Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

đề tài tiểu luận lạm phát và góc nhìn của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.55 KB, 22 trang )

LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 1


I. NHÌN LẠI LẠM PHÁT TRONG NĂM NĂM QUA (2007-2011) 2
1. Lạm phát: Duy nhất một năm dưới 10% 2
2. Nguyên nhân chủ yếu của mức lạm phát quá cao trong những năm qua 4
II. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT NĂM 2011 VÀ TÁC ĐỘNG 6
III TRIỂN VỌNG KINH TẾ NĂM 2012 15
IV. KIẾN NGHỊ 22












LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 2

I. NHÌN LẠI LẠM PHÁT TRONG NĂM NĂM QUA (2007-2011)
1. Lạm phát: Duy nhất một năm dưới 10%
Nhìn vào các con số thống kê về lạm phát ở ta trong 5 năm trở lại đây, điều
đáng lo ngại hơn là trong 5 năm ấy, chỉ có một năm-năm 2009, CPI tháng 12 so
với tháng 12 của năm trước tăng 6,5% còn các năm còn lại đều ở mức trên 2 con
số.



Tỷ lệ lạm phát năm 2011 tăng cao, xác định một mức mới là 18.13%.Mức
tăng này, nếu chỉ so với tốc độ tăng CPI của các nước láng giềng: Thái Lan,
Malaysia, Singapore đã rất đáng ngại. Nhưng nếu nhìn vào các con số thống kê về
lạm phát ở ta trong 5 năm trở lại đây, điều đáng lo ngại hơn là trong 5 năm ấy, chỉ
có một năm-năm 2009, CPI tháng 12 so với tháng 12 của năm trước tăng 6,5% còn
các năm còn lại đều ở mức trên 2 con số. Cụ thể, năm 2007: CPI tăng 12,6%, năm
2008 tăng 19,9%, năm 2010 tăng 11,8%.
1 2 3 4 5
T

l

l

m phát t

2007
-
2011
0
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8

0.9
1
Tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ lạm phát từ 2007-2011
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 3

Theo số liệu từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nếu so sánh với lạm phát ở các
nước trên thế giới và trong khu vực, tốc độ tăng CPI bình quân trong các năm
2007-2010 của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển tuơng ứng là 6,5%;
9,2%;5,2% và 6,2%. Tốc độ tăng CPI bình quân của các nước đang phát triển châu
Á tương ứng là 5,4%; 7,4%; 3,1%; 6%. Còn nếu so với các nền kinh tế phát triển,
tốc độ tăng CPI bình quân qua các năm đó của họ là: 2,2%; 3,4%; 0,1% và 1,6%
vào năm 2010 thì quả thực, mức tăng CPI của Việt Nam những năm qua là một kỷ
lục và thật xấu hổ khi luôn lấy yếu tố tác động giá cả, thị trường bên ngoài là một
yếu tố chính để giải thích mức độ tăng CPI của Việt Nam.
Gần đây người ta hay viện dẫn cách tính lạm phát cơ bản để làm "giảm
nhiệt" về cách tính lạm phát theo phương pháp luận quốc tế, phản ánh xu hướng và
mức độ biến động chung của giá tiêu dùng thực tế trên thị trường mà Tổng cục
Thống kê đã áp dụng. Kết quả tính toán của Ngân hàng Nhà nước phối hợp với
Tổng cục Thống kê cho biết, lạm phát cơ bản tháng 12 năm 2010 so với tháng 12
năm trước, nếu loại trừ lương thực, thực phẩm là 9,92% bằng 84% mức lạm phát
chung.
Nếu loại trừ thêm năng lượng thì lạm phát cơ bản bằng 9,81% bằng 83%
mức lạm phát chung. Lạm phát cơ bản của tháng 8.2011 so với tháng 12.2010 loại
trừ lương thực, thực phẩm còn 12,54%; loại thêm yếu tố năng lượng sẽ còn
10,94% Nếu như loại trừ thêm các yếu tố phi tiền tệ khác như điều chỉnh giá của
nhà nước với một số mặt hàng, dịch vụ quan trọng, thiên tai, dịch bệnh thì người
ta có thể vui mừng công bố các mức lạm phát cơ bản ở mức thấp hơn nữa.
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN

NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 4

1. Nguyên nhân chủ yếu của mức lạm phát quá cao trong những năm qua
Về chính sách tiền tệ, tín dụng, cung tiền trong những năm qua có sự "nới
lỏng quá mức" là một nguyên nhân chính. Tốc độ tăng cung tiền cao hơn tốc độ
tăng GDP theo giá thực tế diễn ra trong một thời gian dài. Tốc độ tăng trưởng tiền
tệ (M2) là 43,7%, tín dụng là 53,9% trong năm 2007-mức tăng kỷ lục giai đoạn
2001-2011 được bộ này cho là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra
lạm phát cao vào năm 2008.
Đến năm 2009, tình hình cung tiền quá mức như trên lại lặp lại tuy tốc độ có
thấp hơn 2007 nhưng vẫn cao hơn mức cần thiết đã gây ra hệ quả là lạm phát năm
2010 và 2011 tiếp tục bị đẩy lên cao. Chính sách siết chặt tiền tệ, tài khóa khắc
nghiệt từ đầu năm 2011 đến nay đã có tác dụng làm tốc độ lạm phát (đạt đỉnh vào
tháng 4.2011) đã giảm dần cho đến nay (tháng 9, CPI tăng thấp nhất ở mức
0,82%).
Việc phá giá mạnh VNĐ trong các năm gần đây cũng có phần gây ra lạm
phát và kỳ vọng lạm phát. Điều dễ thấy là trong mấy năm qua, đồng đôla Mỹ luôn
bị mất giá so với các đồng tiền khác trên thế giới nhưng ở Việt Nam, tiền đồng lại
giảm giá so với đồng USD là một hiện tượng thực tế.
Chính sách tài khóa,cũng là một nguyên nhân chính giải thích hiện tượng
lạm phát cao và kéo dài nhiều năm. Bội chi ngân sách từ năm 2006 đến nay đều ở
mức trên 5% GDP (trừ năm 2008 đạt 4,6%) nhưng nếu tính cả trái phiếu Chính phủ
vào thì tỷ lệ bội chi ngân sách thực tế còn cao hơn rất nhiều. Bội chi ngân sách
triền miên đòi hỏi huy động nhiều vốn trong dân qua việc phát hành trái phiếu, tín
phiếu kho bạc ảnh hưởng đến thị trường, đẩy lãi suất lên, góp phần làm tăng tổng
cầu, gây áp lực lên mặt bằng giá.
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 5

Tất nhiên, mức độ lạm phát rất cao như vậy cũng có ảnh hưởng lớn từ chi

phí sản xuất tăng hay còn gọi là "chi phí đẩy": phần thì do tác động của giá cả
hàng hóa trên thị trường thế giới, phần so giá đầu vào trong nước
Biến động giá xăng dầu trên thị trường có thể coi là nhân tố tác động mạnh
đến sự tăng giảm lạm phát trong thời gian qua, giá xăng tăng tác động làm cho giá
cả các loại hàng hoa 1tăng lên để đảm bảo chi phí sản xuất, đẩy lạm phát đi lên.

1
2
3
4
5
Gía xăng A92
11,300
15,182
14,277
16,454
20,300
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
Mức giá
Gía xăng A92
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 6

Yếu tố khách quan tất nhiên là không tránh khỏi: năm 2008, giá nguyên,
nhiên vật liệu nhập khẩu tăng bình quân 27,1%, theo phân tích của Bộ KH&ĐT

làm tăng CPI bình quân ở Việt Nam lên 22,97%. Năm 2010, chỉ số giá nguyên,
nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất tăng bình quân 9,59%. 6 tháng đầu năm, chỉ số
này cũng tăng bình quân 18,32% do với cùng kỳ năm 2010 thì tất cả các yếu tố
này tác động đến giá cả Việt Nam là một thực tế phải chấp nhận.
Đặc biệt, nguyên nhân về cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư cũng lý giải cả
một quãng thời gian dài gần 5 năm, lạm phát ở ta luôn ở mức cao. Cơ cấu kinh tế
và cơ cấu đầu tư bất hợp lý và kém hiệu quả là nguyên nhân cơ bản gây bất ổn định
các cân đối kinh tế vĩ mô và là yếu tố thúc đẩy lạm phát tăng cao. Nền kinh tế phát
triển theo chiều rộng và chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, công nghệ lạc hậu, năng
suất thấp, tỷ trọng các yếu tố năng suất tổng hợp trong tăng trưởng GDP thấp và
chậm được cải thiện. Hiệu quả đầu tư thấp, đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, cơ cấu
đầu tư bất hợp lý giữa các vùng, miền Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp thấp. Tất cả đều có tác động sâu xa đến lạm phát.
Ngoài những nguyên nhân cơ bản trên, còn có một số nguyên nhân khác rác
động đến mức tăng lạm phát như: có nguyên nhân về khâu phân phối, điều hành thị
trường: hệ thống phân phối yếu kém, bất hợp lý; có nguyên nhân do thiên tai, dịch
bệnh xảy ra nhiều: dịch lợn tai xanh, gia súc gia cầm gây thiếu hụt nguồn cung,
đẩy giá lên cao rồi khả năng, nguồn lực dự trữ yếu tất cả đều có ảnh hưởng nhất
định, làm lạm phát cao, kéo dài triền miên.
II. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT NĂM 2011 VÀ TÁC ĐỘNG


LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 7

Diễn biến CPI các tháng năm 2010 và 2011. Lạm phát cả năm chốt ở mức
tăng 18,13% ghi nhận sự “đi hoang” của dòng tiền, khi không tạo được đột phá về
tăng trưởng nhưng lại thúc ép lạm phát đạt các kỷ lục mới.



Biểu đồ: Diễn biến lạm phát năm 2010 và 2011
Dấu hiệu của tính quy luật chỉ còn rất mờ nhạt, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) trong năm 2011 nổi trội ở hai đột biến, đến từ các mức tăng kỷ lục mới trong
tháng 4 và tháng 7.
Trên nền cơ bản được tạo lập bởi 12 tháng cùng tăng, đường biểu diễn chỉ số
giá như hình cờ đuôi nheo, tiệm cận dần tới mốc 0% về cuối. Mức chênh lệch giữa
tháng tăng cao nhất với tháng tăng thấp nhất tới gần 3 điểm phần trăm.
Lạm phát cả năm chốt ở mức tăng 18,13% ghi nhận sự “đi hoang” của dòng
tiền, khi không tạo được đột phá về tăng trưởng nhưng lại thúc ép lạm phát đạt các
kỷ lục mới. Chia bình quân, CPI mỗi tháng trong năm nay tương ứng với mức tăng
khoảng 1,4%, chỉ còn thấp hơn chút ít so với 2008.
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 8

Khi vài ngày cuối cùng đang khép lại dần, những “tàn dư” từ lạm phát như
lãi suất còn cao, tỷ giá chưa thật ổn định, hay chính sách vĩ mô sẽ siết thêm năm
nữa… khiến yếu tố lòng tin chưa dễ tạo dựng. Tồn tại trong một năm tăng trưởng
hạn chế là hai trạng thái cảm nhận: lo âu tăng dần đầu năm và bất an cuối năm gắn
với lạm phát đang “ngóc đầu” dậy.
Đột biến thứ nhất: Tăng sau Tết
Liên tiếp tăng tốc và đạt đỉnh vào cuối năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tháng
1/2011 bất ngờ giảm tốc nhẹ xuống mức tăng 1,74% so với tháng trước. Nhiều
nhận định khi đó đã lạc quan cho rằng, xu hướng này là tích cực, có thể là một mở
đầu thuận lợi cho một năm mà Chính phủ đặt quyết tâm kiềm chế lạm phát ngay từ
đầu, với chỉ tiêu “khắc nghiệt” chỉ có 7%.
Thị trường chứng khoán đón thông tin tích cực, VN-Index tăng điểm liên tục
và đạt đỉnh của năm vào ngày 9/2, ở mốc hơn 522 điểm vào lúc đóng cửa, cũng là
mức cao nhất kể từ tháng 5/2010.
Tuy nhiên, hiện tượng này cũng xảy ra vào các năm 1997, 2000, 2008, 2010
là do có sự điều chỉnh chính sách lớn hoặc tác động từ khủng hoảng kinh tế từ bên

ngoài. Việc chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 phá vỡ xu hướng tăng tốc chỉ là điều chỉnh
trong ngắn hạn.
CPI tháng 2 ngay lập tức đảo chiều tăng 2,09% so với tháng trước đó. Căn
cứ vào mức tăng so với cuối năm trước đã ở mức gần 4%, tức là hết quá nửa room
của chỉ tiêu lạm phát cả năm, lo lắng lại thường trực. Thị trường chứng khoán đón
tin sớm từ giữa tháng 2 đã “đổ đèo” và lập đáy đầu tiên trong năm ở mức VN-
Index khoảng 452 điểm vào ngày 3/3.
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 9

Ngày 11/2, Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng mạnh tỷ giá USD/VND tới
9,3%. Nỗ lực giữ ổn định tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước vào trước đó đã khiến dự
trữ ngoại hối tại thời điểm quý 1/2011 chỉ còn lại tương đương 3,5 tuần nhập khẩu.
Tuy nhiên, căng thẳng ngoại tệ không thuyên giảm, chênh lệch tỷ giá chính thức và
chợ đến lên đến 10% là nguyên nhân chính dẫn tới việc điều chỉnh tỷ giá nói trên.
Tỷ giá tằng sẽ kích thích lạm phát và đẩy giá lên. Sẽ tác động làm lãi suất tăng lên.
Lãi suất tăng ảnh hưởng đến úa trình sản xuất, phát triển kinh doanh của doanh
nghiệp. Thêm vào diễn biến đáng quan ngại này, ngày 24/2, tại cuộc họp Chính
phủ với các địa phương, giá xăng dầu được điều chỉnh tăng gần 20%, điện tăng
15,28% Nghị quyết 11 ra đời cùng ngay với hàng loạt chỉ tiêu được điều chỉnh
lớn: với tiền tệ, tăng trưởng tín dụng rút xuống mức dưới 20% thay vì 23%, tổng
phương tiện thanh toán cũng áp chỉ tiêu mới ở mức khoảng 15-16%. Với chính
sách tài khóa, bội chi so với GDP từ mức 5,3% giảm về mục tiêu mới dưới 5%, chi
tiêu thường xuyên giảm 10% trong 9 tháng cuối năm. Chính phủ cũng đặt mục tiêu
kéo thấp tổng đầu tư xã hội xuống còn khoảng 38-39% GDP…
Tháng 3, lạm phát tiếp tục bị đẩy lên, CPI theo tháng tăng 2,17%.Chưa kịp
hết ngỡ ngàng về sự gia tốc sau Tết Nguyên đán, CPI lập tức đạt đỉnh vào tháng 4
ở mức 3,32%, cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Đến lúc này, CPI so với cuối năm
trước đã tăng 9,64%, vượt xa mục tiêu 7%, hiện thực hóa nỗi lo lạm phát.
Với sự gia tăng lạm phát ngày càng cao, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp và tâm lý lo lắng trong nhân dân.
Vào ngày 21/3, Bộ Tài chính bất ngờ quyết định tăng giá bán lẻ các loại
xăng dầu thêm 2.000-2.800 đồng một lít, đưa xăng A92 lên kỷ lục mới 21.300
đồng, áp dụng từ 22h ngày 29/3. Ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa và tiêu dùng của
người dân.
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 10

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm 2011 tăng 12,8% so với cùng kỳ
năm 2010.Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, hai nhóm có chỉ số giá tăng cao
hơn nhiều mức tăng chung là: Giao thông tăng 6,69%; nhà ở và vật liệu xây dựng
tăng 3,67%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá thấp hơn mức tăng chung
nhưng cao hơn 1% là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,98% (Lương thực tăng
2,18%, thực phẩm tăng 1,57%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,06%); thiết bị và đồ
dùng gia đình tăng 1,22%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá
bằng hoặc dưới mức 1% gồm; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,0%; văn hóa giải
trí và du lịch tăng 0,98%; giáo dục tăng 0,9%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,88%;
thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,71%; bưu chính viễn thông tăng 0,02%.
Chỉ số giá tiêu dùng quý I tăng cao do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Giá nhiều hàng hóa thiết yếu trên thị trường thế giới tăng cao, cùng với việc điều
chỉnh tỷ giá USD/VNĐ đã tác động đến giá nguyên liệu nhập khẩu là đầu vào của
sản xuất. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tăng giá xăng dầu và điều chỉnh tăng giá
bán điện cho sản xuất, sinh hoạt cũng đã làm tăng chi phí sản xuất; Một số địa
phương tiếp tục điều chỉnh tăng học phí giáo dục và nhu cầu tiêu dùng mang tính
thời vụ trong dịp Tết Nguyên đán (các mặt hàng thực phẩm tăng mạnh).
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đôla Mỹ cả nước tháng 3/2011
Đơn vị tính: %
MÃ SỐ

CHỈ SỐ GIÁ THÁNG 3 NĂM 2011 SO

VỚI

Bình quân
Quý I năm
2011 so với
Quý I năm
2010
Kỳ gốc

năm
2009

Tháng 3
năm
2010

Tháng 12
năm
2010

Tháng 02
năm 2011
CHỈ SỐ
GIÁ TIÊU
DÙNG

C 123,51 113,89 106,12 102,17 112,79
I. Hàng ăn 01 130,63 118,33 108,31 101,98
117,38


LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 11

và dịch vụ
ăn uống
1- Lương
thực
011 134,08 117,49 106,09 102,18
115,66
2- Thực
ph
ẩm
012 129,93 119,25 109,08 101,57
118,78
3- Ăn uống
ngoài gia
đình
013 129,00 116,23 108,39 103,06
114,77
II. Đồ uống
và thuốc lá
02 119,79 110,79 104,76 100,88
110,31
III. May
mặc, mũ
nón, giầy
dép
03 116,70 109,90 104,25 101,00
109,29
IV. Nhà ở

và vật liệu
xây dựng
(*)
04 132,32 116,91 105,92 103,67
115,53
V. Thiết bị
và đồ dùng
gia đình
05 111,21 107,37 102,65 101,22
106,89
VI. Thuốc
và d
ịch vụ y
tế
06 106,17 104,51 101,38 100,71
104,29
VII. Giao
thông
07 124,08 109,51 108,64 106,69
105,68
VIII. Bưu
chính viễn
thông
08 90,07 95,52 99,95 100,02
94,99
IX. Giáo
dục
09 129,83 124,33 104,74 100,90
123,42
X. Văn hoá,

giải trí v
à du
lịch
10 110,26 106,03 102,83 100,98
105,69
XI. Hàng
hoá và dịch
vụ khác
11 122,01 110,16 103,84 101,39
109,98
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 12

CHỈ SỐ
GIÁ VÀNG

1V
193,87 141,27 104,58 105,00 137,07
CHỈ SỐ
GIÁ ĐÔ
LA MỸ

2U
123,44 112,05 103,70 103,06 110,53
(Nhóm này bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng)
(Nguồn số liệu Tổng cục Thống kê)
Dù giảm đôi chút ở tháng sau đó, nhưng con số CPI tháng 5 tăng 2,21% thực
sự làm phát hoảng dòng tiền trên thị trường chứng khoán. Bởi lẽ, dù là hạ nhiệt
nhưng mức độ tăng rất cao, so với một tháng trước là đỉnh lạm phát, quan điểm lạc
quan nhất cũng không thể trụ vững. Phản ánh trên thị trường chứng khoán, Vn-

Index hạ thẳng cánh một đường gọn. Từ ngày 13/5 đến 25/5, chỉ số giá chứng
khoán mất gần 100 điểm, xuống đáy 386 điểm lúc đóng cửa. Nhiều dự báo khi đó
cho rằng, lạm phát sẽ chỉ đạt đỉnh vào quý 3/2011, thực tế sau này cho thấy đúng
như dự báo.
Trong 5 tháng đầu năm, cả nước đã qua đợt điều chỉnh giá điện, tuy việc này
đã tác động không nhỏ đến đời sống nhân dân cũng như chỉ số giá tiêu dùng (CPI),
nhưng ngược lại nó có tác động rất tích cực cho thị trường điện, góp phần bình ổn
và cả nước không xảy ra tình trạng cắt điện, do khi giá điện lên cao thì người dân
đã dùng tiết kiệm đi. Điều này chứng tỏ, điều chỉnh giá là một yếu tố then chốt
trong hoạt động của doanh nghiệp cũng như cân đối xuất nhập khẩu. Giá hàng hóa
nhập khẩu 5 tháng đầu năm 2011 tăng cao nhiều so với cùng kỳ năm 2010, bình
quân khoảng 24%. Trong đó nhiều mặt hàng tăng rất cao như xăng dầu tăng
41,5%, cao su các loại tăng 25,5% Theo ước tính sơ bộ, giá và lượng hàng hóa
tăng đã góp phần đưa kim ngạch nhập khẩu tưng thêm 9,4 tỷ USD, trong đó tăng
do lượng khoảng 1,9 tỷ USD, chiếm 20% và tưng do giá khoảng 7,5 tỷ USD,
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 13

chiếm 80% kim ngạch tăng thêm. Chỉ tính do yếu tố tăng giá đã làm nhập siêu tăng
thêm 1,5 tỷ USD.
Trong giai đoạn này, quyết tâm kiềm chế lạm phát lớn dần theo các con số
về chính sách tài khóa, tiền tệ báo cáo lên Chính phủ. Tại cuộc họp Chính phủ
tháng 4, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, số vốn đầu tư dự kiến cắt giảm trong
năm nay là 79.262 tỷ đồng, bằng khoảng 9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm
2011.
Trong khi đó, thông tin về các chỉ tiêu của chính sách tiền tệ cũng được
Ngân hàng Nhà nước cập nhật, tổng phương tiện thanh toán tính đến 20/5 mới là
1,59% so với cuối năm 2010, rất thấp so với nhiều năm trước; tín dụng tăng tương
ứng 6,16%.
Phản ứng lại trước các điều chỉnh, CPI tháng 6 hạ nhiệt, xuống mức tăng

1,09%, khép lại nửa đầu năm đầy sóng gió.
Đột biến thứ hai: Điểm nút cho khởi đầu ổn định?
Như vậy, với sự gia tăng lạm phát trong nửa đầu đưa nền kinh tế Việt Nam
rơi vào tình trạng khó khăn với thâm hụt ngân sách sâu khiến chính sách tài khóa
kém linh hoạt; lãi suất đã quá cao không thể trở thành công cụ điều tiết hữu hiệu;
dự trữ ngoại hối mỏng khó can thiệp; tâm lý thị trường không ổn định…, các ngân
hàng thương mại Việt Nam cũng đang đối mặt 4 vấn đề: rủi ro thiếu thanh khoản;
rủi ro sai lệch cơ cấu đồng tiền; rủi ro nợ xấu; và rủi ro tổng dư nợ với thị trường
bất động sản.
Tại thời điểm giữa năm, sức căng của nền kinh tế bắt đầu bộc lộ. Tiếp bước
trong quý 3, CPI so với cùng kỳ bò dần tới đỉnh 23,02% vào tháng 8. Nhưng ngược
lại, sản xuất ngày càng khó khăn, nhiều doanh nghiệp ngừng hoạt động, trogn 57
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 14

nghìn doanh nghiệp đăng kí kinh doanh, có tới 47 nghìn được xác định đã ngừng
hoạt động, điều này làm giảm nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách nhà nước
Kể từ đầu tháng 7, bắt đầu có sự điều chỉnh trên thị trường liên ngân hàng.
Từ trạng thái liên tục hút ròng trước đó, tháng đầu quý 2 trên OMO đã có những
tuần cân bằng giữa bơm và hút, đến tháng 9 bắt đầu có bơm ròng.
Tổng phương tiện thanh toán cũng tăng tốc hơn trước, trong khi tín dụng duy trì
mức tăng trưởng thấp. Cho đến cuối năm, Ngân hàng Nhà nước ước tính, tổng
phương tiện thanh toán tăng khoảng 10%, tín dụng tăng khoảng 12%.
Khi mà sản xuất tồn kho lớn, các kênh đầu cơ không thể hút nổi dòng tiền
đang quay lưng trước các cơ hội đầu tư đầy rủi ro, việc đổ thêm tiền dường như đã
chuyển ngược lên thị trường tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu.
Ngay lập tức, lạm phát “đáp trả”. Đầu tháng 7, giá thịt gia súc, gia cầm, thủy sản
và rau xanh tại Hà Nội tăng đột biến, có nhiều loại gấp rưỡi, gấp đôi chỉ trong ít
ngày. Sau đó, CPI tháng 7 cũng rẽ ngoặt “nấc” lên mức tăng mới 1,17%.
Tuy nhiên, cũng từ thời điểm này, chỉ số giá tiêu dùng bắt đầu đi xuống thấy

rõ. Đến cuối năm, CPI hiện thực “giấc mơ” đẩy lạm phát trở lại với mức tăng theo
tháng của các giai đoạn ổn định trước đây, với 3 tháng quý 4 tăng dưới 0,6%.
Hỗ trợ xu hướng giá này, tổng mức bán lẻ đã loại trừ yếu tố giá trong năm
nay tăng khoảng 4-5%, mức khá thấp so với các năm trước đây, có giai đoạn ở
mức 13-15%. Nhưng những cú sốc đến từ tăng học phí trong tháng 9, hay vàng
tháng 10 khiến đôi lúc khoảng lặng của lạm phát không tạo được ổn định cho tâm
lý thị trường.
Sự lạc quan của nhà đầu tư dường như chỉ được thổi lên trong giai đoạn đầu
tiên khi CPI phá vỡ mức cản tăng 1% ở tháng 8. Vn-Index vọt lên trong khoảng
thời gian tính CPI tháng 9, tăng từ 384-467 điểm, còn lại đa phần là giảm điểm.
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 15

Tại thời điểm này nhìn lại, tăng trưởng GDP theo giá thực tế ước tính khoảng 24-
25%, cho thấy tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng có hỗ trợ giảm
tổng cầu. Nhưng chi ngân sách so với năm trước, nếu không tính thu chuyển nguồn
như quy định cho năm nay, tăng tới 27,5% so với thực hiện năm 2010, không cho
thấy nỗ lực tiết giảm chi tiêu công.
Vào cuối năm, CPI có xu hướng giảm và tăng nhẹ 0.53% vào tháng 12, giá
điện tăng 0.3%, làm giảm GDP 0.04% và điều chỉnh này sẽ diễn ra vào năm 2012.
Nhiều quan điểm cho rằng mục tiêu đưa lạm phát về một con số trong năm
2012 sẽ khó mà hiện thực. Dù là kết quả có thế nào chăng nữa, nhưng những lo
ngại như thế đang khiến lạm phát kỳ vọng còn cao. Cho nên, ngoài việc cân bằng
lại cung cầu, Chính phủ còn thêm một thách thức phải ổn định lòng tin nếu muốn
hạ lãi suất, muốn đồng thuận trong thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế
III. TRIỂN VỌNG KINH TẾ NĂM 2012
Các dự báo đều thống nhất nhận định kinh tế thế giới năm 2012 sẽ u ám,
thậm chí tồi tệ hơn rất nhiều so với năm 2011. Hai điểm nhấn quan trọng nhất là sự
sụt giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, nhất là của các trung tâm tăng
trưởng (Mỹ, EU, Nhật, Trung Quốc) và sự bất ổn gia tăng, có khả năng xảy ra cuộc

chiến tranh tiền tệ và chiến tranh thương mại (thậm chí nguy cơ suy thoái kép).
Trong năm 2012, do độ mở cửa cao, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ chịu
tác động tiêu cực từ xu hướng nói trên của kinh tế thế giới. Các năm trước, trong
một bối cảnh quốc tế như nhau, các chỉ số kinh tế cơ bản của Việt Nam (tăng
trưởng, lạm phát, giá trị đồng tiền, nợ…) đã kém hơn so với nhiều nền kinh tế
khác. Khả năng này có thể lại diễn ra trong năm 2012, thậm chí ở cấp độ gay gắt
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 16

hơn vì nền kinh tế đang khó khăn, thực lực lại bị yếu đi hơn nhiều so với những
năm trước.
Tuy có thể có một số tác động "tích cực" nào đó (giá cả hàng hóa, năng
lượng, nguyên liệu có thể giảm, giúp giảm CPI, hỗ trợ tăng trưởng), song tình hình
kinh tế thế giới năm 2012 nhìn chung sẽ tác động bất lợi nhiều hơn đến sự tăng
trưởng và ổn định của nền kinh tế nước ta.
 Thực lực nền kinh tế Việt Nam khi bước vào năm 2012
Xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng, tình trạng lạm phát cao, thâm hụt
thương mại và thâm hụt ngân sách nặng nề kéo dài đã nhiều năm và vẫn chưa có
dấu hiệu dừng lại. Ở đây điểm đáng lưu ý là có thể xuất hiện tình huống vòng xoáy
trong phát triển kinh tế, tức là đình trệ đi liền với lạm phát cao, một tình huống rất
nguy hiểm.
 Một số biểu hiện cần được lưu ý hiện nay là:

1) Sức khỏe doanh nghiệp bị hao hụt nặng. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chín
tháng đầu năm nay có gần 50.000 doanh nghiệp (9% tổng số) đóng cửa. Tuy
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 17

mức độ chính xác của số liệu còn phải bàn (có một số bằng chứng gián tiếp
nhưng đáng tin cậy cho rằng số doanh nghiệp đóng cửa có thể lên tới 30-

35%, tức là gấp 3-4 lần con số công bố), song con số 9% cũng tạm đủ để nói
lên tính nghiêm trọng của tình hình.
2) Đời sống của dân cư, nhất là nhóm người thu nhập thấp ngày càng khó khăn
do lạm phát cao kéo dài và việc làm bị thu hẹp. Hệ quả là sức mua xã hội
giảm và lòng tin bị xói mòn.
3) Dư địa chính sách và năng lực tài chính nhà nước để tăng tốc độ tăng trưởng
(tăng đầu tư Chính phủ) và kiềm chế lạm phát bị thu hẹp mạnh mẽ. Các giải
pháp để xử lý vấn đề trong ngắn hạn chủ yếu vẫn là các giải pháp hành
chính.Tình thế phát triển nêu trên cho phép nhận định: cơ sở cho tăng trưởng
GDP năm 2012 nhìn chung là yếu hơn so với các năm trước và dư địa chính
sách để chống lạm phát và ổn định vĩ mô bị thu hẹp đáng kể.
Năm 2012 có nhiệm vụ khôi phục ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và phục
hồi tăng trưởng. Về nguyên tắc, đó là những nhiệm vụ "thông thường" của một nền
kinh tế khi lâm vào tình trạng khó khăn. Nhưng năm 2012 là năm đặc biệt, theo
nghĩa đây là năm nền kinh tế lâm vào tình thế khó khăn nghiêm trọng, cũng là năm
nền kinh tế phải tạo bước ngoặt để xoay chuyển tình hình – ổn định kinh tế vững
chắc để khôi phục lòng tin, hạ thấp lạm phát đến mức giúp các doanh nghiệp
không lún sâu hơn vào tình thế bi kịch (số doanh nghiệp bị đóng cửa và phá sản
tiếp tục tăng). Ngoài ra, năm 2012 còn một điểm nhấn đặc biệt khác: tiến hành tái
cấu trúc nền kinh tế với các hành động thực tế mang tính chiến lược để thay đổi mô
hình tăng trưởng.
Để thực hiện các nhiệm vụ – mục tiêu đó, ngay từ bây giờ, cần quán triệt tư
duy "đánh đổi" khi cân nhắc mức độ ưu tiên giữa mục tiêu ổn định – cải cách (tái
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 18

cấu trúc) và mục tiêu tăng trưởng trên quan điểm lợi ích phát triển dài hạn (lợi ích
chiến lược).
Về cấp độ ưu tiên, thực tiễn nhiều năm cho thấy để đưa nền kinh tế thoát ra
khỏi tình trạng khó khăn hiện nay, không thể không ưu tiên cho nhiệm vụ tái cơ

cấu. Nhưng để quá trình tái cơ cấu có thể diễn ra, cần ổn định nền kinh tế để tái lập
lòng tin thị trường, lòng tin xã hội. Đây phải là hai mục tiêu – nhiệm vụ ưu tiên cao
nhất. Như vậy, tăng trưởng đương nhiên không phải là mục tiêu ưu tiên và phải
kiên định với lập trường này.
Nhấn mạnh điều này vì thực tế mấy năm gần đây diễn ra một tình trạng
nghịch lý: mục tiêu ưu tiên (kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, tái cơ cấu) thì
thường khó (hay không) đạt còn mục tiêu không ưu tiên (tốc độ tăng trưởng GDP)
thì đạt được tương đối dễ dàng. Điều này chứng tỏ mục tiêu tăng trưởng được thực
hiện theo một cơ chế mang tính tự động, bản năng, bất chấp các nỗ lực chính sách.
Theo logic đó, để xoay chuyển thực tiễn thì điều đầu tiên là phải "đổi mới tư
duy", phải biết đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng ở mức ít tham vọng nhất, ít cần
được quan tâm nhất, tức là với sự tự giác cao nhất. Để làm được điều này, trong
năm 2012, cần gạt bỏ triệt để căn bệnh "nghiện" thành tích tốc độ tăng trưởng.
Chính phủ và cả hệ thống chính trị cần coi trọng hơn hệ thống đánh giá năng lực và
thưởng phạt căn cứ vào thành tích chống lạm phát và khôi phục lòng tin.
 Phân tích kịch bản kinh tế năm 2012
Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra hai kịch bản tăng trưởng (xem
bảng, các con số trong ngoặc thuộc kịch bản 2).
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 19

Tuy đã "nén" các chỉ số, song các mục tiêu đề xuất trong cả hai kịch bản, kể
cả trong kịch bản "ít lạc quan" cũng đều lạc quan hơn so với kết quả thực tế đạt
được năm 2011. Đáng lưu ý là sự cải thiện mạnh mẽ một số chỉ tiêu chất lượng –
đầu tư ít hơn nhưng tốc độ tăng trưởng cao hơn, bội chi ngân sách ít hơn.
Trước hết, có thể thấy đây là các con số mục tiêu và cơ bản giống như các
năm khác. Với kịch bản này, dường như việc nhận diện tình thế và nhiệm vụ phải
làm của năm 2012 không có gì khác biệt, chưa nói là đặc biệt.
Thử đặt một vài câu hỏi cho kịch bản mục tiêu (so năm 2012 với 2011):
1. Tổng đầu tư xã hội giảm mạnh, từ 39,8% GDP xuống 33,5-34% GDP,

nhưng tốc độ tăng GDP cao hơn -> như vậy là phải trông đợi vào tăng hiệu quả đầu
tư. Nhưng phép màu tăng hiệu quả là ở đâu?
2. Xuất khẩu tăng trưởng chậm hơn nhiều (12% so 31%), nhưng thâm hụt
thương mại lại ngang bằng năm 2011 -> có nghĩa là nhập khẩu tăng trưởng chậm
hơn nhiều -> tức là "đầu vào" nhập khẩu tăng chậm. Điều đó sẽ tác động đến tăng
trưởng GDP theo chiều hướng tiêu cực?
3. Lạm phát thấp hơn nhưng tăng trưởng GDP cao hơn. Chính sách tiền tệ và
tài khóa tiếp tục thắt chặt, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp như thế nào?
4. Việc giảm lạm phát xuống dưới 10% đã đủ bảo đảm tái lập ổn định vĩ mô
và giúp chặn xu hướng đóng cửa và phá sản của các doanh nghiệp chưa?
5. Mức giảm bội chi ngân sách thấp (chỉ giảm 0,5% GDP). Giả dụ mức thu
ngân sách năm 2012 giữ nguyên mức thu của năm năm gần đây (28,2% GDP) thì
mức chi tiêu ngân sách năm 2012 vẫn đạt 33% GDP. Đó là chưa kể đến khả năng
năm 2012 ngân sách được chi tiêu phần ngân sách vượt thu của năm 2011 (90.000
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 20

tỉ đồng). Các con số này cho thấy mức chi ngân sách ở Việt Nam là quá lớn trong
những năm vừa qua (so với mức thông thường của đa số quốc gia trên thế giới).
Với các kịch bản nêu trên, có thể đặt câu hỏi phải chăng xu hướng suy thoái
rõ rệt của kinh tế thế giới không ảnh hưởng gì đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam, rằng tình trạng phá sản và đóng cửa của một số lớn doanh nghiệp trong
năm 2011 không ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng GDP?
 Đề xuất kịch bản hành động
Trong tình huống cấp bách thì phải có liệu pháp đặc biệt, cần một kịch bản
hành động mạnh, rõ ràng, theo đúng tinh thần tái cơ cấu là nhiệm vụ chính của
năm 2012. Giải pháp tái cơ cấu phải được coi là trục giải pháp chính của việc ổn
định và khôi phục tăng trưởng, các chính sách tiền tệ là giải pháp hỗ trợ, tập trung
vào các chính sách tài khóa và cải cách DNNN.
Cách tiếp cận giải pháp là: thực hiện các giải pháp mạnh để xoay chuyển

tình hình và chấp nhận trả giá để hạ nhanh lạm phát, tái lập ổn định vĩ mô vững
chắc, khôi phục lòng tin và phục hồi các cơ sở tăng trưởng.
Cách tiếp cận mới về các mục tiêu phát triển năm 2012
Mục tiêu ưu tiên là ổn định và khôi phục lòng tin, xác lập mô hình tăng
trưởng mới. Bên cạnh đó, các mục tiêu bổ sung là giảm lạm phát xuống 6-7%,
không quá chú trọng tốc độ tăng trưởng GDP, có thể chỉ đặt mục tiêu tăng trưởng
GDP 3-4%, cùng lắm là 5%.
Về giải pháp, cần kiên quyết giảm thu ngân sách xuống 24-25% GDP, trên
cơ sở đó, thực sự giảm chi ngân sách, giảm đầu tư công, kéo mức thâm hụt ngân
sách xuống 4% GDP.
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 21

Việc thực hiện các mục tiêu này vừa cho xã hội thấy quyết tâm và hành động
tái cơ cấu của Chính phủ, tạo lòng tin cho nhân dân, vừa là cách hỗ trợ thiết thực
và tích cực khu vực tư nhân phục hồi hoạt động tăng trưởng.
Đề xuất chương trình hành động
Trước hết, phải bắt tay ngay vào tái cơ cấu thực sự ba lĩnh vực ưu tiên mà
Hội nghị Trung ương 3 đã khẳng định (đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương
mại, khu vực doanh nghiệp nhà nước).
Ngoài ra, còn phải làm một số việc:
- Cải cách hệ thống lương trong khu vực nhà nước, coi đây là phương cách
quyết định để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là
cách để khôi phục lòng tin của dân.
- Cải cách hệ thống ngân sách theo nguyên lý kinh tế thị trường.
- Đẩy mạnh việc thay đổi Luật Đất đai, không để tình trạng Luật Đất đai
luôn chạy theo thực tế và cản trở quá trình đổi mới theo hướng thị trường.
- Tập trung ưu tiên dành vốn nhà nước để xây dựng bốn khu kinh tế tự do,
với thể chế hiện đại, đột phá mở đường cho bốn vùng kinh tế trọng điểm (Phú
Quốc, Vũng Tàu, Đà Nẵng – Chân Mây, Hải Phòng).

Đó là những yếu tố chính của kịch bản hành động nhằm đạt được kịch bản
tăng trưởng với những mục tiêu khiêm tốn hơn về tăng trưởng GDP, song khốc liệt
hơn
LẠM PHÁT VÀ GÓC NHÌN SINH VIÊN
NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ Yh: lotus_flower39 Page 22

IV. KIẾN NGHỊ

Năm 2011 là một năm đầy biến động về giá cả hàng hóa, giá xăng tăng đẩy
chi phí sản xuất tăng kéo theo sự gia tăng lạm phát. Vì vậy Chình Phủ cần đề ra
một số biện pháp để kiềm chế lạm phát năm 2012 về mức một con số như mục tiêu
đề ra. Tôi đưa ra một số giải pháp là:
Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ nhưng bảo đảm hỗ trợ vốn tín
dụng cho các nhu cầu thiết yếu nhất trong sản xuất, kinh doanh trước hết là cho
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, phát triển điện, xuất khẩu
Tăng cường quản lý thị trường vàng, thị trường ngoại tệ; cơ cấu lại các ngân
hàng thương mại
Quyết liệt thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư để cải thiện các
cân đối kinh tế vĩ mô, giảm thâm hụt ngân sách nhà nước, đảm bảo dư nợ công, dư
nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn; giảm dần tỷ lệ đầu tư công
trong tổng đầu tư toàn xã hội


×