mạnh mẽ:
o

Phong trào Cần Vương, phòng trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế - Bắc Giang;

Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Phong trào duy Tân,…
o

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái,…

-

Tuy nhiên sự phát triển của những phong trào yêu nước vào thời điểm trên lại



không đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử, không có đường lối chính trị rõ
ràng đúng đắn, đồng thời dù đẩy mạnh phát triển phong trào công nhân và phong trào
yêu nước nhân dân Việt Nam nhưng lại thiếu sự lãnh đạo của một tổ chức. Chính vì
thể gây chia rẽ, xung đôt giữa các giai cấp. Đòi hỏi cần có sự thống nhất, nhất quán về
việc tổ chức các phong trào yêu nước.
b)

Chính vì sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/2/1930) đã chấm dứt sự

khủng hoảng của cách mạng Việt Nam.
-

Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm trở về Hương Cảng để triệu tập các đại

biểu các tổ chức Đảng nhằm hợp nhất.
-

Cương lĩnh chính trị đầu tiên ra đời tại Hội nghị hợp nhất cấc tổ chức Cộng sản

thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
tắt

Bao gồm các văn kiện: chính cương văn tắt, sách lược văn tắt, chương trình vắn


-

Viên thông qua cương lĩnh chính trị đầu tiên là 1 trong 5 nội đung của hội nghị


thành lập Đảng: xóa bỏ xung đột giữa các tổ chức cộng sản về thống nhất thành lập
Đảng, lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam, thảo chính cương và điều lệ sơ lược của
Đảng, định kế hoạch thực hiện việc thống nhất nước, cử một ban Trung ương lâm thời
c)

Cương lĩnh chính trị đầu tiên cho thấy tính đúng đắn trong đường lối cứu nước

của Nguyễn Ái Quốc:
-

Cương lĩnh đầu tiên đã xác định rõ mục tiêu cuối cùng của Cách mạng Việt

Nam ngay từ bước đầu:
o

Giành độc lập dân tộc, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” và các quyền

dân chủ chính trị, kinh tế, văn hóa,… cho các tầng lớp nhân dân
o

Bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa mà đi tới Xã hội chủ nghĩa mà Chủ nghĩa Xã

hội là giai đoạn đầu.


Đánh dấu sự phát triển trong tư duy lý luận, rằng Đảng đã nắm vững nguyên lý

cơ bản của chủ nghĩa Mác – lenin và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế
giới, thấu suốt con đường phát triển tất yếu của Cách mạng Việt Nam.
-


Việc giải quyết mối quan hệ giữ nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống

phong kiến:
o

Phải được tiến hành đồng thời, khắng khít với nhau

o

Xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên đầu



Kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã hội

-

Xác định rõ Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa trên lực

lượng, Cách mạng là liên minh Công – nông làm nòng cốt, giai cấp công nhân giữ vai
trò lãnh đạo. Đồng thời, cũng lôi kéo, tập hợp người yêu nước ở tầng lớp tiểu tư sản,
trí thức và lợi dụng trung và tiểu địa chủ, tư sản dân tộc.


Thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi giai cấp, tầng

lớp trong xã hội



-

Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam là nhân tố quyết

định thắng lợi của Cách mạng Việt Nam với vai trò là vị trí trung tâm, kết hợp các
phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển của
Xã hội Việt Nam.
-

Khẳng định Cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực Cách mạng của

quần chúng để đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phòng kiến rồi dựng ra chính phủ công –
nông – binh chứ không phải bằng con đường cải lương.


Đây là kinh nghiệm rút ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc trên Thế

giới đã khẳng định bản chất của Chủ nghĩa đế quốc và giai cấp vô sản với 2 bản chất
giai cấp hoàn toàn đối lập. Chính chiến thắng của cách mạng tháng 8/1945 cho thấy sự
đúng đắn của phương pháp này.
-

Khẳng định Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của Cách mạng vô sản Thế

giới, đúng trong mặt trận Cách mạng dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân Thế giới
mà đội quân tiên phong mặt trận này là Liên Xô.
-

Chính sách này luôn được bổ sung và hoàn thiện cũng là một nguồn tăng thêm


sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.


Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng những chủ trương, mục tiêu,

nhiệm vụ mà cương lĩnh đã nêu thời gian qua đã chứng tỏ sự đúng đắn, khoa học và
như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để trên nền móng đó phát huy
sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi
mới xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ngày nay.
2.

Có ý kiến cho rằng chủ trương đúng đắn của Đảng trong giai đoạn 1939

-1945 là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cách mạng
tháng Tám. Bằng kiến thức đã học, anh/ chị hãy làm rõ nhận định trên.
a)

Chủ trưởng của Đảng trong giai đoạn 1939 – 1945:

-

Thông qua hội nghị lần thứ VI (11/1930), thứ VII (11/1940) và thứ VII

(5/1941), trên cơ sở nhận địnhkhả năng diễn biến của chiến tranh thế giới thứ 2 và tình
hình trong nước, Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:


-


Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

o

Ban chấp hành trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của nước ta đòi hỏi được

giải quyết cấp bách là mâu thuẫn với bọn đế quốc và phát xít.
o

Tạm gác lại khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng cho dân cày” thay bằng

khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân nghèo”.
-

Quyết định thành lập mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng

-

Quyết định xúc tiến chuản bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của

Đảng và nhân dân.
b)

Phát động phong trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần

của Đảng ta:
-

Phát động phong trào kháng Nhật cứu nước: Chỉ thị “ Nhật – Pháp bắn nhau và


hành động của chúng ta” đã nhận định:
o

Nhận định tình hình

o

Xác định kẻ thù

o

Phát động một cao trào kháng Nhật, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa

o

Phương châm đấu tranh

o

Chỉ thị dự kiến những điều thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân

Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân
Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là Cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền
Cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm
1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần (dự kiến thời cơ để giành chính quyền
c)

Kết quả và ý nghĩa Cách mạng tháng Tám:

-


Thắng lợi của cách mạng tháng tám đã đạp tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa

đế quốc, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế và ách thống trị của phát
xít Nhật.
lập

Ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhân dân Việt Nam tự do, độc


-

Đảng Cộng Sản Đông Dương trở thành Đảng cầm quyền và hoạt động công

khai
-

Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại kinh nghiệm quý cho phong trào đấu tranh

giành độc lập
-

Cách mạng tháng 8 đã bước đầu chọc thủng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc,

mở đầu thời kì sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân
-

Chứng minh tính đúng đắn của Cách mạng Mác – Lenin và sáng tạo của Hồ Chí

Minh và Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

3.

Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc: cách mạng tháng Tám 1945 Đảng đã

có chủ trương gì? Kết quả của việc thực hiện chủ trương đó của Đảng?
-

Hoàn cảnh nước ta sau Cách mạng tháng Tám:

-

Thuận lợi: cơ bản là trên thế giới, hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu được

hình thành. Phòng trào giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển. Ở trong nước chính
quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Toàn
dân ủng hộ Việt Minh, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do HCM làm
chủ tịch. Nhân dân làm lực lượng vũ trang phát triển nhanh.
-

Khó khăn: đối với thế giới, chiến tranh lạnh diễn ra, Mỹ âm mưu làm bá chủ

(sgt: 54,55: Khó khăn nghiêm trọng là do chế độ cũ,… tổ quốc lâm nguy)


Chủ trương: “Kháng chiến kiến quốc của Đảng”

+ Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để cứu đói
+ Mở phòng trào chống nạn mù chữ
+Sớm tổ chức tổng tuyển cử
+Mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính

+ Bỏ các thứ thuế vô lý
+ Tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết
-

Ngày 25/11/1945, ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến

kiến quốc:


+ Tính chất Cách mạng
+Kẻ thù chính của Cách mạng
+Nhiệm vụ chủ yếu: củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội
phản, Cải thiện đời sống nhân dân.
+ Biện pháp thực hiện: nội chính, thành lập chính phủ chính thức, kinh tế, phát động
phòng trào tăng gia sản xuất, … Văn hóa –giáo dục, bình dân học vụ, Quân sự, Ngoại
giao bình đẳng, tương trợ, thêm bạn bớt thù: Hoa – Việt thân thiện đối với quân Tưởng
Giới Thạch, Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế đối với thực dân Pháp.
*Kết quả: (sgt/56, 57)
4. So sánh đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa thời
kỳ trước đổi mới với thời kỳ sau đổi mới (thời kỳ đổi mới). Anh/ chị hẫy đánh giá,
nhận xét đường lối công nghiệp hóa của Đảng hieennj tại.
Sự giống nhau
-

Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yêu,

khách quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tu bản chủ
nghĩa đã thực hiện từ lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa MácLeenin. Đồng thời, tình hình đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh
mún, lạc hậu…
-


Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu

tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
nên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động
thấp, đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều
khó khăn,…
-

Ngay từ đầu quá trinh công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa

xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Sự khác nhau:


-

Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công

nghiệp nặng một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa
và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường.
Đặc điểm của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động
thấp, cơ sở hạ tầng chưa hình thành…do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công
nghiệp hóa được hiểu quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy
móc.
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại chuyển lao động bằng
máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa, đây là quá trình
hiện hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và thách

thức mới.
Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn
mô hình công nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là:
quá trình tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ
sử dụng máy móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), là quá trình nhảy vọt
(lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lập tức, phải đi trước đón đầu,
hội nhập với thời đại).
-

Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép

kín, hướng nội. còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác
hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế,
tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế,
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút
công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới… sớm đưa


nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu
quả thị trường thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
-

Công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà


nước và doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở
thành sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà
nước là chủ đạo.
-

Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để

thực hiện công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà
nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới,
chủ yếu thực hiện bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.
-

Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động,

tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của accs nhà nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp
hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là
động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để
phát triển yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu
và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên
tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định để tăng năng suất lao động, giảm chi phí
sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, muốn đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì
phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc
chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.
-

Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản


đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh
tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển


nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế cũng là để thực hiện các vấn đề
an sinh xã hội, vấn đề văn hóa – xã hội… vì mục tiêu phát triển con người, mọi người
đều hưởng thành quả của sự phát triển.
-

Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, kết hợp chặt chẽ phát triển công

nghiệp với phát triển nông nghiệp, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với
việt ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ra sức phát triển công nghiệp trung ương,
đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương. Ở thời kỳ đổi mới, phải phát
triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Một là, đẩy mnahj công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn,
nông dân, Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Ba là, phát
triển kinh tế vùng, Bốn là, phát triển kinh tế biển. Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao
động, cơ cấu công nghệ. Sáu là, bảo vệ, sử dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải
thiện môi trường tự nhiên.


Đánh giá: kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân của công nghiệp hóa, hiện


đại hóa thời kỳ đổi mới ở nước ta (sgt/ 93, 94, 95)
5.Vì sao Đảng chủ trương công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi
trường. Liên hệ với thực tiễn của nước ta.
CNH, HĐH được Đảng và nhà nước quan niệm như sau:
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và pháp tiên tiến,
hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.


Cho đến nay, thế giới đã trải qua hai lần cách mạng về kĩ thuật và công nghệ. Lần thứ
nhất với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, diễn ra vào cuối thế kỉ 18 được
thực hiện đầu tiên tại nước Anh mà nội dung chủ yếu là thay thế lao động thủ công
bằng lao động cơ khí hóa. Lần thứ hai với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại được bắt đầu vào giữa thế kỉ 20 mà nội dung chủ yếu của nó không chỉ
dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu tố tư liệu sản xuất, mà còn ở kĩ thuật thuật
công nghệ sản xuất hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến…Hiện nay cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung phong phú và đa dạng trong đó có thể
chỉ ra nội dung nổi bật sau đây:
-

Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: đó là tự động hóa. Ngoài phạm vi

tự động trước đây, hiện nay tự động hóa còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi người
máy thay thế cho con người để điều khiển quá trình sản xuất.
-

Hai là, cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống mà


con người đã sử dụng trước đây như nhiệt điện, thủy điện, thì ngày nay con người
ngày càng khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản
xuất như: năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời,…
-

Ba là, cách mạng về vật liệu mới: ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự

nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế cho các vật liệu
tự nhiên.
-

Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học: các thành tựu của cuộc cách mạng

này được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất và
nhiều lĩnh vực khác.
-

Năm là, cách mạng về điện tử tin học: đây là một lĩnh vực mà hiện nay con

người đang đặc biệt quan tâm nhất là máy tính điện tử.
Đất nước ta tiến hành công nghiệp hóa trong điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ như vậy, vì nếu chỉ công nghiệp hóa nền kinh tế thì
sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, không thể theo kịp các nước
phát triển trong khu vực và thế giới. Công nghiệp hóa cũng có thể coi là cuộc cách
mạng khoa học lần thứ hai. Muốn rút ngắn khoảng cách tụt hậu giữa nước ta với các


nước phát triển thì chúng ta phải thực hiện đồng thời cả hai cuộc cách mạng khoa học
và kĩ thuật hay thực hiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Có như vậy thì sự

nghiệp công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân mới có thể thành công, đưa đất nước ta
mới có thể thành công, đưa đât nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại tiến
lên chủ nghĩa xã hội.


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài

nguyên môi trường (sgt/87,88)


Liên hệ thực tiễn:

-

Tri thức: thứ nhất, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và

tri thức. Sự phát triển của khoa học, công nghệ là điều kiện cần để hình thành và phát
triển kinh tế tri thức. Cần đầu tư hơn nữa cho khoa học, công nghệ, tạo ra chính sách
phát triển khoa học, công nghệ.
-

Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực cho kinh tế

tri thức. Nghiên cứu khoa học được coi là nền tảng của tăng trưởng kinh tế, đóng vai
trò quan trọng trong các quá trình hình thành kinh tế tri thức.
-

Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội

hướng đến việc phát huy vai trò của khoa học, công nghệ, hướng đến kinh tế tri thức.

Cần tạo môi trường pháp lý lành mạnh, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo, khuyến khích
các chủ thể kinh tế phát huy tối đa tiềm năng của mình, trong đó nhấn mạnh các vấn
đền về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, bản quyền,…
-

Thứ tứ, tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ

chiều rộng sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu. Cần
kết hợp hợp lý phát triển kinh tế theo hai mô hình này, một mặt khai thác những lợi thế
sẵn có về lao động, tài nguyên, mặt khác phải “đi tắt, đón đầu”, thực hiện công nghiệp
hóa hiện đại hóa theo mô hình “hiện đại”, “rút ngắn” để phát triển kinh tế tri thức Việt
Nam.
Tài nguyên môi trường: song song với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa,
chúng ta đang phải chịu những áp lực thay đổi về cấu trúc và mô hình phát triển do sự
cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về


phát triển kinh tế và xã hội. Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh.
Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh
nhằm sử duungj và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nhiên liệu, năng
lượng… Vì đây là động lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nước ta theo hướng phát triển bền vững. Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính
nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn,
sử dụng công nghệ sạch, sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các
sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường, tái chế và sử dụng
các sản phẩm tái chế.
6. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là gì? Vì sao nói phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường tất yếu ở nước ta
hiện nay?

Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo sự điều tiết của cơ chế thị
trường, lấy sự tồn tại và phát triển của quan hệ hàng hóa – tiền tệ làm cơ sở, là kinh tế
hàng hóa đạt đến trình độ xã hội hóa cao và trình độ kỹ thuật cao, trong đó toàn bộ hay
hầu hết đầu vào và đầu ra của sản xuất đều phải thông qua thị trường.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định
hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
*Tư duy của Đảng về nền kinh tế thị trường từ đại hội IX – Đại hội XII
* Chứng minh tính tất yếu: Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh
tế hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông
qua thị trường. Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó sản
phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh
tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người mua, đáp ứng nhu cầu
của xã hội, Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có cùng bản chất nhưng khác nhau


về trình độ phát triển. Như vậy, kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định
(trình độ cao) thì đó là kinh tế thị trường.
*Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
*Sự tồn tại khách quan của kinh tế thị trường hiện nay:
Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện chung
để hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại. Do đó sự tồn tại kinh tế hàng hóa ở nước ta là
một tất yếu khách quan. Những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện và tồn
tại là:
-

Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn

tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta
hiện nay. Sự phát triển của phân công lao động xã hội thể hiện ở chỗ các
ngành nghề ở nước ta ngày càng đa dạng, phong phú, chuyên môn hóa
sâu. Điều đó, đã góp phần phá vỡ tính chất tự cung, tự cấp của nền kinh tế
tự nhiên trước đây và thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
Hơn nữa, phân công lao động xã hội là cơ sở để nâng cao nâng suất lao
động xã hội, nghĩa là làm cho nền kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm
đem ra trao đổi, mua bán. Do đó, làm cho trao đổi, mua bán hàng hóa trên
thị trường ngày càng phát triển hơn.

-

Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế khác nhau tạo nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập
cũng là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường ở nước ta. Thật vậy, một khi còn sự tồn tại, nhiều dạng sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và về sản phẩm lao động sẽ tạo nên sự
độc lập về kinh tế của những ngành chủ sở hữu khác nhau đó. Do đó, các
chủ thể kinh tế trong nền kinh tế khi cần sản phẩm của nhau tất yếu phải
thông qua con đường thỏa thuận, trao đổi, mua bán

*Những ưu điểm, hạn chế của kinh tế thị trường
7. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là gì? Theo anh/ chị chúng ta
phải làm gì để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc?


Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực tác động vào con người và
xã hội, làm hình thành và phát triển nhân cách, tâm hồn, nâng cao năng lực, hiệu quả
hoạt động xã hội của con người. Nền văn hóa tiến tiến có những đặc trưng, đó là: Yêu
nước và tiến bộ - mà nội dung cốt lỗi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thấm

nhuần chủ nghĩa nhân văn, mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc, tự do và phát
triển con người; nền văn hóa thể hiện tinh thần dân chủ, xây dựng mối quan hệ hài hòa
giữa con người với cộng đồng, giữa xã hội với tự nhiên và tiên tiến không chỉ về nội
dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện, công cụ chuyển
tải nội dung. Nền văn hóa đậm bản sắc dân tộc bao gồm: những giá trị văn hóa truyền
thống bền vững của cộng đồng và dân tộc Việt Nam được vung đắp qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, đó là: lòng yêu nước nồng nàng, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng
xã – Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa đạo lý, đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động, sự tinh tế ứng xử, tính giản dị trong lối sống, …bản sắc dân
tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính độc đáo, với những đặc
trưng, sắc thái, thể hiện cốt cách dân tộc Việt.
*Những chủ trương của Đảng:
- Văn hóa là nền tảng tính thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Nền văn hóa Việt Nam là nền tảng văn hóa thống nhất và đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
- Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu
- Văn hóa là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự kiện cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
*Trách nhiệm của bản thân:


- Đối với góc độ là 1 công dân Việt Nam, phải luôn tin vào đường lối của Đảng, có
tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có chí vươn lên, đưa đát nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế
giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội,

cần có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỉ cương phép nước, quy ước của công cộng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.
- Đối với góc độ là 1 sinh viên, phải biết “tôn sư, trọng đạo”, giữ gìn đạo đức, nhân
cách của bản thân; có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung; thường
xuyên học tập trau dồi kiến thức, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn của mình,
thường xuyên tìm hiểu về văn hóa, cội nguồn dân tộc để có cái nhìn đúng đắn về văn
hóa dân tộc.
- Bên cạnh đó, cần mở rộng giao lưu văn hóa với bạn bè quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc
các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Tích cực giới thiệu rộng rãi
những tinh hoa, bản sắc văn hóa Việt Nam, những thành tựu to lớn của hơn 20 năm
đổi mới đất nước và chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, góp phần
nâng cao vị thế Việt Nam trên thị trường quốc tế.
8. Trình bày quản điểm chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quá trình
xây dựng, phát triển nền văn hóa của nước ta trong thời kỳ đổi mới (1986 đến
nay). Vì sao hiện nay văn hóa được coi là “nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển – kinh tế xã hội”. Liên hệ vai trò
của sinh viên trong quá trình xây dựng, phát triển văn hóa nước ta hiện nay.
*Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triền nền văn hóa:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển bền vững đất nước, văn hóa vừa đặt ngang hàng với Kinh tế, chính trị, xã hội
và hội nhập quốc tế.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tốc, thống nhất trong
đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học.


- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để
phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người
có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình,

trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng
đồng. Phát triển văn hóa hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố
văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
*Liên hệ thực tiễn:
Là sinh viên nói chung cần phải nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc để có những biện pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa của dân tộc, làm phong phú thêm nền băn hóa dân tộc. Nâng cao trách nhiệm
trong việc bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc, chống văn hóa ngoại lại… Nhận thức
đúng về các giá trị văn hóa dân tộc, tích cực tuyên truyền cho mọi người dân, hiểu tầm
quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa để bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc không
bị mai một. Xây dựng các chuẩn mực giá trị đạo đức, nêu gương người tốt việc tốt, lối
sống đẹp. Tích cực học tập, nghiên cứu về truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc để
có cái nhìn đúng đắn về văn hóa dân tộc. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của
dân tộc mình. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích
đồng bào các dân tộc thiểu số học tập hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói, chữ
viết của dân tộc mình.
9. Trong việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế hiện nay, Đảng ta đã chỉ ra những
cơ hội và thách thức nào cho Việt Nam? Tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại hiện
nay là gì? Liên hệ thực tiễn.
*CƠ HỘI: Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế thời kỳ
đổi mới, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất
quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với chủ
trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với khu vực và thới


giới. Những thành tựu đó đã tạo niềm tin để nước ta càng vững bước trên đường hội
nhập, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra.

- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa mở ra khả
năng cho nước ta, nhất là khi đã thành thành viên chính thức WTO, tham gia nhanh và
hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ
mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có cơ hội thuận lợi đẩy nhanh quá trình điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian vật chất của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Trên lĩnh vực kinh tế, tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi
hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai,
minh bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng
được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để phát huy tiềm năng của mọi thành phần
kinh tế trong nước, là cơ hội để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tốc độ
tăng trưởng bền vững hơn và rút ngắn khoảng cách phát triển. Mặt khác, gia nhập
WTO đánh dấu bước phát triển về chất của tiến trình hội nhập, giúp nước ta có được vị
thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại
toàn cầu, tiếng nói được tôn trọng hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng
hơn đối với các tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO, có điều kiện để bảo vệ
lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đồng thời, hội nhập vào nền kinh tế thế giới
cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước
ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.
- Về khách quan, xu thế toàn cầu hóa tạo điều kiện cho tất cả các nước tham gia vào
đời sống quốc tế, bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng,… nhằm thực
hiện mục tiêu chiến lược của mình. Quá trình hội nhập quốc tế làm cho các nước ngày
càng phụ thuộc lẫn nhau. Đây là cơ hội tích cực để có thể loại bỏ các biểu hiện của ý
đồ thiết lập mối quan hệ một chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối của các cường quốc
đối với đông đảo các quốc gia dan tộc khác trên thế giới, thúc đẩy sự hình thành một
trật tự thế giới mới với cơ chế sinh hoạt quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng hơn.


- Hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, cũng thúc đẩy mạnh mẽ các

hoạt đọng giao lưu văn hóa và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn
nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, tri thức loài người, kết
tinh cô động ở các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ… được phổ biến
rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại. Cũng như nhiều
nước khác, tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta tạo ra cơ hội thuận lợi để chúng ta
chia sẻ lợi ích do toàn cầu hóa đưa lại, đồng thời đóng góp thiết thực vào tiến trình
phát triển hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, dân chủ hóa các sinh hoạt quốc tế, tham
gia đấu tranh thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn.
*THÁCH THỨC: thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là
một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém
và bất cập, dịch vụ nói riêng của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ
thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh… Cho nên, nước ta sẽ gặp khó
khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra
gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Do thực hiện
những cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc phải cắt giảm mạnh thuế nhập
khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa các lĩnh vực thương
mại hàng hóa và dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng
lượng, vận tải, chuyển phát nhanh, nông nghiệp…bởi vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình
trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong hội
nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng đòi hỏi phải
giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,…Về cơ chế bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả,
bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí
tuệ.
- Trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác, nước ta
phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu
tư… chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng
và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh
kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại
quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia



IMF, WB, WTO… Tự do hóa thương mại và tự do hóa kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích
cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên quyết đối với
các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt
động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh
kinh tế quốc tế và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bình đẳng và
bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát
triển trong đó có nước ta.
- Trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa đặt ra một
thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế
đi kèm với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là vì
lợi ích của toàn cầu hóa được phân phối một cách không đều, những nước có nền kinh
tế phát triển thấp được hưởng lợi ích hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một
bộ phận dân cư được hưởng lợi ích hơn, thậm chí còn bị tát động tiêu cực của toàn cầu
hóa; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hóa giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn
diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp
là nơi có tới gần 70% dân số và lực lượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự
hạn chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách,

Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường,
làm cho sự phân tầng, phân hóa xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân
sự phát triển của đất nước.
-Quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an ninh quốc
gia, các nguy cơ đe dọa an ninh ngày càng phức tạp hơn,bên cạnh các hiểm họa mang
tính truyền thống, đã xuấ hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch
bệnh, khủng bố,…); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, cơ
chế đảm bảo an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Vấn đề gắn an ninh, quốc
phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản

vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa,
tính tùy thuộc giữa các nước tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình


chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường với đời sống chính trị
trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có
năng lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở
để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước
những biến động trên thị trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị
- xã hội.
-Trên lĩnh vực văn hóa, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá
trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị
văn hóa phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hóa dân tộc. Chưa bao giờ
văn hóa nhân loại đúng trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ nguyên toàn cầu
hóa hiện nay: vừa có khả năng giao lưu mở rộng, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hóa rất
nghiêm trọng.
-Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện trước
thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước… Đã xuất hiện những
mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để phủ nhận tính bất khả xâm phạm
của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước
đứng trên các nhà nước quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây
trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”…Hội nhập
quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa
bình” của các thế lực chống đối trên nhiều lĩnh vực.
*Thành quả:
- Phá thế bị bao vây, cấm vận các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận
lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan,
giữ vững môi trường hòa bình

-Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng phướng hóa, đa dạng hóa
- Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế


- Thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ
năng quản lý
- Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường
cạnh tranh
- 23/10/1991, giải quyết thành công vấn đề Campuchia
- 10/11/1991, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (16 chữ vàng: Láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, tiến tới tương lai; 4 tốt: Láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt)
- 11/1992, Chính phủ Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam
- 11/7/1995, bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ
- 28/7/1995, gia nhập ASEAN
- 3/1996, tham gia diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM)
- 11/1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
(APEC)
- 13/7/2001, ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
- 11/1/2007, Việt Nam được kết nạp thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO)
- 10/2007, Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm
kỳ 2008 - 2009



×