Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

góc nhìn của sinh viên không chuyên triết tiểu luận hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.43 KB, 26 trang )

Lời cảm ơn

Để hoàn thành tốt tiểu luận về học thuyết Mác - Lênin em xin chân
thành cảm ơn Trường Cao đẳng Sư phạm Nhà trẻ - Mẫu giáo Trung ương I,
Khoa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Thư viện trường và toàn thể các
bạn sinh viên đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình làm tiểu luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Văn Thắng


Lời Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin không phải đi
theo một chủ nghĩa thần bí nào mà là đi theo một chủ nghĩa mang tính khoa
học để phát triển xã hội, đổi mới cuộc sống con người. Qua thực tiễn hoạt
động, Đảng và Nhà nước ta đã tự phê phán và lắng nghe những lời phê
phán trung thực đối với chủ nghĩa Mác, đối với chủ nghĩa Mác - Lênin là
điều tự nhiên. Song, có những ý kiến phản bác chủ nghĩa Mác hiện nay lại
dựa vào những sai sót về cơ chế chỉ đạo cụ thể trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội để phủ nhận cả một hệ thống lý luận khoa học. Cùng với điều đó là tư
tưởng sùng bái chủ nghĩa tư bản lúc đó đang là "một thế giới không chấp
nhận được". Hơn lúc nào hết những người cách mạng phải đấu tranh với
các quan điểm thù địch nhằm bảo vệ đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin nói
chung và học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội nói riêng.
Với những lý do nêu trên tôi đi vào nghiên cứu hình thái kinh tế xã hội nhằm góp phần nhận thức đúng đắn thêm lý luận của học thuyết
Mác - Lênin.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong giai đoạn hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đề
cập đến vấn đề nghiên cứu lịch sử loài người như: ViCô người Italia,
Hăng-ri Mooc-găng người Mỹ... Tuy nhiên, việc nghiên cứu của các


chuyên gia nêu trên đều chưa khoa học. Nghiên cứu học thuyết của Mác
góp phần hiểu đúng hơn, làm rõ thêm tính khoa học.
3. Mục tiêu của đề tài và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

1


Mục tiêu: Thông qua việc kết hợp phân tích giữa phương pháp
nghiên cứu của các quan điểm trước Mác và quan điểm hiện đại nhằm nâng
cao nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nhiệm vụ:
1) Làm rõ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay.
2) Hệ thống hóa làm rõ các quan điểm mác-xít về hình thái kinh tế xã hội.
3) Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả việc đánh giá học thuyết Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay.
4. Đóng góp của tiểu luận
* Về mặt lý luận:
- Hệ thống hóa hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác.
- Góp phần khẳng định giá trị bền vững và tác động của nhân tố
hiện đại đến sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội hiện nay.
* Về mặt thực tiễn:
- Đánh giá khái quát thực trạng nhìn nhận hình thái kinh tế - xã hội
trong thời đại hiện nay.
- Nêu lên việc phát triển hình thái kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp làm tiểu luận
5.1. Phương pháp luận: Tiểu luận thực hiện trên cơ sở vận dụng
phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Mối quan hệ phổ biến và đặc thù
5.2. Phương pháp nghiên cứu chung: Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa.
6. Kết cấu tiểu luận

Ngoài phần lời cảm ơn, lời mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm 2
chương:

2


Chương I: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
Chương II: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào Việt Nam.

3


Chương I
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội

1. Quan điểm trước Mác về sự phát triển lịch sử xã hội loài người
Trước Mác, các nhà xã hội học, triết học không giải thích được một
cách khoa học sự vận động quy luật khách quan của lịch sử. Chẳng hạn:
Nhà xã hội học Italia là Vi Cô (1668-1744) đã phân chia các thời kỳ
lịch sử như phân chia các giai đoạn của một vòng đời: thơ ấu, thanh niên,
thành niên và tuổi già.
Nhà triết học duy tâm Đức Hêghen (1770-1831) lại phân chia lịch
sử loài người thành ba thời kỳ chủ yếu là thời kỳ phương Đông, thời kỳ cổ
đại và thời kỳ Giec-ma-ni.
Nhà xã hội học không tưởng người Pháp Phuriê (1771-1837) đã
phân chia thời kỳ lịch sử thành bốn thời kỳ: thời kỳ mông muội, thời kỳ dã
man, thời kỳ gia trưởng và thời kỳ văn minh.
Nhà nhân chủng học người Mỹ Hăng-ri Mooc-găng (1818-1881) lại
phân chia lịch sử thành ba thời kỳ chính: thời kỳ mông muội, thời kỳ dã
man và thời kỳ văn minh... những cách phân kỳ như vậy không đem lại

cách nhìn khoa học về một xã hội cụ thể.
2. Nội dung lý luận hình thái kinh tế - xã hội
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết quá trình
lịch sử, Mác đã nêu ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội với những nội dung chính sau:
2.1. Quan niệm thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại
và phát triển xã hội

4


Sự sản xuất xã hội là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và
xã hội loài người, đó là cái phân biệt "sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loài
người và loài súc vật". Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản
xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Trong hiện thực, ba quá
trình này của sản xuất không tách biệt nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ
vai trò nền tảng, là cơ sở của tồn tại và phát triển của xã hội, và xét đến
cùng thì sản xuất vật chất quy định và quyết định toàn bộ đời sống xã hội.
2.2. Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh
phục giới tự nhiên bằng tất cả sức mạnh hiện thực của mình trong quá trình
thực hiện sự sản xuất xã hội, là cái nói lên năng lực của con người trong
quá trình sản xuất ra của cải của xã hội.
Lực lượng sản xuất được tạo thành do sự kết hợp giữa lao động với
tư liệu sản xuất mà trước hết là với công cụ lao động cũng như khoa học.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất, quan hệ sản xuất gồm ba mặt: Quan hệ
sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và sản xuất, quan
hệ phân phối sản phẩm trong sản xuất.

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc và tác động lẫn
nhau một cách biện chứng và biểu hiện thành một trong những quy luật cơ
bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội. Mác viết: "Những quan hệ
sản xuất đều gắn liền mật thiết với lực lượng sản xuất. Do có được những
lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình
và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người
thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay

5


đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội
có nhà tư bản công nghiệp" (1).
Sự biến đổi của sản xuất luôn luôn theo chiều tiến bộ, và xét cho
cùng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất, trước hết là công cụ lao động. Cùng với sự phát triển của lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất. Đương nhiên, khi trình độ của lực lượng
sản xuất phát triển thì tính chất của nó cũng phát triển theo.
Trình độ của lực lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của
con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm
bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao
động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sản phẩm của sự kết
hợp giữa các nhân tố:
- Trình độ của công cụ lao động;
- Trình độ tổ chức lao động xã hội;
- Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất;
- Trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người;
- Trình độ phân công lao động.
Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã

hội hóa của tưliệu sản xuất và của lao động. ứng với sự phát triển của nền
sản xuất xã hội được thể hiện thông qua sự phát triển của công cụ lao động,
tính chất xã hội của lực lượng sản xuất cũng biến đổi. Tuy vậy, trong nền
sản xuất xã hội đôi khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không đi
đôi với tính chất xã hội hóa của nó.

(1)

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.4, tr.187.

6


Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phản ánh khả năng
chinh phục giới tự nhiên của con người; khả năng này chỉđạt tới đỉnh cao
khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản
xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Chỉ khi nào cả ba
mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động
và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của lực lượng
sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất
xã hội hóa ở mức cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất sẽ chuyển thành không phù hợp. Mâu thuẫn càng trở nên gay gắt tất
yếu sẽ dẫn tới việc xã hội phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác quan
hệ sản xuất cũ và thay bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất

phát triển. Điều này sẽ dẫn tới sự diệt vong của phương thức sản xuất cũ và
sự ra đời của phương thức sản xuất mới.
Như vậy, theo Mác lực lượng sản xuất xét đến cùng đóng vai trò
quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất dẫn đến thay đổi toàn
bộ xã hội.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất cũng tác động trở lại lực lượng sản
xuất và trên cơ sở hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
2.3. Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng

7


Cơ sở hạ tầng là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh
tế của một xã hội nhất định. Đặc trưng cho tính chất cơ sở hạ tầng của xã
hội là do quan hệ sản xuất thống trị quyết định. Cơ sở hạ tầng bao gồm:
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm
mống. Trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp thì tính chất của sự đối kháng
giai cấp, sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của kiến trúc thượng tầng được hình
thành trên cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng bao gồm những tư tưởng xã hội: đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật, chính trị, pháp luật và những thiết chế: Nhà nước, giáo hội.
Mỗi kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển
riêng nhưng có liên hệ tác động lẫn nhau đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng của giai cấp đối kháng bao gồm hệ tư tưởng và thể
chế của giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm xã hội trước. Hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của kiến trúc

thượng tầng trong một hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thể hiện
ở chỗ cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng nào thì
kiến trúc thượng tầng ấy tức là kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở hạ
tầng. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng
cũng sẽ diễn ra. Sự thay đổi đó xét đến cùng là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất quy định. Mặc dù kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở
lại cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng có thể tác động trở lại cơ sở hạ
tầng vì chức năng của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ duy trì cơ sở hạ tầng
sinh ra nó. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ
sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò

8


to lớn và chủ đạo đối với cơ sở hạ tầng. Sự tác động trở lại của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở hai mặt:
1) Nếu nó phù hợp thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội.
2) Nếu không phù hợp thì nó kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Mác viết: "Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng
như là sự phát triển chung của tinh thần con người để giải thích những quan
hệ và hình thái đó, mà trái lại phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó
bắt nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật chất... Nếu ta không thể nhận định
được về một con người mà chỉ căn cứ vào ý kiến của chính người đó với
bản thân thì không thể nhận định được về một thời đại đảo lộn như thế mà
chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý thức ấy bằng
những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có của lực
lượng sản xuất xã hội và quan hệ sản xuất xã hội" (1).
Từ những quan niệm trên Mác đi đến một kết luận hết sức khái
quát: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình con người có những

quan hệ nhất định, tất yếu không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những
quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ
sản xuất vật chất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế - xã hội, tức là cái cơ sở hiện
thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và
những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực
đó"(2).
Từ đó Mác đi tới định nghĩa "hình thái kinh tế - xã hội là một phạm
trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch
sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng do xã hội đó phù hợp

(1)
(2)

C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, tr.14.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, tr.15.

9


với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy" (3).
3. ý nghĩa to lớn và giá trị bền vững của học thuyết Mác về hình
thái kinh tế - xã hội
3.1. ý nghĩa khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình
thái kinh tế - xã hội
3.1.1. ý nghĩa khoa học
Xét trong bối cảnh lịch sử của khoa học xã hội nói chung và triết
học nói riêng, có thể nói rằng học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của
Mác ra đời là một cuộc cách mạng thật sự. Khác với tất cả các lý luận duy

tâm thần bí hay siêu hình trước đó, nó đã chỉ ra động lực của lịch sử không
phải là một thứ thần bí nào mà chính là hoạt động thực tiễn của con người
mà trước hết hoạt động đó là sản xuất vật chất, hoạt động đó xuất phát từ
"cái sự thật hiển nhiên... là trước hết con người phải cần ăn, uống, ở và mặc
nghĩa là phải lao động trước khi có thể đấu tranh để giành thống trị trước
khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học..." (1).
Khác với các lý luận trước đó không thấy được quy luật, những biểu
hiện phổ biến tồn tại trong tất cả các chế độ. Mác làm nổi bật những quan
hệ xã hội vật chất, do đó cung cầu cho xã hội khoa học một tiêu chuẩn hoàn
toàn khách quan để thấy được quy luật xã hội. "... Có thể đem những chế
độ của các nước khác nhau khái quát lại một khái niệm cơ bản duy nhất là:
"hình thái kinh tế - xã hội" chỉ ra sự khái quát đó mới cho phép chuyển từ
việc mô tả những hiện tượng xã hội sang phân tích hiện tượng đó một cách
hết sức khoa học" (2).
3.1.2. ý nghĩa cách mạng
Cuốn: "Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.15.
(1)
C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, t.19, tr.166.
(2)
C.Mác và Ph.Ăngghen, t.13, tr.15.
(3)

10


Học thuyết này chỉ ra mâu thuẫn bên trong của mỗi hình thái kinh tế
- xã hội và chính sự vận động của mâu thuẫn này cuối cùng dẫn đến sự
chuyển hóa một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế xã hội khác. Do đó, một mặt khẳng định tính tất yếu của trật tự hiện thời,
trật tự của chế độ tư bản chủ nghĩa, mặt khác Mác cũng chứng minh luôn

cả tính tất yếu của một trật tự cao hơn mà hình thái kinh tế - xã hội TBCN
nhất thiết phải trải qua.
Học thuyết này cũng đã chứng minh được một sự thật hiển nhiên do
tính tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa.
3.2. Giá trị bền vững của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua những thời kỳ khác nhau:
thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng, thời kỳ cối xay gió, thời đại máy hơi nước...
và gần đây là các nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công
nghiệp, văn minh hậu công nghiệp. Mỗi cách tiếp cận nêu trên đều có
những điểm hợp lý nhất định và do đó đều có ý nghĩa nhất định nhưng chưa
nói lên được bản chất sự phát triển xã hội một cách toàn diện tổng thể, do
đó có những hạn chế.
Chỉ có cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội của Mác là cách tiếp
cận khoa học nhất để phân tích lịch sử và nhận thức vấn đề của xã hội.
Năm 1859, trong "lời tựa" cuốn góp phần nói về cấu trúc hình thái kinh tế xã hội và cơ chế vận động của nó Mác viết: "Trong sự sản xuất xã hội của
mình con người có những quan hệ nhất định, tất yếu không tùy thuộc vào ý
muốn của họ... những quan hệ này phù hợp với trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất vật chất của họ" (1).
Sau này vào năm 1888 Ăngghen tóm tắt quan iệm về hình thái kinh
tế - xã hội và nhấn mạnh cơ sở cắt nghĩa lịch sử. Ăngghen viết: "Trong mỗi
thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi cùng
với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định đã cấu thành cơ sở lịch sử
(1)

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.14.

11


chính trị của thời đại và lịch sử phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà

chỉ có xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử" (2).
Như vậy, chỉ có Mác và Ăngghen mới đưa ra được quan niệm tổng
thể toàn vẹn về sự phát triển xã hội, theo sát quy luật vận động xã hội.
4. Hiểu như thế nào về sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên
4.1. Sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên
Lịch sử phát triển của CNXH trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau
từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã
hội, sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch
sử đều do tác động của các ***** khách quan. Đó là một quá trình lịch sử
tự nhiên. Mác viết: "Tôi coi sự phát triển những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên". Điều này được Lênin giải thích thêm:
"...chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, vào trình
độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững
chắc để quan niệm về sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên và dĩ nhiên là không có một quan điểm như
thế thì không thể có một khoa học xã hội được".
Chúng ta đều biết, quy luật của đời sống xã hội có đặc điểm là tác
động thông qua con người. Song không phải vì thế mà nó không mang tính
khách quan. Ngược lại, xã hội vận động theo quy luật không ngừng phụ
thuộc mà còn quy định cả ý chí, ý thức và ý định của con người.
Lịch sử là lịch sử hoạt động của con người để thỏa mãn mục đích
của bản thân nhưng không thể hoạt động tùy tiện mà phải tuân theo quy
luật khách quan. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội được coi như là một cơ
thể xã hội tự phát triển theo những quy luật vốn có của nó, một cơ thể riêng
(2)

C.Mác và Ph.Ăngghen: Sđd, t.21, tr.523.


12


biệt có những quy luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó và
bước chuyển của nó lên một hình thái cao hơn.
Các quy luật xã hội mà nói riêng là các quy luật kinh tế xét về bản
chất thì khác với các quy luật tự nhiên. Thí dụ: Quy luật vật lý, quy luật
hóa học... "mỗi một thời kỳ lịch sử đều có những quy luật riêng của nó...
Một khi cuộc sống đã vượt qua một thời kỳ phát triển nhất định, đã từ giai
đoạn này bước sang giai đoạn khác thì nó cũng bắt đầu bị những quy luật
khác chi phối".
Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội: lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng không tách rời nhau mà
liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã
hội. Đó là quy luật về phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng
tầng và các quy luật khác của xã hội. Chính do tác động của các quy luật
khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển thay
thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử như là một quá trình lịch sử tự nhiên
không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của con người.
Nhìn chung, cho đến nay nhân loại đã trải qua bốn hình thái kinh tế
- xã hội kế tiếp nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến,
tư bản chủ nghĩa và đang quá độ sang CNXH - giai đoạn đầu của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhưng xét từng quốc gia dân tộc thì do
đặc điểm về lịch sử không phải quốc gia nào cũng trải qua tất cả các hình
thái kinh tế - xã hội theo một sơ đồ chung. Nghiên cứu lịch sử các nước
cho thấy, có những nước đã bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó
trong tiến trình lịch sử của mình. Thí dụ: Italia, Pháp, Tây Ban Nha... chế
độ phong kiến đã bắt đầu hình thành trong lòng chế độ nô lệ. Trong khi các
nước Nga, Ba Lan, Hà Lan, Đức... chế độ phong kiến ra đời không phải từ

chế độ phong kiến nô lệ. ở Mỹ do đặc điểm lịch sử của mình chế độ chủ

13


nghĩa tư bản hình thành trong điều kiện xã hội không phải trải qua chế độ
phong kiến. Ngay ở Việt Nam trong tiến trình phát triển lịch sử của mình
đã không trải qua chế độ nô lệ.
Phát triển tuần tự đầy đủ qua các hình thái kinh tế - xã hội lẫn rút
ngắn bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó đều là một quá trình lịch
sử tự nhiên, xét theo những quy luật và những điều kiện lịch sử cụ thể
khách quan quy định.
Các nước không qua hình thái này hay qua hình thái khác thật sự và
là quá trình lịch sử tự nhiên của quốc gia đó. Sở dĩ có tình hình ấy là vì vận
động của xã hội diễn ra không đều nhau giữa các quốc gia, giữa các vùng.
Lịch sử thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất
vật chất, về kỹ thuật hoặc về văn hóa và chính trị... sự giao lưu, xâm nhập,
tác động qua lại các trung tâm đó làm xuất hiện khả năng một số nước đi
sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không lặp lại tuần tự các quá trình
phát triển lịch sử của nhân loại. Đây chính là vai trò ý nghĩa của thời đại
đối với sự phát triển các quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Lênin viết: "Tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế
giới đã không loại trừ mà lại còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang
những đặc điểm về hình thức hoặc về trình tự của sự phát triển đó" (1).
Mác nêu lên một luận điểm quan trọng: "Một xã hội, ngay cả khi đã
phát hiện được tự nhiên của sự vận động của nó... cũng không thể nào nhảy
qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những
giai đoạn đó. Nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau
đẻ"(2). Có người dựa vào vấn đề này phủ nhận việc bỏ qua một giai đoạn
nào đó trong hình thái kinh tế - xã hội là một giai đoạn phát triển tự nhiên.


(1)
(2)

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.45, tr.431.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.21.

14


Điều này không hoàn toàn đúng vì Mác chỉ bỏ qua việc dùng ý chí
hoặc sắc lệnh để nhảy qua một giai đoạn phát triển nào đó được quy định
bởi điều kiện và quy luật khách quan. Khi có điều kiện khách quan mới
việc nhảy qua một giai đoạn nào đó lại đặt ra một khả năng thành hiện thực
do đó rút ngắn và làm dịu bớt cơn đau đẻ.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường
hợp bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Từ lâu (và ngay cả hiện nay) có một số người không công nhận,
nhận thức được vấn đề này hoặc với dụng ý xấu hòng phủ định con đường
xây dựng CNXH ở nước ta đã nói rằng con đường mà chúng ta đã lựa chọn
dường như trái với lý luận của Mác về quá trình lịch sử tự nhiên. Họ cho
rằng ở nước ta quá trình lịch sử tự nhiên nhất thiết phải phát triển tuần tự
và bắt đầu phải có CNTB. Thật là phi lịch sử và không phù hợp với quan
niệm của Mác về quá trình lịch sử tự nhiên.
4.2. Từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội có nhất thiết
thông qua cách mạng xã hội hay không?
Khi lực lượng sản xuất phát triển làm cho quan hệ sản xuất thống trị
không còn phù hợp với lực lượng sản xuất. Do đó, trong xã hội xuất hiện
những mâu thuẫn gay gắt. Giai cấp thống trị đại biểu cho quan hệ sản xuất

lỗi thời chống lại sự thay đổi. Lịch sử đã chứng minh không bao giờ một
giai cấp phản động lại có thể ngăn chặn được sự phát triển của xã hội loài
người mà họ chỉ gây cản trở, làm chậm sự thắng lợi của hình thái kinh tế xã hội mới thôi. Cuộc đấu tranh giai cấp đối kháng trong xã hội mở đường
cho sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội cũ sang hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội mới do hình thái kinh tế - xã
hội cũ lỗi thời phải thông qua cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng này không
phải là sự phủ định sạch trơn mà có sự kế thừa những giá trị sáng tạo của
15


loài người, phép biện chứng duy vật đã phác họa một bức tranh sinh động
và đa dạng, phát triển sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt mâu thuẫn
dẫn đến những giá trị lỗi thời, lạc hậu bị mất đi và thay thế vào đó là mỗi
giá trị mới đầy sức sống và triển vọng.
Lịch sử thế giới cho thấy sự phát triển xã hội không diễn ra theo con
đường thẳng mà diễn ra theo đường quanh co, khúc khuỷu, thậm chí có cả
bước thụt lùi.
Vấn đề cốt lõi của cách mạng là lật đổ chính quyền giai cấp thống
trị cũ thành lập và bảo vệ chính quyền mới. Giai cấp thống trị không bao
giờ từ bỏ địa vị thống trị của mình, họ tìm mọi cơ hội, mọi cách cướp lại
chính quyền bằng bạo lực và nội chiến.
Bạo lực không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang mà còn là
hành động chính trị của quần chúng. Mọi sức mạnh này tạo nên tổng hợp
sức mạnh của cuộc đấu tranh.
Những người không tán thành bạo lực thường xuyên tạc chủ nghĩa
Mác về bạo lực, miêu tả như một "hành vi phá hoại". Chủ nghĩa Mác muốn
làm cách mạng CNXH một cách hòa bình tránh tổn thất cho xã hội và con
người nhưng lại tùy thuộc vào phản ứng của giai cấp thống trị.
Cách mạng XHCN là một cuộc cách mạng tổng hợp làm biến đổi
sâu sắc xã hội về kinh tế, chính trị, xã hội... mà mở đầu là đấu tranh giành

chính quyền. Cuộc cách mạng này ở các nước tư bản phát triển diễn ra sớm
hay muộn và diễn ra dưới hình thức nào điều đó phụ thuộc một phần vào
"những thay đổi trong sách lược của giai cấp thống trị nói chung và giai
cấp tư sản nói riêng" và cũng phụ thuộc vào mức độ trưởng thành và khả
năng ứng phó của giai cấp công nhân ở nước đó.
Có người cho rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển cao thì CNXH
ngày càng lớn dần lên trong lòng CNTB không cần cách mạng xã hội?

16


Đây là một quan điểm hoàn toàn sai lầm. Lênin nói: "Quá trình phát
triển biện chứng thật sự đã đưa ra những yếu tố của xã hội mới, cả những
yếu tố vật chất lẫn yếu tố tinh thần của xã hội đó, ngay trong khuôn khổ
của CNTB. Nhưng những người XHCN phải biết phân biệt một ủâu với
toàn bộ, phải biết thông qua khẩu hiệu của mình mà đưa ra toàn bộ, chứ
không phải đưa ra một mẩu, phải đem những điều kiện căn bản của một
cuộc cách mạng thật sự mà mâu thuẫn lại những điều chắp vá bộ phận,
những điều chắp vá này thường làm cho những chiến sĩ cách mạng đi chệch
khỏi con đường cách mạng chân chính" (1).
Theo Lênin: "CNTB tự nó tạo ra người đào huyệt chôn nó, tự nó tạo
ra những nhân tố của một chế độ mới, và đồng thời nếu không có một
"bước nhảy vọt" thì những nhân tố riêng lẻ đó không làm thay đổi được
một tí gì trong tình hình chung của sự vật, không đụng chạm gì đến nền
thống trị của tư bản" (2).
Vì vậy, sẽ sai lầm khi cho rằng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội không cần thông qua cách mạng xã hội.
5. So sánh một số lý thuyết phát triển xã hội đương đại
Ngày nay cóât nhiều các học giả đưa ra nhiều lý thuyết của mình để
giải thích sự vận động và phát triển của xã hội. Có hai lý thuyết được các

nước TBCN cổ xuý tán dương rất nhiều đó là lý thuyết về sự phát triển của
các nền văn minh và lý thuyết sử dụng văn hóa giải thích sự phát triển của
xã hội.
Lý thuyết về sự phát triển của các nền văn minh được xây dựng bởi
Avin Tofler (qua ba tác phẩm: Làn sóng thứ ba, Thăng trầm quyền lực, Cú
sốc tương lai) đưa ra quan điểm: sự phát triển lịch sử loài người thông qua
sự phát triển của ba nền văn minh là văn minh nông nghiệp, văn minh công
(1)
(2)

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.11, tr.463-464.
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.20, tr.78.

17


nghiệp, văn minh tin học. Lý thuyết này lấy tiêu chí là sự phát triển, trình
độ phát triển của khoa học - kỹ thuật để giải thích, phân biệt các nền văn
minh trên. Đây là tiêu chí để phân biệt các thời đại khác nhau trong lịch sử
xã hội loài người.
Mặc dù có giá trị nhất định tuy nhiên có thể thấy rõ hạn chế của lý
thuyết này so với hình thái kinh tế - xã hội. Lý thuyết của Avin Tofler đã
tuyệt đối hóa một yếu tố, một bộ phận của xã hội là khoa học kỹ thuật để
giải thích cái toàn thể (là xã hội) đồng nhất văn minh nông nghiệp, công
nghiệp, tin học với văn minh xã hội, chưa chỉ ra được quy luật vận động
phát triển của xã hội, chưa chỉ ra sự thay thế các chế độ xã hội bằng cách
nào, chưa thấy được quan hệ giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguồn gốc động
lực thật sự của sự phát triển xã hội.
Lý thuyết sử dụng văn hóa như là một cơ chế duy trì sự vận động
phát triển của xã hội được nhiều học giả nghiên cứu. Trong tiểu luận này

chỉ xin đưa ra một đại biểu đó là Mun-tin-tơn qua tác phẩm "Sự đụng độ
giữa các nền văn minh". Hun-tin-tơn cho rằng thông qua văn hóa sự "đụng
độ" giữa các nền văn minh khác nhau trên thế giới làm cho xã hội loài
người vận động và phát triển. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, bộ mặt xã
hội của loài người được thể hiện ra như là một sự đụng độ của các nền văn
minh (Hội giáo, Nho giáo, Ki tô giáo...).
Cũng như lý thuyết của Avin Tofler, lý thuyết này cũng chưa chỉ ra
được quy luật vận động phát triển xã hội chưa thấy quan hệ giai cấp, đấu
tranh giai cấp là nguồn gốc động lực của sự phát triển xã hội.
Qua các lý thuyết hiện đại trên ta càng thấy được giá trị khoa học,
cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác - Lênin. Đây
vốn là học thuyết tiên tiến nhất, cách mạng nhất giải thích nguồn gốc động
lực, cơ chế phát triển lịch sử xã hội loài người.

18


Chương II
Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội
vào Việt Nam

1. Quan niệm cho rằng, lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội của
Mác, ở nước ta hiện nay không có điều kiện đi lên CNXH. Đây là một
lối tư duy so sánh hình thức, không gắn với lịch sử cụ thể
Trước hết, lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù "trừu
tượng hóa" vạch ra cấu trúc cơ thể và các quy luật chung nhất của sự vận
động xã hội, trong đó vừa có tính chỉnh thể của lịch sử nhân loại, vừa có sự
tương tác của rất nhiều yếu tố cụ thể của từng quốc gia dân tộc và thời đại.
Không có cái chung nào phát triển ngoài cái riêng. Những nấc thang tự
nhiên của hình thái kinh tế - xã hội không phải quốc gia dân tộc nào cũng

phải tuần tự trải qua. Việc bỏ qua một số hình thái kinh tế - xã hội trong
lịch sử của nhiều dân tộc là một khả năng thực tế được tạo nên do các quy
luật chung nhất của vận động lịch sử. Tách trừu tượng khỏi cái cụ thể là
một tư duy hình thức, do đó không hiểu đúng ý Mác.
Thứ hai, Lênin khẳng định rằng quy luật không phải là trật tự trước
sau mà là quan hệ tác động qua lại. Do đó nếu ở một lực lượng sản xuất
phát triển chưa cao nhưng trong tác động chung của thời đại và hoàn cảnh
trong nước cho phép nhân dân lao động có thể nắm lấy chính quyền để tạo
thành chế độ mới. ở đây, Lênin không hề nói CNXH có thể ra đời trên cơ
sở lực lượng sản xuất thấp kém hay nói xây dựng quan hệ sản xuất XHCN
trước không cần căn cứ vào trình độ lực lượng sản xuất.
Thứ ba, theo Lênin những nước còn ở trình độ phát triển thấp muốn
quá độ lên CNXH phải có "ba" điều kiện: có một số nước phát triển hoặc
tương đối phát triển xây dựng thành công CNXH, có kinh nghiệm và nguồn

19


vốn tài trợ vật chất từ đấy và có Đảng Cộng sản vững mạnh cầm quyền.
Dựa vào ý kiến này, có người cho rằng các điều kiện đó hiện nay không
còn đủ nên nước ta không thể đi lên CNXH được. Họ không thấy được trong
thực tế mấy năm qua nước ta đã giải quyết thành công các điều kiện trên một
cách thành công bằng những mối quan hệ quốc tế mới cả về vật chất lẫn trí tuệ.
Tri thức để xây dựng CNXH không chỉ từ bài học của mình mà cả từ những
giá trị chung của nhân loại đã đạt được trong nền văn minh đương đại.
Chúng ta khẳng định nước ta đi theo con đường XHCN, định hướng
XHCN hoặc nói một cách chung nhất đó là xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh với hàm ý là:
Lợi ích xã hội, lợi ích của nhân dân lao động là cái chi phối, là động
lực chung nhất của phát triển. Khác với việc để cho thiểu số có tự do kinh

doanh, còn tất cả đều phụ thuộc.
CNXH lo đến từng cá nhân, làm cho từng cá nhân có điều kiện ban
đầu để tự do khẳng định và phát triển CNXH là môi trường tự do cho cá
nhân. Vấn đề tự do dân chủ chân thật sẽ là một trong những vấn đề cơ bản
để hình thành và phát triển CNXH.
Nhân dân lao động nắm quyền lực chính trị không chia rẽ với ai cả
cũng như trong các nước càng tư bản thì giai cấp tư sản càng nắm quyền
triệt để không chia sẻ với ai đại diện nhân dân lao động cả.
Tất cả hướng voà phát triển khoa học, sản xuất; phát triển với tốc độ
cao, phát triển từ con người và vì con người.
Đó là những điều kiện chủ yếu mà chúng ta quan niệm về CNXH,
còn lại lịch sử sẽ dạy cho ta thêm những hiểu biết mới.
2. Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN có tính tất yếu
và hiện thực hay không

20


Lý luận về sự phát triển lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế xã hội không mâu thuẫn với lý luận về sự bỏq ua (hay phát triển rút ngắn)
mà các nhà kinh điển đề ra.
Để có thể bỏ qua được hay rút ngắn lên CNXH các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng đối với các nước TBCN phải có tấm
gương của một cuộc cách mạng vô sản đã thắng lợi. Đối với Việt Nam, cho
đến nay những bài học cả về thành công và thất bại của các cuộc cách
mạng vô sản đều hết sức bổ ích.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng cần phải
có sự giúp đỡ tích cực của các nước tiên tiến đã xây dựng thành công
CNXH thì các nước tiền TBCN mới có thể rút ngắn được con đường đi tới
CNXH, thì ở Việt Nam cũng có điều kiện này. Trước đây chúng ta có sự
giúp đỡ của các nước XHCN để xây dựng đất nước ta theo con đường

XHCN. Từ khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ tính tất yếu
của sự giúp đỡ quốc tế đã ít nhiều có sự thay đổi. Nhưng sự hợp tác và giúp
đỡ quốc tế giờ đây, trong những khía cạnh nào đó lại đa dạng và có quy mô
to lớn hơn trước và đây chính là một trong những nguyên nhân thành tựu to
lớn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta đang sống trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại, cuộc cách mạng này vừa tạo ra thời cơ thuận lợi cho phép một
quốc gia có thể phát triển nhảy vọt trong một thời gian ngắn như thực tế
nhiều quốc gia đã cách mạng. Nếu chúng ta tận dụng được thời cơ và vượt
qua được thách thức thì có thể tạo ra được những cơ sở để được thực hiện
sự phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ TBCN, con đường đi tới XHCN.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn nhấn mạnh vai
trò của Đảng, của giai cấp công nhân và như là một yếu tố không thể thiếu
được trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc thực hiện quá

21


trình phát triển rút ngắn đi lên CNXH ở các nước tiền tư bản. Điều này thể
hiện rõ ở Việt Nam. Là một Đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, gắn
bó với quần chúng trong những thời điểm phong trào XHCN, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, Đảng vẫn kiên định
lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi đường lối vượt qua những hiểm
nghèo đưa công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ đất nước tiến lên một
cách vững chắc.
Sau hơn nửa thế kỷ đấu trnh và xây dựng XHCN dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, khuynh hướng chính trị bỏ qua chế độ
TBCN tiến lên CNXH đã trở thành sức mạnh vật chất bám rễ sâu vào trong
xã hội Việt Nam. Yếu tố chính trị rất đáng kể này có vai trò rất quan trọng
trong việc thu hút và chuyển hóa nhân tố thời đại thành nguồn lực bên

trong để xây dựng CNXH.
Những cơ sở kinh tế, kỹ thuật và tài nguyên quốc gia mà chúng ta
giành lại được từ tay các thế lực đế quốc, thực dân cùng với những cơ sở
vật chất đã xây dựng được nhờ sự giúp đỡ của các nước XHCN trước đây
và những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới hiện nay cũng là
những tiền đề kinh tế, kỹ thuật cho bước quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN ở nước ta.
Đảng và Nhà nước ta bỏ qua chế đội tư bản chủ nghĩa không có
nghĩa là bỏ qua tất cả những thành tựu mà chế độ TBCN mang lại. Đảng ta
bỏ qua chế độ này là bỏ qua chế độ người bóc lột người để xác lập nên một
chế độ xã hội mới mà ở đó mọi người được công bằng, dân chủ. Trên cơ sở
đó kế thừa những thành tựu mà chế độ này mang lại để làm cơ sở cho việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội được thuận lợi, nhanh chóng hơn.

22


Tóm lại, chúng ta có cơ sở khoa học để nói rằng Việt Nam có thể
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu, nó là con
đường phát triển phù hợp với thời đại hiện nay.
3. Việt Nam vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào việc
phát triển nền kinh tế
Qua những vấn đề trình bày trên, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng
thành công lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào công cuộc đổi mới của đất
nước ta hiện nay. Các yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất từng
bước được hiện đại hóa nhằm từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Công cuộc đổi mới của Đảng ta lấy việc phát triển kinh tế làm trọng tâm.
Đây là một trong những nhận định sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta.
Từ đó chúng ta có thể tin rằng, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
của chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ vẫn còn có nguyên giá trị cho đến hôm nay

và trong tương lai.

23


Kết luận

Những vấn đề trình bày nêu trên đã khẳng định được tầm quan
trọng của hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là hòn đá tảng
khoa học cho mọi nghiên cứu, là nền tảng lý luận của chủ nghĩa xã hội
khoa học.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội khẳng định sự phát triển liên
tục của xã hội loài người như là "một quá trình lịch sử tự nhiên". Mỗi hình
thái kinh tế - xã hội được coi như là một cơ thể phát triển vốn có của nó. Sự
thay thế liên tiếp nhau của hình thái kinh tế - xã hội từ cộng sản nguyên
thủy đến chủ nghĩa cộng sản là những bước nhảy vọt của lịch sử xã hội loài
người.
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào Việt Nam trong
thời kỳ quá độ đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó
có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhân tố quyết định đối
với sự phát triển đất nước theo con đường XHCN.
Nghiên cứu đề tài hình thái kinh tế - xã hội giúp cho bản thân mỗi
chúng ta một thế giới quan, phương pháp luận khoa học đúng đắn. Qua
những điều đó tích cực phân đấu học tập góp phần nhỏ bé của mình vào
công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ đó có thể khẳng định học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội sẽ còn
tồn tại mãi với thời gian và ngày càng phù hợp với thời đại, phù hợp với sự
phát triển của quy luật khách quan.

24



×