Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------

PHẠM QUANG HOÀNG VIỆT

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC
BẢO VỆ VÀ CHĂM SÓC TRẺ EM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN MINH HƢƠNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ
liệu, số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan. Mọi trích dẫn từ các tài liệu khác tôi đều ghi rõ thông tin đầy
đủ về nguồn gốc. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về những gì
tôi viết trong luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM QUANG HOÀNG VIỆT




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRẺ EM VÀ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ VÀ CHĂM SÓC TRẺ EM ..................... 4
1.1. Khái niệm trẻ em, một số vấn đề về bảo vệ và chăm sóc trẻ em ...................... 4
1.1.1. Trẻ em.........................................................................................................4
1.1.2. Bảo vệ và chăm sóc trẻ em .........................................................................5
1.1.3. Sự cần thiết của việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em .......................................6
1.1.4. Hậu quả của việc trẻ em thiếu được chăm sóc và bảo vệ ...........................8
1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và chăm
sóc trẻ em ............................................................................................................... 10
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em .10
1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em
............................................................................................................................10
1.3. Chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở Việt
Nam ........................................................................................................................ 11
1.3.1. Chính phủ .................................................................................................11
1.3.2. Các Bộ ......................................................................................................12
1.3.3. Chính quyền địa phương. .........................................................................15
1.4. Pháp luật về bảo vệ và chăm sóc trẻ em ......................................................... 15
1.4.1. Pháp luật quốc tế về bảo vệ và chăm sóc trẻ em ......................................16
1.4.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ và chăm sóc trẻ em ..................................17
CHƢƠNG 2 - THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC
BẢO VỆ VÀ CHĂM SÓC TRẺ EM ..................................................................... 22
2.1. Những kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về bảo vệ và chăm sóc trẻ
em........................................................................................................................... 22
2.1.1. Quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền được sinh tồn và chăm sóc
sức khỏe của trẻ em ............................................................................................22



2.1.2. Quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền được học tập và phát triển
của trẻ em ...........................................................................................................27
2.1.3. Quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền được tôn trọng và bảo vệ
của trẻ em ...........................................................................................................35
2.1.4. Quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền được tham gia của trẻ em .41
2.2. Những tồn tại, hạn chế trong quản lý nhà nước về bảo vệ và chăm sóc trẻ em
và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ........................................................... 46
2.2.1. Hạn chế trong quản lý nhà nước về chăm sóc sức khỏe trẻ em ...............46
2.2.2. Hạn chế trong quản lý nhà nước về giáo dục và phát triển trẻ em ...........48
2.2.3. Hạn chế trong quản lý nhà nước về bảo vệ trẻ em ...................................49
2.2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .................................................52
CHƢƠNG 3 - GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ BẢO VỆ VÀ CHĂM SÓC TRẺ EM............................................................... 56
3.1. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ..................................... 56
3.2. Giải pháp cụ thể .............................................................................................. 58
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em ........59
3.2.2. Nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước và chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức ...............................................................................................60
3.2.3. Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ trẻ em
............................................................................................................................62
3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức người
dân ......................................................................................................................62
3.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc học tập, trao đổi kinh nghiệm về
BVCSTE, tạo điều kiện cho các tổ chức phi chính phủ quốc tế tham gia vào
công tác BVCSTE ở Việt Nam ..........................................................................63
3.2.6. Các giải pháp xã hội .................................................................................64
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 69

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 73


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BVCSTE

Bảo vệ và chăm sóc trẻ em

Bộ LĐ-TB&XH

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

Bộ GD&ĐT

Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bộ VH-TT&DL

Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch

UBND

Ủy ban nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trẻ em là đối tượng quan tâm đặc biệt của xã hội, là đối tượng cần nhận
được sự cưu mang, chăm sóc của gia đình và toàn thể cộng đồng. Đối với hầu hết
các quốc gia trên thế giới, trẻ em luôn được coi là mục tiêu phát triển quan trọng.
Tiến trình toàn cầu hóa với sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ đã đem lại những thay đổi to lớn đối với mọi mặt của đời sống xã hội, theo đó
cuộc sống vật chất và tinh thần của con người cũng được nâng lên đáng kể. Tuy
nhiên, ở nhiều nơi trên trái đất, vẫn còn đó những trẻ em hằng ngày thiếu ăn, thiếu
mặc; những trẻ em bị bóc lột nặng nề, phải chôn vùi tuổi thơ trên những công
trường, hầm mỏ; những đứa trẻ hằng ngày phải trốn chạy làn đạn của những cuộc
chiến tranh… Đó đã và đang là những thách thức cho toàn nhân loại trong việc bảo
vệ và chăm sóc trẻ em – thế hệ tương lai của mỗi quốc gia nói riêng và cả thế giới
nói chung.
Toàn cầu hóa đã đem các quốc gia đến gần với nhau hơn, trong xu hướng
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, các quốc gia trên thế giới đã cùng nhau giải quyết nhiều
vấn đề lớn. Một trong số ấy là việc nâng quyền con người nói chung và quyền trẻ
em nói riêng lên tầm toàn cầu. Liên Hợp Quốc đã coi trẻ em là một đối tượng thuộc
nhóm người dễ bị tổn thương (vulnerable groups). Tuyên ngôn về quyền của trẻ em
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1959 đã ghi nhận “Loài người có
trách nhiệm trao cho trẻ em những điều tốt đẹp nhất”; Công ước quốc tế về quyền
chính trị - dân sự năm 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1982) chỉ ra rằng: "Mọi trẻ
em… đều có quyền được hưởng sự bảo hộ của gia đình, xã hội và của nhà nước"
(Điều 24); Công ước quốc tế về quyền kinh tế - xã hội và văn hoá năm 1966 (Việt
Nam gia nhập năm 1982) khẳng định: "Thanh thiếu niên cần được bảo vệ và không
bị bóc lột về kinh tế - xã hội, cấm bóc lột lao động trẻ em" (Điều 10). Năm 1989,
Công ước quốc tế về quyền trẻ em được thông qua, Việt Nam là quốc gia thứ hai
trên thế giới và đầu tiên ở châu Á phê chuẩn Công ước. Ngay ở phần lời mở đầu,
Công ước đã khẳng định “Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ


2


em cần được lớn lên trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu
thương và cảm thông”.
Là quốc gia tham gia vào Công ước quốc tế về quyền trẻ em từ rất sớm, Việt
Nam nhận thức được vai trò của mình trong hoạt động bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Cho đến nay, Việt Nam đã có hệ thống tương đối hoàn chỉnh các chính sách, pháp
luật về vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong
quy định của luật, việc thực thi pháp luật còn yếu, việc tổ chức kiểm tra, giám sát,
xử lý các vi phạm vẫn chưa được sát sao. Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận
và thực tiễn quản lý nhà nước về bảo vệ và chăm sóc trẻ em để điều chỉnh, sửa đổi
và áp dụng vào thực tế nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn đất nước là hết sức cần
thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây, đã có một số công trình nghiên cứu của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em (nay là Cục Bảo vệ, chăm sóc
trẻ em, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), công trình nghiên cứu của các cá
nhân về vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em như: công trình nghiên cứu của tác giả
Vũ Ngọc Bình về “Vấn đề lao động trẻ em”, công trình nghiên cứu của tác giả Trần
Văn Thắng về “Quyền trẻ em”, công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hoàng
Phương về "Các công ước quốc tế về lao động trẻ em và những vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam"... Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ tập trung vào một nhóm vấn
đề, chưa nghiên cứu một cách có hệ thống toàn bộ thực trạng quản lý nhà nước về
bảo vệ và chăm sóc trẻ em, chưa đưa ra các giải pháp khả thi, phù hợp nhằm bảo vệ
và chăm sóc trẻ em.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bảo vệ và chăm sóc trẻ em là đề tài tương đối rộng, trong phạm vi của một
luận văn thạc sĩ không thể nghiên cứu được hết các vấn đề liên quan. Bởi vậy, đề tài
tập trung nghiên cứu vào các nhóm vấn đề lớn là: khái quát chung về trẻ em và vấn
đề BVCSTE; thực trạng quản lý nhà nước đối với việc thực hiện các quyền cơ bản
của trẻ em như: quyền được sống, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được học



3

tập, quyền được vui chơi, quyền tham gia… Luận văn đưa ra những nhận định,
đánh giá dựa trên các quy định về quyền trẻ em tại Công ước Liên hợp quốc về
quyền trẻ em 1989 và các quy định của pháp luật Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích, có đối chiếu, so sánh các quy định của pháp
luật Việt Nam với các quy định của pháp luật quốc tế để tìm ra những điểm tương
đồng và khác biệt.
5. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về trẻ em, về bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở Việt
Nam từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chăm
sóc và bảo vệ trẻ em trong điều kiện hội nhập quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chƣơng 1 – Khái quát chung về trẻ em và quản lý nhà nước trong lĩnh vực
bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Chƣơng 2 – Thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc
trẻ em
Chƣơng 3 – Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ và
chăm sóc trẻ em.


4


CHƢƠNG 1 – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRẺ EM VÀ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ VÀ CHĂM SÓC TRẺ EM
1.1. Khái niệm trẻ em, một số vấn đề về bảo vệ và chăm sóc trẻ em
1.1.1. Trẻ em
Trẻ em là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, tùy theo nội
dung, góc độ tiếp cận hay cấp độ đánh giá mà khái niệm trẻ em được hiểu khác
nhau. Trẻ em được nhìn nhận dưới góc nhìn sinh học, tâm lý học, xã hội học, y
học… Tuy nhiên trong các cách hiểu đó đều có điểm chung là căn cứ vào tuổi đời.
Theo đó, trẻ em được xác định là nhóm đối tượng có tuổi đời nhỏ, chưa phát triển
hoàn thiện cả về mặt ngoại hình và tâm sinh lý, là đối tượng cần được quan tâm,
chăm sóc của toàn xã hội.
Dưới khía cạnh pháp lý, khái niệm trẻ em cũng được hiểu không thống nhất.
Độ tuổi để được xác định là trẻ em ở mỗi quốc gia, mỗi tổ chức quốc tế hay mỗi nền
văn hóa khác nhau là khác nhau. Các tổ chức của Liên Hợp Quốc, như Quỹ Dân số
(UNFPA), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa (UNESCO) xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Điều 1 Công ước Liên hợp
quốc về quyền trẻ em 1989 xác định: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có
nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó
quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Điều 2 Công ước số 182 của Tổ chức Lao động
quốc tế ban hành năm 1999 (Việt Nam gia nhập ngày 19/12/2000) quy định:
“Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới
18 tuổi”.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, hầu như chưa có một định nghĩa nào về
trẻ em cũng như về sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em mà chỉ có một số đạo luật
nhắc đến các khái niệm trẻ em, người chưa thành niên và các quy định này hiện nay
không thống nhất. Điều l, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy
định: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”.
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ



5

14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Bộ luật Lao động năm 2012 quy định người lao động là
người từ đủ 15 tuổi trở lên (Khoản 1 Điều 3), và người lao động dưới 18 tuổi được
coi là người lao động chưa thành niên (Điều 161). Bên cạnh đó, Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 lại quy định tuổi bị xử phạt hành chính “là người từ đủ 14
tuổi trở lên” (Điều 5). Từ đó, có thể hiểu khái niệm trẻ em bao gồm cả người chưa
thành niên hay cũng có thể hiểu rằng người chưa thành niên cũng bao gồm cả trẻ em
và đều là những người ở độ tuổi dưới thành niên (dưới 18 tuổi).
Như vậy, trẻ em trước hết được hiểu là một con người được hưởng mọi
quyền tự do được quy định trong Công ước quốc tế về quyền con người mà không
phải chịu bất cứ một sự phân biệt đối xử nào vì chủng tộc, màu da, giới tính, tôn
giáo, nguồn gốc, dân tộc, tài sản, dòng dõi hay các mối tương quan khác. Đồng thời,
trẻ em là người chưa trưởng thành nên có quyền được chăm sóc, bảo vệ, phát triển
và bày tỏ ý kiến. Bởi vậy, nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm đảm bảo cho
trẻ em những quyền cơ bản nhất.
1.1.2. Bảo vệ và chăm sóc trẻ em
BVCSTE là trách nhiệm của công dân, gia đình, nhà trường, nhà nước và
toàn thể xã hội.
Ngay từ khi sinh ra, mỗi trẻ em đều nhận được sự nâng niu, chăm sóc của
cha mẹ, người thân trong gia đình. Bảo vệ trẻ em trước hết là đảm bảo cho trẻ em
được thực hiện các quyền của mình đồng thời phòng ngừa không để trẻ em bị thiệt
thòi, không bị xâm hại đến các quyền đã được pháp luật thừa nhận. Cùng với đó,
bảo vệ trẻ em còn là ngăn ngừa không để các em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn như: lang thang cơ nhỡ, khuyết tật, bị xâm hại tình dục, trở thành tội phạm vị
thành niên, nghiện ma tuý, tệ nạn xã hội… Chăm sóc trẻ em được tiến hành trên cả
2 mặt vật chất và tinh thần. Trong điều kiện có thể, mỗi gia đình về cơ bản đều dành
sự chăm sóc tốt nhất nhằm cho con em mình có sự phát triển đầy đủ cả về thể chất
lẫn trí tuệ. Trẻ em không phân biệt trai hay gái cần được tạo điều kiện học tập phát

triển theo khả năng của mình. Việc chăm sóc phát triển trí tuệ cho trẻ em có quan hệ
chặt chẽ với việc giáo dục trẻ em. Quan điểm giáo dục hiện nay coi gia đình là một


6

trong ba môi trường giáo dục trẻ em, gia đình là trường học đầu tiên và suốt đời của
mỗi con người.
Khi thực hiện chức năng chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em, gia đình không
thể tách rời khỏi những thiết chế khác là nhà trường và cộng đồng xã hội. Nhà nước
luôn coi trọng vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Thông qua các chính sách pháp
luật của nhà nước, các chương trình giáo dục của nhà trường, các chương trình vui
chơi giải trí của cộng đồng dân cư, trẻ em được tiếp cận với một chế độ bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục đầy đủ, toàn diện. Có thể nói, cả ba môi trường gia đình, nhà
trường và xã hội đều đóng vai trò hết sức quan trọng trong trong công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em, trong đó, gia đình là nơi định hướng, khởi đầu còn nhà trường và
xã hội là môi trường phát triển toàn diện cho trẻ em.
1.1.3. Sự cần thiết của việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Bảo vệ và chăm sóc trẻ em chính là đầu tư cho thế hệ tương lai của đất nước.
Trong những năm gần đây, sự nghiệp chăm sóc trẻ em ở nước ta đã được đẩy mạnh
hơn, nhà nước ta đã có nhiều cố gắng giải quyết những nhu cầu chủ yếu về nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho trẻ em. Việc
ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã huy động được sức mạnh
tổng hợp của nhà nước, gia đình và xã hội vì sự nghiệp to lớn đối với thế hệ tương
lai của đất nước. Tuy nhiên, thực trạng trẻ em Việt Nam hiện nay còn nhiều điều
đáng lo ngại, nhu cầu phát triển của trẻ em trong thời đại mới đòi hỏi sự nỗ lực của
toàn thể nhân dân, sự chỉ đạo tập trung có hiệu quả của Nhà nước, sự hợp tác và hỗ
trợ của cộng đồng thế giới. Theo đó, bảo vệ và chăm sóc trẻ em là nhiệm vụ quan
trọng bởi những yếu tố sau đây.
Thứ nhất, về điều kiện đất nước

Ở nước ta hiện nay, phát triển con người, chăm lo cho con người, cho cộng
đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, là sự nghiệp của toàn Đảng, nhà nước
và toàn dân. Trên thực tế, quá trình vận động của nền kinh tế - xã hội trong giai
đoạn hội nhập ở nước ta một mặt đem lại những thay đổi tích cực cho đất nước,
cuộc sống ấm no cho người dân, nhưng cũng đồng thời tạo ra những vấn đề xã hội


7

có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới trẻ em. Nhiều vấn đề bức xúc liên quan tới
trẻ em có chiều hướng gia tăng như trẻ em bị lạm dụng và bóc lột, trẻ em nghiện
hút, trẻ em phạm pháp, trẻ em bị tai nạn lao động… thực sự là điều đáng lo ngại.
Bên cạnh đó, Việt Nam là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh.
Những hậu quả do chất độc da cam, bom mìn để lại vẫn đang hằng ngày tác động
hết sức nặng nề tới nhiều người, trong đó có rất nhiều trẻ em. Điều đó không chỉ
gây nên những khó khăn về vật chất mà còn là những nỗi đau tinh thần ghê gớm
cho mỗi gia đình có người bị bệnh. Do vậy, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ,
chăm sóc trẻ em ngày càng trở nên cấp thiết và cần được coi trọng trong bối cảnh
hiện nay. Nhà nước cần thể hiện vai trò cân đối và điều tiết vĩ mô, đặt trọng tâm và
ưu tiên nguồn lực hợp lý để thực hiện tốt công tác BVCSTE, đảm bảo điều kiện
phát triển tốt nhất cho đối tượng này.
Thứ hai, về yếu tố văn hóa, tập quán
Dân tộc ta vốn có truyền thống nhân ái, yêu thương con người, luôn dành
những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em. Mỗi đứa trẻ sinh ra là niềm hạnh phúc của cha mẹ,
là niềm hy vọng của gia đình và tương lai của đất nước. Ý thức sâu sắc truyền thống
ấy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc đầu tư cho thế hệ trẻ. Ba tháng trước
lúc đi xa, nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài
trên Báo Nhân dân khẳng định “chăm sóc và giáo dục các cháu là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ” và kêu gọi “Vì tương
lai con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc, giáo

dục các cháu bé cho tốt”[24].
Thấm nhuần truyền thống đạo lý của dân tộc và tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chăm lo việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
thế hệ trẻ, coi đó là vấn đề then chốt trong chiến lược con người, điều đó đòi hỏi
nhiều ở sự quản lý chặt chẽ của các cấp, các ngành liên quan.
Thứ ba, về yếu tố hội nhập quốc tế
Hiện nay, công cuộc toàn cầu hóa với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học –
công nghệ đã và đang làm thế giới thay đổi từng ngày. Việt Nam cũng không nằm


8

ngoài guồng quay đó. Sự xuất hiện và du nhập các lối sống, các biểu hiện văn hóa
và chuẩn mực đạo đức mới thông qua sức mạnh của hệ thống truyền thông làm cho
đời sống tinh thần của con người ngày càng đa dạng, phong phú, nhưng cũng đồng
thời ẩn chứa nhiều cạm bẫy cho giới trẻ. Nhà nước phải thể hiện được vai trò chỉ
đạo, định hướng đúng đắn đối với sự phát triển của trẻ em, để qua đó hạn chế những
luồng văn hóa xấu, những tư tưởng lệch lạc, giảm nguy cơ nảy sinh các vấn đề tiêu
cực trong xã hội, trong đó có các vấn đề về trẻ em. Có thể thấy, Nhà nước đóng vai
trò quan trọng đối với sự hình thành nhân cách và định hướng phát triển đối với trẻ
em nói chung, đặc biệt phải làm sao để có sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân
loại nhưng vẫn giữ gìn được những bản sắc tốt đẹp của dân tộc Việt trong quá trình
hội nhập ngày nay.
1.1.4. Hậu quả của việc trẻ em thiếu đƣợc chăm sóc và bảo vệ
Trẻ em là đối tượng cần sự quan tâm đặc biệt, bởi chưa có khả năng tự bảo
vệ và chăm sóc bản thân một cách toàn diện. Việc nhận được sự chăm sóc và bảo vệ
như thế nào khi còn nhỏ có ảnh hưởng lớn tới nhân cách khi trẻ em đó trở thành
người trưởng thành. Vì thế, việc trẻ em thiếu sự chăm sóc và bảo vệ có thể dẫn đến
những hệ lụy cho chính bản thân trẻ em và gia đình, xã hội.
Một là, hậu quả đối với bản thân trẻ em

Việc thiếu được chăm sóc và bảo vệ có thể gây nên những hậu quả nặng nề
cả về mặt thể chất và tinh thần, trí tuệ của trẻ em.
Về mặt thể chất: điều kiện sống thấp, môi trường kém vệ sinh, nguồn nước ô
nhiễm và thiếu sự chăm sóc về mặt dinh dưỡng của gia đình là nguyên nhân của các
bệnh như còi xương, suy dinh dưỡng, tiêu chảy, suy hô hấp, thiếu máu, và nhiều
loại bệnh khác. Ví dụ, đối với một loại bệnh phổ biến là suy dinh dưỡng. Theo số
liệu thống kê của Viện Dinh dưỡng quốc gia năm 2009, tỷ lệ suy dinh dưỡng do
thiếu cân (vừa và nặng kết hợp) ở trẻ dưới 5 tuổi năm 2008 vẫn ở mức 20% (đã
giảm từ 34% năm 2000). Tỷ lệ này cao nhất ở vùng Tây bắc và thấp nhất ở vùng
Đông Nam (29% so với 11%). Suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi (hay còi cọc)
gần đây đã được coi là một chỉ số quan trọng phản ánh chất lượng sống của trẻ. Số


9

liệu của Viện Dinh dưỡng quốc gia năm 2008 cho thấy có 32,6% trẻ dưới 5 tuổi ở
Việt Nam bị còi cọc, đến năm 2014, con số này được cải thiện nhưng vẫn ở mức
cao, đạt 24,9% [28]. Như vậy, có thể nói điều kiện chăm sóc và bảo vệ kém là
nguyên nhân đầu tiên của tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em, gây ảnh hưởng rất
xấu tới việc phát triển thể chất của trẻ, chưa nói đến khả năng hoàn thiện về mặt
tinh thần, trí tuệ và tư duy.
Về mặt tinh thần, trí tuệ: Một điều không thể phủ nhận là khi một đứa trẻ
thiếu sự chăm sóc, bảo vệ của gia đình và cộng đồng thì sẽ không có điều kiện được
tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, học tập, ít có khả năng được tiếp cận với
các dịch vụ xã hội tiên tiến để tiếp thu, nâng cao kĩ năng sống. Cùng với đó, các
nguy cơ phải đối mặt với sự phân biệt đối xử, sự xâm phạm về thể chất, tinh thần
đối với nhóm trẻ em này cũng cao hơn so với các em được chăm sóc và bảo vệ đầy
đủ. Trong khi các em còn non nớt về trí tuệ, hạn chế về kinh nghiệm sống, hạn chế
về khả năng chống chọi thì những yếu tố nêu trên tác động dễ làm cho các em sa
ngã, hoặc bị khủng hoảng về tinh thần, tha hoá về đạo đức, lối sống.

Hai là, hậu quả đối với gia đình và xã hội
Việc trẻ em thiếu sự chăm sóc và bảo vệ không chỉ tác động tiêu cực đến bản
thân các em như đã nêu ở trên mà còn gây ra những hậu quả bất lợi cho cả trước
mắt và lâu dài đối với sự phát triển của mỗi gia đình và toàn xã hội. Tình trạng trẻ
em không có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, không được đến trường, trẻ em lang
thang, trẻ em phạm tội, dính líu tới các hành vi tệ nạn, trẻ em bị xâm hại, lao động
trẻ em gia tăng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống an sinh xã hội, là gánh nặng
đối với hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật… Bởi vậy, việc nâng cao nhận thức của
người dân và cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ và chăm sóc trẻ em là rất cần
thiết trong bối cảnh hiện nay.


10

1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực bảo vệ và
chăm sóc trẻ em
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực BVCSTE chính là hoạt động của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em diễn ra
thông suốt, hiệu quả, đúng pháp luật. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực BVCSTE là
một phần của hoạt động quản lý nhà nước nói chung, hiện nay được thực hiện đồng
thời bởi nhiều cơ quan như Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Ủy ban Dân tộc… dưới sự chỉ đạo
thống nhất của Chính phủ. Hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực BVCSTE thể
hiện ở việc thực hiện một số nhiệm vụ chính sau đây:
- Nhà nước ban hành hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp về BVCSTE và
triển khai việc thực hiện những chính sách, pháp luật ấy trên thực tế.
- Nhà nước đầu tư nguồn lực vào việc xây dựng hệ thống trường học, bệnh
viện, cơ sở y tế, cơ sở vui chơi giải trí nhằm đảm bảo trẻ em được học hành, chữa
bệnh, vui chơi.

- Nhà nước thực hiện chính sách tuyên truyền, vận động, giáo dục tới mọi
tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng của công tác BVCSTE; biểu dương, khuyến
khích các phong trào tốt, chương trình hay về BVCSTE; xử lý nghiêm minh các
trường hợp ngược đãi, đối xử tàn tệ với trẻ em.
- Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần đối với các
trường hợp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em có gia đình nghèo, trẻ em mồ côi,
tàn tật, trẻ em lang thang, trẻ em không được đến trường…
1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực BVCSTE có một số đặc điểm như sau:
- Mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn
phương của nhà nước;


11

- Mang tính khoa học, tính kế hoạch. Theo đó, nhà nước phải tổ chức các
hoạt động quản lý của mình lên đối tượng quản lý theo chương trình nhất quán, cụ
thể và theo kế hoạch đã vạch ra trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
- Hoạt động quản lý này là những tác động mang tính liên tục và ổn định lên
các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Hoạt động quản lý nhà nước
phải diễn ra thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn.
- Hoạt động quản lý này là sự phối kết hợp của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
như ngành Lao động, thương binh và xã hội, ngành Y tế, ngành Giáo dục, Công
an,…cùng chính quyền địa phương và gia đình. Bên cạnh đó, các cơ quan khác
trong hệ thống chính trị như Quốc hội (chủ yếu thông qua Ủy ban Văn hóa, giáo
dục, thanh thiếu niên và nhi đồng; Hội đồng dân tộc), Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
xã hội… cũng tham gia vào quá trình quản lý ở các khâu khác nhau.
- Hoạt động quản lý này nhận được sự quan tâm của toàn xã hội, bởi nó liên
quan mật thiết tới trẻ em – tương lai của mỗi gia đình và của đất nước.
1.3. Chủ thể quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở Việt

Nam
Hiện nay, ở Việt Nam có hệ thống các cơ quan thực hiện quản lý nhà nước
trong lĩnh vực BVCSTE từ trung ương đến địa phương. Các cơ quan này nằm dưới
sự quản lý thống nhất của Chính phủ, có nhiệm vụ xây dựng các chương trình
BVCSTE, tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện các chương trình ấy.
1.3.1. Chính phủ
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Trong lĩnh vực BVCSTE, Chính
phủ quản lý thống nhất hoạt động của các bộ, ngành và địa phương trong việc bảo
đảm cho trẻ em có môi trường phát triển đầy đủ và an toàn; ban hành các văn bản
pháp luật về BVCSTE, ví dụ như: Nghị định số 71/2011 Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Nghị định


12

số 144/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo
vệ, chăm sóc trẻ em…
Thủ tướng Chính phủ, với vai trò là người đứng đầu Chính phủ, cũng ban
hành các quyết định quan trọng trong lĩnh vực BVCSTE như: Quyết định số
267/2011 Phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015,
Quyết định số 1555/2012 Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai
đoạn 2012-2020… Căn cứ vào các quy định của Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ, các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện thông qua việc ban hành các
văn bản hướng dẫn và chương trình hành động cụ thể.
1.3.2. Các Bộ
1.3.2.1. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Trước đây, cơ quan quản lý nhà nước về BVCSTE là Ủy ban Dân số, Gia
đình và Trẻ em thuộc Chính phủ. Từ năm 2007, nhiệm vụ quản lý nhà nước về

BVCSTE thuộc về Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH). Bộ LĐTB&XH có cơ quan trực tiếp thực hiện công tác BVCSTE là Cục Bảo vệ và Chăm
sóc trẻ em. Cơ quan này có trách nhiệm giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về lĩnh vực BVCSTE theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi thẩm
quyền của mình, Cục Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em thực hiện một số chức năng chính
như: Nghiên cứu, xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp
luật về lĩnh vực BVCSTE; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách, giải pháp về
BVCSTE, chính sách, giải pháp phòng ngừa trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, trẻ
em có nguy cơ bị tổn thương; phòng chống tai nạn, thương tích cho trẻ em…
1.3.2.2. Bộ Y tế
Bộ Y tế có các chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, y tế điều trị
và dự phòng và tất cả các dịch vụ công do bộ quản lý. Đối với trẻ em, Bộ Y tế chịu
trách nhiệm đảm bảo trẻ em được chăm sóc đầy đủ về mặt sức khỏe, dành sự quan
tâm lớn tới trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ em khuyết tật, trẻ em chịu ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS... Bộ Y tế phối hợp với các cơ quan khác thực hiện các


13

chương trình chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em, chương trình tiêm chủng mở
rộng cho trẻ em, chương trình phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật…
1.3.2.3. Bộ Giáo dục và Đào tạo
Hiện nay, giáo dục-đào tạo là ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta,
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định mục tiêu tổng quát của giáo dục trong
giai đoạn mới là: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt
nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. Nhiệm vụ chính của Bộ Giáo dục và Đào
tạo (GD&ĐT) là xây dựng các chương trình và chính sách nhằm đảm bảo quyền
được học tập của trẻ em, tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh, toàn diện; xác định
rõ công tác cải cách chương trình giáo dục, sách giáo khoa, chương trình học, đào

tạo cho trẻ em giúp trẻ em phát triển nhân cách và trí tuệ một cách đầy đủ.
1.3.2.4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Xét cả từ góc độ pháp lý lẫn khía cạnh đạo đức, truyền thống thì trách nhiệm
chăm sóc, bảo vệ trẻ em trước hết thuộc về gia đình. Có thể nói, mặc dù điều kiện,
mức độ đầu tư chăm sóc con cái của các gia đình còn chênh lệch nhau, song hầu hết
các gia đình đều ưu tiên đến mức cao nhất cho việc chăm lo cho trẻ em được ăn,
mặc, học hành, khám chữa bệnh. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTT&DL) chịu trách nhiệm xây dựng chính sách và chương trình nhằm ngăn chặn
tình trạng bạo lực gia đình; xây dựng và phát triển “gia đình văn hóa”, cũng như
giáo dục cộng đồng về phong cách sống và cách ứng xử trong gia đình truyền thống
của Việt Nam. Tất cả các nhiệm vụ đó nhằm đảm bảo cho mỗi trẻ em được chăm
sóc và lớn lên ở môi trường gia đình an toàn, đầm ấm, giàu tình thương. Bộ cũng là
cơ quan quản lý các hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí cho trẻ em.
Bên cạnh một số cơ quan có nhiệm vụ chủ đạo trong công tác quản lý nhà
nước về bảo vệ và chăm sóc trẻ em như trên, các cơ quan khác cũng tham gia vào
quá trình quản lý ấy ở các lĩnh vực khác nhau, như:


14

Bộ Công an: chịu trách nhiệm áp dụng các biện pháp ngăn chặn các hành vi
vi phạm quyền trẻ em, giáo dục và cải tạo thanh thiếu niên có hành vi trái pháp luật.
Bộ Tư pháp: theo Nghị định 22/2013/NĐ-CP, Bộ Tư pháp có chức năng
quản lý nhà nước trong lĩnh vực phổ biến giáo dục pháp luật; cung cấp trợ giúp
pháp lý cho trẻ em; quản lý hoạt động cho nhận con nuôi (trong nước và nước
ngoài); định hướng nhận thức và giáo dục về pháp luật bảo vệ trẻ em.
Bộ Tài chính: chịu trách nhiệm hướng dẫn các Bộ ngành khác và các Ủy ban
nhân dân lập dự toán ngân sách hàng năm và dài hạn dành cho trẻ em, đề xuất các
chính sách huy động nguồn lực tài chính để phục vụ các hoạt động vì quyền trẻ em.
Ủy ban Dân tộc: thực hiện công tác tham mưu về các vấn đề dân tộc thiểu
số, phối hợp với các Bộ ngành và các cơ quan khác xây dựng và thực hiện các chính

sách, kế hoạch và chương trình hành động liên quan tới các vấn đề dân tộc thiểu số,
trong đó có công tác BVCSTE. Theo đó, Ủy ban Dân tộc phối hợp với Bộ GD&ĐT
và chính quyền các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện các chương
trình hỗ trợ trẻ em đến trường, nâng cao cơ hội học tập của trẻ em người dân tộc
thiểu số; tuyên truyền, vận động người dân tộc thiểu số cho con em đi học; cải thiện
nhận thức của người dân về tình trạng phân biệt trẻ em trai với trẻ em gái; nâng cao
tỉ lệ trẻ em gái, nhất là trẻ em gái người dân tộc thiểu số được đến trường; phối hợp
với Bộ Y tế thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe cho người dân tộc thiểu
số nói chung và bà mẹ, trẻ sơ sinh nói riêng; tuyên truyền giáo dục sức khỏe, vệ
sinh phòng bệnh, kế hoạch hóa gia đình cho đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa…
Tổng cục Thống kê: có chức năng thống kê quốc gia và quản lý hoạt động
thống kê của các bộ ngành. Ngoài hệ thống báo cáo của các bộ ngành và của địa
phương, Tổng cục thống kê còn tiến hành các cuộc Tổng điều tra và các khảo sát,
điều tra chọn mẫu như Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở (các năm 1989, 1999 và
2009), các cuộc khảo sát hộ gia đình quan trọng như Khảo sát mức sống hộ gia đình
Việt Nam (KSMS), Điều tra các mục tiêu trẻ em và phụ nữ (MICS), Điều tra Y tế
và Nhân khẩu học (DHS), Điều tra Gia đình, Điều tra về Thanh thiếu niên Việt Nam


15

(SAVY), Điều tra Biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình, nhằm cung cấp các
thông tin cơ bản về tình hình của trẻ em và phụ nữ Việt Nam…
1.3.3. Chính quyền địa phƣơng
Hội đồng Nhân dân các cấp có nhiệm vụ thông qua các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương và giám sát việc thực hiện các kế hoạch ấy, trong đó
có vấn đề BVCSTE như: quyết định chủ trương, biện pháp, quy hoạch, kế hoạch
phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, bảo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho các
hoạt động giáo dục, đào tạo ở địa phương; quyết định biện pháp giáo dục, bảo vệ,
chăm sóc thanh niên, thiếu niên và nhi đồng xây dựng nếp sống văn minh, gia đình

văn hoá, giáo dục truyền thống đạo đức tốt đẹp, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân
tộc; quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh; biện
pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ và chăm sóc, bà mẹ, trẻ em, trẻ mồ côi
không nơi nương tựa… Thông thường, ở các địa phương, một số chỉ tiêu liên quan
đến trẻ em được đưa vào Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, hoặc
được đề cập đến trong các hoạt động giám sát về các nội dung như giáo dục, y tế,
văn hóa nói chung, hoặc trong các hội nghị tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp.
Ủy ban Nhân dân (UBND) cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã chịu trách nhiệm
thực hiện quyền trẻ em trong địa phương của mình theo quyền hạn được Chính phủ
giao phó. Cụ thể là UBND sẽ chịu trách nhiệm phân bổ nguồn tài chính tới các
trường học, trạm y tế, trung tâm thể thao, các nhà văn hóa, các khu vui chơi giải
trí… dành cho trẻ em. Tất cả các Bộ đều có các sở ngành tương ứng tại địa phương
hoạt động dưới sự quản lý của UBND. Các sở ngành tại địa phương chính là những
đơn vị thực hiện các chính sách và qui định về quyền trẻ em tại địa bàn. Ngoài ra,
UBND các cấp phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Nhân dân trong việc xây dựng và
thực hiện công tác lập kế hoạch hoạt động và kế hoạch ngân sách phát triển xã hội
tại địa phương, trong đó có các chương trình, kế hoạch về BVCSTE.
1.4. Pháp luật về bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Trẻ em là một đối tượng quan trọng của xã hội, đây là đối tượng được xếp
vào diện nhóm người dễ bị tổn thương (vulnerable groups) nên luôn được ưu tiên


16

bảo vệ trong chính sách pháp luật của mỗi quốc gia và pháp luật quốc tế. Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật chưa có khái niệm thống nhất về sự điều chỉnh
pháp luật đối với trẻ em. Xét một cách phổ quát nhất, có thể hiểu sự điều chỉnh
pháp luật về trẻ em là một bộ phận của sự điều chỉnh pháp luật nói chung, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện
nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến trẻ em. Sự điều chỉnh pháp

luật ấy xác định địa vị pháp lý của trẻ em trong mối tương quan với các đối tượng
khác trong xã hội. Địa vị pháp lý này được hiểu là tổng thể những quyền và nghĩa
vụ pháp lý của trẻ em cùng với những đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ này.
1.4.1. Pháp luật quốc tế về bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Pháp luật quốc tế có những quan tâm đặc biệt đối với trẻ em. Cho đến đầu
thế kỉ XX, thế giới vẫn chưa có sự nhìn nhận đúng mức về vấn đề bảo vệ trẻ em.
Chỉ đến năm 1924, khái niệm “quyền trẻ em” mới chính thức được đề cập trong luật
pháp quốc tế, khi Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em được Hội Quốc liên thông
qua. Năm 1948, Liên Hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người,
trong đó khẳng định trẻ em cũng là chủ thể bình đẳng của các quyền con người.
Năm 1959, LHQ thông qua bản Tuyên ngôn (thứ hai) về quyền trẻ em, phát triển
nội dung của Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924. Từ năm 1959 đến những năm 80
của thế kỷ XX, một loạt văn kiện quốc tế khác cũng được thông qua, trực tiếp hoặc
gián tiếp đề cập đến các quyền của trẻ em. Song, các văn kiện này hoặc không có
tính ràng buộc về nghĩa vụ pháp lý hoặc chưa tiếp cận từ vị thế đặc biệt và chú
trọng đến những nhu cầu đặc thù của trẻ em nên tác động trên thực tế rất hạn chế.
Trẻ em cần phải được sống trong hòa bình, trong xã hội thân ái; cần phải được sự
chăm sóc của Nhà nước, xã hội, gia đình và cần có sự bảo vệ về mặt pháp lý. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa ở những quốc gia đang phát triển. Vì vậy, cần phải có điều
ước quốc tế đa phương ghi nhận và điều chỉnh lĩnh vực này.
Với sự nỗ lực của các quốc gia, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã
được thông qua và ký kết ngày 20/11/1989 và có hiệu lực từ ngày 2/9/1990, hiện


17

nay đã có 197 quốc gia thành viên tham gia. Công ước để ngỏ cho các quốc gia
tham gia ký kết, phê chuẩn và gia nhập. Ngoài lời nói đầu, nội dung của Công ước
gồm 3 phần với 54 điều khoản, bao quát được tất cả những khía cạnh liên quan đến

quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền
của trẻ em, mối quan hệ giữa trẻ em và quyền con người nói chung [21]. Khoản 1
Điều 2 của Công ước khẳng định: " Các quốc gia thành viên phải tôn trọng và bảo
đảm những quyền được nêu ra trong Công ước này đối với mọi trẻ em thuộc quyền
tài phán của họ mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc
dân tộc, sắc tộc hay xã hội, tài sản, khuyết tật, thành phần xuất thân hay địa vị khác
của trẻ em hoặc cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp của trẻ em đó”.
Năm 1990, tại New York đã diễn ra hội nghị thượng đỉnh thế giới về trẻ em.
Năm 2000 Liên Hợp Quốc thông qua hai nghị định bổ sung Công ước quyền trẻ em,
đó là Nghị định thư không bắt buộc về việc sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang
và Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá
phẩm khiêu dâm trẻ em. Từ ngày 8/5 đến 10/5/2002, một khóa họp đặc biệt về trẻ
em được Liên Hợp Quốc tổ chức tại New York. Hội nghị đã xác định những mục
tiêu toàn cầu về trẻ em giai đoạn 2001 - 2010 nhằm “Xây dựng một thế giới phù
hợp với trẻ em”.
Như vậy, thông qua quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các quốc gia đã có
những sự thỏa thuận và cam kết mạnh mẽ trong việc tạo ra những khung pháp lý về
việc thực hiện các chính sách đối với vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Điều đó tạo
cơ sở vững chắc cho việc đảm bảo thực hiện các quyền trẻ em trên toàn cầu.
1.4.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật, với phạm vi điều
chỉnh rất rộng bao gồm nhiều đối tượng, nhiều hành vi. Trẻ em với tư cách là một
chủ thể pháp luật, các quan hệ xã hội về trẻ em cũng là một trong những đối tượng
điều chỉnh của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật nước ta.


18

Ngay từ thế kỷ thứ XV, Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông ban hành

đã có nhiều điều khoản quy định trách nhiệm của quan lại và dân chúng địa phương
phải giúp đỡ trẻ em tàn tật, trẻ mồ côi; đặc biệt, bộ luật này còn thể hiện tinh thần
nhân văn rất cao với việc quy định rõ các hình thức xét xử độ lượng đối với trẻ em
phạm tội. Ví dụ, nhà lập pháp triều Lê đã quy định việc áp dụng hồi tố đối với
người chưa thành niên phạm tội tại điều 17 Bộ luật Hồng Đức: “Người nào khi
phạm tội chưa già cả, tàn tật đến khi già cả, tàn tật mới phát hiện thì xử tội theo
luật khi già cả, tàn tật và khi nhỏ mà phạm tội đến khi lớn mới phát giác thì xử tội
theo luật khi còn nhỏ”. Để xử lý người chưa thành niên phạm tội, nhà làm luật đã
phân biệt khả năng và mức độ trách nhiệm hình sự của họ. Điều 16 Bộ luật Hồng
Đức quy định: “Những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người
bị phế tật phạm từ tội lưu trở xuống đều cho chuộc tội bằng tiền…10 tuổi trở
xuống… phạm tội phản nghịch, giết người, đáng phải tội chết thì cũng tâu vua để
xét định; ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc, còn ngoài ra không bắt
tội; 7 tuổi trở xuống dầu có bị tội chết cũng không hành hình…” [10]. Điều này
càng cho thấy ý nghĩa nhân đạo sâu sắc trong bối cảnh phong kiến với hệ tư tưởng
Nho giáo bấy giờ. Rõ ràng, những quy định này có nhiều điểm tương đồng với hệ
thống luật của nước ta hiện nay trong việc bảo vệ quyền đối với đối tượng chưa
thành niên phạm tội.
Hiện nay, pháp luật về trẻ em có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến
nhiều nhóm quan hệ xã hội, nhiều ngành luật khác nhau. Các ngành luật thuộc hệ
thống pháp luật Việt Nam như Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Hình sự,
Luật Dân sự... đều bảo vệ quyền trẻ em theo một đặc thù riêng của ngành luật mình.
Quan điểm nhân văn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi trẻ em là tương
lai của đất nước, cần nhận được sự quan tâm, chăm sóc của toàn thể xã hội. Bởi
vậy, tất cả các quy định pháp luật đều hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của trẻ em, đảm bảo cho trẻ em có môi trường phát triển lành mạnh, đầy đủ.


19


Theo thông tin được nêu trong Báo cáo quốc gia về việc thực hiện Công ước
quốc tế về quyền trẻ em năm 2008, Chính phủ Việt Nam tiếp tục áp dụng các biện
pháp nhằm đảm bảo các quyền của trẻ em thông qua:
- Tăng cường sự giám sát và lãnh đạo của Nhà nước và chính quyền các cấp
đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đồng thời khuyến khích sự
tham gia của tất cả các tổ chức, đoàn thể xã hội, chính trị, kinh tế, gia đình và
trường học;
- Thực hiện hiệu quả pháp luật và chính sách hiện hành của Việt Nam liên
quan đến trẻ em; tiếp tục củng cố hệ thống luật pháp và các chính sách để thực hiện
và bảo vệ các quyền của trẻ em, tuân thủ các qui định của pháp luật quốc tế. Đồng
thời tập trung vào việc lồng ghép một cách hiệu quả các vấn đề trẻ em vào kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội của cả nước và từng địa phương;
- Tăng nguồn lực hiện có cho bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em từ ngân
sách nhà nước và các nguồn được đóng góp bởi các tổ chức trong nước, quốc tế và
cá nhân; tăng cường và củng cố cơ cấu tổ chức các cơ quan Chính phủ chịu trách
nhiệm về lĩnh vực trẻ em và giáo dục, đào tạo cán bộ và cộng tác viên, tình nguyện
viên.
- Nâng cấp cơ sở dữ liệu, thu thập và chia sẻ thông tin liên quan đến trẻ em;
tăng cường đánh giá, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các quyền của trẻ em; chú
trọng hơn nữa nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em [26, tr. 51]
Hiện nay, quy định về BVCSTE ở Việt Nam được thể hiện trong một số văn
bản pháp luật chính như sau:
 Hiến pháp 2013: Quy định các quyền cơ bản của công dân Việt nam bao gồm trẻ
em.
 Bộ luật Dân sự 2005: Quy định nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với công dân
Việt Nam không phân biệt đối xử trên cơ sở dân tộc, giới tính, vị trí xã hội và
kinh tế, tôn giáo, công nhận các quyền của cá nhân.



20

 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em 2004: Các nguyên tắc cơ bản về
quyền trẻ em; công nhận nhiều quyền và một số nghĩa vụ của trẻ em; trách nhiệm
của các bên khác nhau, các nguồn tài chính và hợp tác quốc tế để bảo vệ quyền
trẻ em.
 Luật Thanh niên 2005: Quy định các trách nhiệm của những đối tượng có trách
nhiệm như Nhà nước, gia đình, và xã hội trong việc bảo vệ quyền của trẻ em
trong độ tuổi từ 16 đến 18.
 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi năm 2009): Một số qui định liên quan tới các biện
pháp xử lý đối với người phạm tội là trẻ em, với nạn nhân và nhân chứng là trẻ
em.
 Bộ luật Lao động 2012: Xác định độ tuổi đối với việc tuyển dụng lao động và
cấm mọi hình thức lao động trẻ em.
 Pháp lệnh Phòng chống mại dâm 2003: Gồm các qui định về phòng chống tệ nạn
mại dâm và các biện pháp giải quyết tình trạng mại dâm trẻ em.
 Luật Giáo dục 2005: Quy định các nguyên tắc giáo dục trẻ em, định hướng đầu
tư cho giáo dục.
 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004: Quy định các thủ tục trong kháng án dân sự; các
thủ tục xem xét vụ việc liên quan tới quyền trẻ em và phụ nữ.
 Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007: Quy định bạo lực gia đình (bao gồm cả
bạo lực đối với trẻ em) là hành vi phạm pháp.
 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Khuyến khích bình đẳng giới trong hôn nhân,
đối xử bình đẳng với con trai và con gái, trẻ em được sinh ra trong và ngoài giá
thú, con nuôi và con đẻ.
 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012: Quy định đối với xử phạt vị thành niên vi
phạm pháp luật.
 Luật Nghĩa vụ quân sự 1981 (sửa đổi năm 2005): Quy định độ tuổi nhập ngũ là
18 tuổi và đưa ra các biện pháp nhằm đảm bảo không tuyển trẻ em ít hơn 18 tuổi.



×