Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

bài giảng word: Khái quát về Tư tưởng Hồ Chí Minh (Cao đẳng giáo dục nghề nghiệp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.49 KB, 23 trang )

BÀI 2
KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi. Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, là không có gì quý hơn độc lập tự do.
Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các
luận điểm phản ánh những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam.
Nguồn gốc tư tưởng – lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác –
Lênin, giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những vấn đề liên quan trực tiếp của cách
mạng Việt Nam. Giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ
Chí Minh là soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần to
lớn của Đảng và dân tộc ta.
1.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Bối cảnh thời đại (quốc tế)
Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đại chính trị vào lúc thế giới xảy ra rất nhiều
sự kiện quan trọng.
Từ cuối thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì bành trường xâm lược và áp bức
các dân tộc thuộc địa. Hai chính sách này đã đẩy mâu thuẫn cơ bản trong lòng
xã hội tư bản lên cao; đồng thời làm nảy sinh mâu thuẫn mới của thời đại là mâu


thuẫn giữa các nước đế quốc với các dân tộc thuộc địa.
1


Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này
gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước, đồng thời cũng đã
làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc
tăng thêm.
Năm 1917, Cách mạng tháng 10 Nga thành công. Cách mạng Tháng Mười
Nga mở đầu một thời đại mới “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”. Đối với nước Nga, đó là cuộc cách mạng vô sản, lật đổ nhà
nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô viết. Nhưng đấy còn là cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc vì nhiều dân tộc trong đế quốc Nga được giải phóng, dẫn đến
sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết vào năm 1922.
Năm 1919, Quốc tế cộng sản được thành lập. Sự kiện cách mạng Tháng
Mười Nga thắng lợi và Quốc tế cộng sản thành lập đã tạo tiền đề thúc đẩy sự
phát triển của phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa.
Như vậy, hoàn cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận
động, phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX; là sự gặp gỡ giữa trí tuệ mẫn cảm, thiên tài của Hồ Chí Minh
với trí tuệ thời đại- chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ sự tiếp thu nhận thức ban đầu,
trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển những quan điểm mới, tạo thành
hệ thống tư tưởng của Người.
Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh sinh ra và trưởng thành trong một gia đình nhà Nho có truyền
thống yêu nước: Cha là một nhà Nho cấp tiến có tư tưởng lấy dân làm gốc. Tấm
gương hiếu học, vượt khó, nếp sống giản dị thanh bạch, yêu nước thương dân
của Ông là những nhân tố tác động mạnh đến việc hình thành nhân cách Hồ Chí
Minh; Mẹ của Người là người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu. Tấm gương chịu

thương, chịu khó, tần tảo, thủy chung, hy sinh cả cuộc đời cho chồng, con của
Bà là một trong những cội nguồn tư tưởng giải phóng phụ nữ của Hồ Chí Minh;
Anh trai và chị gái của Người không chỉ là những nhà Nho mà còn là những
người hoạt động cách mạng sôi nổi đã từng bị tù đày nhưng luôn giữ tinh thần
kiên trung. Họ là những tấm gương yêu nước, thương dân trong hành trình cách
mạng của Hồ Chí Minh.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và Hiệp định Patơnốt (1884)
được ký kết, xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến, thừa
nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX,
2


các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần vương” do các văn thân, sy
phu lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời trước
các nhiệm vụ lịch sử.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho xã
hội Việt Nam có sự phân hóa giai cấp-xã hội sâu sắc. Tạo tiền đề bên trong cho
phong trào đấu tranh giải phóng đân tộc đầu thế kỷ XX. Đầu thế kỷ XX, các
phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước nhưng
đều thất bại (Chủ trương cầu viện, dùng vũ trang khôi phục độc lập của Phan
Bội Châu; Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ” khai thông dân trí, nâng cao dân
trí,.. trên cơ sở đó mà dần dần tính chuyện giải phóng của Phân Chu Trinh; Khởi
nghĩa nặng cốt cách phong kiến của Hoàng Hoa Thám; Khởi nghĩa theo khuynh
hướng tư sản của Nguyễn Thái Học). Phong trào cứu nước của nhân dân ta
muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con đường mới. Sự xuất hiện tư tưởng Hồ
Chí Minh là một tất yếu, đáp ứng nhu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam.
1.2.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Truyền thống văn hóa dân tộc
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã
tạo cho mình một nền văn hoá riêng, phong phú và bền vững với những truyền

thống tốt đẹp và cao quý. Đó là ý thức chủ quyền quốc gia dân tộc, ý chí tự lực,
tự cường, yêu nước, kiên cường, bất khuất,... tạo thành động lực mạnh mẽ của
đất nước; là tinh thần tương thân, tương ái, nhân nghĩa, cố kết cộng đồng dân
tộc; thuỷ chung, khoan dung, độ lượng; thông minh, sáng tạo, quí trọng hiền tài,
tiếp thu tinh hoa nhân loại để làm phong phú văn hoá dân tộc... Trong nguồn giá
trị tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi, là dòng chảy chính
của tư tưởng văn hoá truyền thống Việt Nam, xuyên suốt trường kỳ lịch sử, là
động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Chủ nghĩa yêu
nước là tình cảm thiêng liêng, cao quý, là cội nguồn sáng tạo, là chuẩn mực đạo
đức dân tộc để Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và tìm thấy con đường cứu nước
cho dân tộc. “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải là chủ nghĩa
cộng sản đã giúp tôi theo Lênin và đi theo Quốc tế III”1.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tiếp thu tư tưởng và văn hoá phương Đông: Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng
của Nho giáo, Phật giáo, tư tưởng triết học phương Đông (Lão Tử, Mặc Tử,
Quản Tử ...) và các tư tưởng tiến bộ khác của văn hóa phương Đông. Đối với
1 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.127.

3


văn hoá phương Đông, cùng với những hiểu biết uyên bác về Hán học, Hồ Chí
Minh biết chắt lọc lấy những gì tinh tuý nhất trong các học thuyết triết học, hoặc
trong tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, của Tôn Trung Sơn... Đối với văn hóa
phương Tây, Người sớm làm quen với văn hoá Pháp, tìm hiểu các cuộc cách
mạng ở Pháp và My. Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình
đẳng qua các tác phẩm của các nhà khai sáng như: Voltaire, Rousseau,
Montesquieu… Người còn tiếp thu các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của đại cách mạng Pháp 1789; các giá trị về quyền sống, quyền tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở My năm 1776. Nói

tóm lại, trên tiến trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu vốn trí tuệ
của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa chọn lọc
để từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận
dụng và phát triển.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất
của tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tư tưởng của Người góp phần làm phong phú
thêm chủ nghĩa Mác - Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc
lập, tự do. Người khẳng định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta… là
mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa
xã hội…”.
Chủ nghĩa Mác – Lênin với mục tiêu có giá trị nhân văn: giải phóng xã hội,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Không những vậy, chủ nghĩa Mác
– Lênin còn vạch ra con đường, lực lượng và phương pháp để đạt được mục
tiêu, từ đó mang lại cho con người cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Đây là
khát vọng rất tự nhiên của con người.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp thu bản chất khoa học và
cách mạng của học thuyết, vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện đặc thù
của nước ta, giải quyết thành công những vấn đề cơ bản, cấp bách của cách
mạng Việt Nam, khẳng định con đường cứu nước duy nhất là cách mạng vô sản.
Người cũng chỉ rõ vai trò của Chủ nghĩa Mác – Lênin: Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất, chắc
chắn nhất là chủ nghĩa Lênin,có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là “chủ
nghĩa Mác – Lênin” của Việt Nam
Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh
4


Các nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh được biểu hiện: Tư duy độc lập,

tự chủ, sáng tạo khả năng phê phán tinh tường sáng suốt không để bị đánh lừa
bởi cái vỏ hào nhoáng bên ngoài của chủ nghĩa tư bản. Khả năng hấp thụ, xử lý,
chuyển hoá tri thức của nhân loại thành trí tuệ và kinh nghiệm đấu tranh của bản
thân phù hợp với cốt cách của người Á Đông, người Việt Nam, không thoả hiệp
vô nguyên tắc, không làm biến chất tư tưởng gốc. Khả năng đưa những tri thức
thu nhận được vào trong quần chúng nhân dân, trước hết là vào những lớp
người tiên tiến nhất trong dân tộc, thực hiện bước chuyển từ người đi tìm đường
cứu nước trở thành người dẫn đuờng. Ở Việt Nam có nhiều người đi tìm đường
cứu nước, song chỉ có Hồ Chí Minh sớm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
nhất và trở thành người dẫn đường cho dân tộc ta. Tâm hồn của một nhà yêu
nước chân chính, một chiến sy cộng sản nhiệt tình cách mạng, thương dân, tin
tưởng vào nhân dân, sẵn sàng chịu đựng những hi sinh cao nhất vì độc lập của
Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hoà những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá
nhân loại. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết,
chuyển hoá sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư
tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
1.3. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời kỳ truớc năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu
nước
Đây là thời kỳ đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mang tính quyết định đối
với việc hình thành tư tưởng yêu nước, chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh.
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Xuất
thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, từ thủa nhỏ, Hồ Chí Minh đã được
tiếp nhận truyền thống chống ngoai xâm của dân tộc, nền văn hiến của nước nhà
và những tinh hóa văn hóa phương đông. Người lại được hưởng nền giáo huấn
“yêu nước, thương nòi” của gia đinh, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất
Lam Hồng. Đây cũng là thời kỳ bọn thực dân Pháp khai thác thuộc địa Đông
Dương và ra sức đàn áp các phong trào yêu nước. Sự thất bại của các phong trào

yêu nước đầu thế kỷ đã cho Nguyễn Tất Thành thấy muốn cứu nước phải tìm
một con đường mới
Chính truyền thống quê hương và gia đình đã hình thành ở người thanh
niên Nguyễn Tất Thành lòng yêu nước, hoài bão cứu nước, lòng nhân ái, thương
người, nhất là người nghèo khổ, tha thiết bảo vệ những truyền thống của dân
5


tộc, ham học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.
Thời kỳ từ năm 1911- 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc
Để thực hiện hoài bão của mình, anh Nguyễn đã đi và sống ở nhiều nước
thuộc châu Âu, châu Á, châu Phi, Châu My, tận mắt chứng kiến cuộc sống bị
bóc lột, bị đàn áp của nhân dân các nước thuộc địa và cũng đã trực tiếp tìm hiểu
đời sống của nhân dân lao động các nước tư bản. Anh rút ra kết luận: trên đời
này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột và chỉ
có một mối tình hữu ái - tình hữu ái vô sản là thật mà thôi. Tháng 7/ 1911, Hồ
Chí Minh đến Pháp. Tiếp đó, Người đến nhiều nước thuộc địa ở Châu Á, Châu
Phi, Châu My Latinh và các nước đế quốc như Anh, My, Pháp để nghiên cứu và
tìm đường cứu nước, cứu nhân loại. Năm 1919, Anh cùng với một số nhà yêu
nước Việt Nam thảo Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Vécxây đòi quyền tự do dân
chủ cho người Việt Nam. Bản yêu sách không được Hội nghị xem xét, nhưng
tên gọi Nguyễn Ái Quốc và nội dung Yêu sách đã gây một tiếng vang lớn.
Người cũng đã khảo sát, và tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng My,
tham gia Đảng Xã hội Pháp (1919), tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga.
Sau gần mười năm tìm tòi, nghiên cứu, học tập và hoạt động thực tiễn,
tháng 7/1920, Người tiếp cận với “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”
của Lênin, Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản” 2. Tháng 12/1920, Đại
hội lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, Hồ Chí Minh cùng với

những đảng viên tiên tiến đã biểu quyết gia nhập Quốc tế cộng sản. Người tham
gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong quá
trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động cách mạng của Người.
Thời kỳ từ năm 1921 - 1930: Thời kỳ này Hồ Chí Minh có những hoạt
động rất tích cực và đầy hiệu quả cả trên bình diện thực tiễn và lý luận, góp
phần hình thành tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
Một người sẽ trở thành nhà tư tưởng khi người đó đi trước phong trào tự
phát của quần chúng, chỉ đường cho quần chúng, vạch ra đường lối chiến lược,
sách lược của cách mạng và xây dựng cho quần chúng một tổ chức cách mạng
(Lênin). Thông qua một loạt các cuộc tiếp xúc, các hoạt động xã hội phong phú,
các cuộc hội thảo nghiên cứu sâu về chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã
tích luy cho mình một số vốn tri thức cách mạng hết sức phong phú. Từng bước
2 Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.314.

6


hình thành ở Người tư tưởng đúng đắn: Giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. Cũng từ
đó, lý luận chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa,
nửa phong kiến đã từng bước được hình thành. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng Việt Nam được thể hiện thông qua hàng loạt các bài viết, các
tác phẩm và đặc biệt là thông qua các văn kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt... do Hồ Chí Minh soạn thảo và được Hội nghị hợp nhất 3 Đảng Cộng
sản ở Việt Nam thông qua ngày 3 tháng 2 năm 1930.
Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin về nước, chuẩn bị tích cực cho việc thành lập chính đảng vô sản ở
VN như cho xuất bản báo Người cùng khổ (1922), Bản án chế độ Thực dân
Pháp (1925), Báo Thanh niên (1925 -1927), Đường Kách Mệnh (1927)... Từ
ngày 3 – 7/2/1930, Hồ Chí Minh trực tiếp chủ trì hội nghị Thành lập Đảng,

thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Thời kỳ từ 1931 - 1941: Thời kỳ Người gặp những thủ thách và kiên trì giữ
vững quan điểm tư tưởng của mình về đấu tranh giải phóng dân tộc
Do không nắm được tình hình thực tế của các thuộc địa ở phương Đông và
Việt Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả khuynh” đang tồn tại, quốc tế cộng
sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc trong Hội nghị hợp
nhất. Hội nghị Trung ương tháng 10/1930, Đảng ta đã ra nghị quyết thủ tiêu
chánh cương và sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng
cộng sản Đông Dương. Trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế
giới mới, Đại hội lần thứ VII Quốc tế cộng sản (8/1935) đã tự phê bình về
khuynh hướng “tả”, cô độc, biệt phái và Đại hội thành lập Mặt trận dân chủ
chống phát xít. Năm 1936, Đảng ta tự phê bình biểu hiện “tả khuynh” trước đây,
thừa nhận chánh cương, sách lược văn tắt cuả Hồ Chí Minh.
Thời kỳ từ 1941 – 1969: Thời kỳ Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng
Cuối tháng 9/1938, Quốc tế cộng sản quyết định điều động Hồ Chí Minh
về công tác ở Đông Dương. Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1941, Người trực tiếp chỉ đạo Hội nghị
lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương khoá I đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
cao hơn thế, tạm thời gác lại khẩu hiệu cách mạng điền địa, xoá bỏ vấn đề Liên
bang Đông Dương, lập ra Mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc
trên cơ sở liên minh công nông, đưa tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Đó
cũng là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.
7


Ngày 2/9/1945, Người thay mặt quốc dân đọc “Tuyên ngôn độc lập” tại
quảng trường Ba Đình. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch nước và tư tưởng
cách mạng và khoa học của Người được thể chế bằng Hiến pháp và pháp luật
hiện hành của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946). Không bao lâu, nước

nhà lâm vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân ta
bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp với tư tưởng: vừa kháng chiến vừa kiến
quốc. Dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hoà bình
lập lại, nhưng đất nước tạm thời bị chia cắt. Đảng ta đã xác định kẻ thù chính
của cách mạng Việt Nam là Đế quốc My và vạch ra đường lối cùng một lúc thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược: miền Nam thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ,
miền Bắc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa không kinh qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa.
Năm 1965, trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”,
Đế quốc My chuyển qua thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Chúng đưa
quân My và chư hầu vào miền Nam, tăng cường phá hoại miền Bắc. Trước tình
hình này Hồ Chí Minh khẳng định: “…Không có gì quý hơn độc lập tự do..”.
Trước khi qua đời, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta bản
Di chúc thiêng liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên niềm tin tất thắng ở sự
nghiệp chống My cứu nước của dân tộc ta, tổng kết sâu sắc những bài học đấu
tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời đề ra những phương sách
lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Bản Di chúc là những lời căn dặn
cuối cùng đầy tâm huyết, thắm đượm tình người của Chủ tịch Hồ Chí Minh một di sản vô cùng quý báu của dân tộc và nhân loại.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn của
đường lối cách mạng đúng đắn, ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng
Việt Nam
2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
- Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong
tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí
Minh, được thống nhất trong cả lý luận và hoạt động thực tiễn, phản ánh chính
xác mục đích, lý tưởng, khát vọng của Người: nước ta được độc lập, dân ta

8


được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền nhau là quy luật vận động và phát triển
của các dân tộc trong thời đại hiện nay.
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự
quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải
phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc
bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân,
những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để
đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc
hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội.
-

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại

Người xác định tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
là để tạo ra sức mạnh vô tận nhằm lấy nhỏ thắng lớn trong chống đế quốc xâm
lược, từ nghèo nàn lạc hậu đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua sự phát triển
của tư bản chủ nghĩa. Nội dung tư tư tưởng đó được người nêu rõ:
Thứ nhất, cách mạng Việt Nam là một bộ phận trong cách mạng thế giới, ai
làm cách mạng thế giới đều là đồng chí của Việt Nam cả,điều đó phân biệt được
bạn gần, bạn xa và kẻ thù trên thế giới.
Thứ hai, phải gắn kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vô sản trong thời đại hiện nay để từ đó mới giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp một cách triệt để, Hồ Chí Minh phê phán chủ nghĩa dân tộc

hẹp hòi và chủ nghĩa dân tộc nước lớn, đề cao và giữ vững chủ nghĩa quốc tế vô
sản, bảo vệ khối đoàn kết của cách mạng thế giới.
Thứ ba, phải giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình
là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, nhưng không quên thực hiện
nghĩa vụ quốc tế của mình, Người nêu rõ, muốn người ta giúp cho trước hết
phải tự giúp mình, một dân tộc không tự lực cánh sinh mà ngồi chờ các dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Mặt khác Người không coi nhẹ
sự giúp đỡ chí tình của anh em và bạn bè quốc tế. Mỗi bước tiến của cách mạng
Việt Nam đều bao hàm cả thực hiện nghĩa vụ quốc tế, giúp đỡ bạn bè cũng
chính là tự giúp mình.
Thứ tư, phải mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất
9


cả các nước dân chủ; thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một
thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là cơ sở và điều kiện quan
trọng để Việt Nam có thể giành độc lập dân tộc và đi lên Chủ nghĩa xã hội. Có
thể nói đây là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, là một vấn đề quan trọng của
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh không chỉ giải quyết điều đó về lý luận mà
còn tổ chức thực tiễn đạt kết quả cao.
2.2. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự
của dân, do dân, vì dân
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
“Dân là chủ” là muốn nói đến vị thế, quyền lực của dân trong bộ máy nhà
nước; vai trò của nhân dân trong sự phát triển xã hội. Dân phải ở địa vị cao nhất
của đất nước. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ”3.
“Dân làm chủ” là đề cập đến năng lực và trách nhiệm của nhân dân. “Chế
độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”4.

Tuy Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nhưng phải luôn lấy dân làm gốc.
Nghĩa là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhưng phải luôn để cho dân làm chủ
và dân là chủ. Hai vế của mệnh đề luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò,
quyền và trách nhiệm của nhân dân.
Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất quan
niệm dân chủ chung trên thế giới được hình thành từ xa xưa: quyền hành và lực
lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó được thực thi thì
đó là một xã hội thực sự dân chủ.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân
Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hồ
Chí Minh khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Chính quyền của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nhà
nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cơ sở xã hội của Nhà nước là
toàn dân tộc. Nền tảng của Nhà nước là liên minh công nhân, nông dân, lao
động trí óc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.434.
4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.382.

10


Nhà nước của dân: Mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều
thuộc về nhân dân. Mọi công việc của Nhà nước do nhân dân quyết định. Nhân
dân có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước. Trong Nhà nước, dân
là chủ và dân làm chủ. Dân được hưởng mọi quyền dân chủ.
Nhà nước do dân: Nhà nước đó do dân lập nên. Đại biểu Nhà nước do
nhân dân lựa chọn. Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà
nước chi tiêu, hoạt động. Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực,
hiệu quả phải dựa vào dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân…”5.

Nhà nước vì dân: Là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm
chính. Trong Nhà nước, mọi chủ trương chính sách, mọi quy định của pháp luật,
pháp lệnh đều phải xuất phát từ lợi ích của dân. Phải kết hợp hài hòa cả lợi ích
trước mắt và lâu dài; cả lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Là Nhà nước thực sự
của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát. Trong quan hệ giữa Chính phủ
với nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: dân là chủ, Chính phủ vừa là đầy tớ, vừa
là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân.
2.3. Tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng. Theo
Người, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách
mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng. Đại
đoàn kết dân tộc là một vấn đề có tính đường lối, một chính sách nhất quán chứ
không thể là một thủ đoạn chính trị.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người bao gồm:
Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công. Đoàn kết trước hết tạo ra
sức mạnh to lớn, khi đã hợp lực lại thì “khó trăm lần dân liệu cũng xong”, dân
vừa là lực lượng vật chất, vừa là sức sáng tạo của trí tuệ. Đoàn kết là sống, chia
rẽ là chết, được Người nêu thành chân lý, được thử thách và khẳng định trong
tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết là mục tiêu là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng và của dân
tộc.Trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng phải quán triệt tư
tưởng đại đoàn kết, đó là mục tiêu và nhiệm vụ đầu tiên; đại đoàn kết toàn dân
tộc còn là sự nghiệp của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng.
5 Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.65.

11



Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân,bao gồm tất cả các giai cấp,
dân tộc, tôn giáo, đảng phái, cá nhân yêu nước; đoàn kết toàn Đảng và đoàn kết
quốc tế.Điểm tương đồng về lợi ích là cơ sở của đoàn kết, đó là lợi ích của quốc
gia dân tộc gắn chặt với lợi ích của nhân dân; đặt lợi ích của dân tộc cao hơn hết
thảy.
Đại đoàn kết dân tộc được tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất. Đây
là hình thức tổ chức thích hợp nhất để đoàn kết nhân dân;trong đó phải sử dụng
phương pháp giáo dục thuyết phục, vận động là chủ yếu; hiệp thương; đấu tranh
phê bình trên tinh thần dân chủ là hình thức sinh hoạt của mặt trận.Mặt trân dân
tộc thống nhất chính là hình thức tổ chức đội quân chính trị của quần chúng.
Đảng Cộng Sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận, phải
đoàn kết toàn đảng để làm nòng cốt đoàn kết trong mặt trận. Đảng lãnh đạo mặt
trận là nguyên tắc hàng đầu trong xây dựng mặt trận; cùng với đó phải biết dựa
trên khối công nhân liên minh với nông dân và tầng lớp trí thức vững chắc để
phát huy sức mạnh toàn dân nhằm thực hiện mục tiêu cách mạng
2.4. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Về kinh tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ quan trọng nhất đó
là phải phát triển kinh tế, xây dựng nền tảng vật chất, ky thuật của chủ nghĩa xã
hội.
Về cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chủ trương phát triển cả công nghiệp và nông nghiệp: “Công nghiệp và nông
nghiệp là như hai chân của nền kinh tế nước nhà. Chân phải thật vững thật khỏe,
thì kinh tế mới tiến bộ thuận lợi và nhanh chóng”6.
Về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế: Nền kinh tế XHCN phải tạo lập
trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá
độ, nền kinh tế đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính là: sở hữu nhà nước,
sở hữu hợp tác xã, sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư bản.
Cùng với đó là nhiều thành phần kinh tế.

Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong sản xuất, trong
tiêu dùng, thời gian, sức lao động. Đồng thời, phải chống tham ô, lãng phí, quan
liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Người chỉ rõ:
“Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng
lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của
6 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.84

12


hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”7.
Tư tưởng kinh tế rất đặc trưng Hồ Chí Minh, đó là cần kiệm xây dựng
nước nhà, tăng gia sản xuất và tiết kiệm, sản xuất đi đôi với tiết kiệm, sản xuất
mà không tiết kiệm thì như gió vào nhà trống.
Về văn hóa: Hồ Chí Minh đã nhận thấy rõ vị trí đặc biệt quan trọng và ý
nghĩa lớn lao của văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội: “Văn hóa
phải soi đường cho quốc dân đi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ
xây dựng “một nền văn hóa mới” và chỉ rõ tính chất, đặc trưng và chức năng
chủ yếu của nền văn hóa đó. Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và
phong phú, bao gồm văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa giáo dục, văn
hóa nghệ thuật, văn hóa pháp luật, văn hóa lao động, đời sống văn hóa cụ thể,
văn hóa lối sống...
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Toàn dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và
đóng góp cho sự phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời
sống văn hóa của mình và toàn dân được quyền hưởng thụ, tiếp nhận, lưu giữ và
truyền bá văn hóa tốt đẹp, lành mạnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và
đang là những định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta hiện nay
2.5. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

- Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Đạo đức là gốc của người cách mạng, muốn làm cách mạng phải lấy đạo
đức làm gốc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới
là sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu
tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn
thành đuợc nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”8.
Đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây,
như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy

7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.311.
8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.283.

13


cũng không lãnh đạo được nhân dân”9.
Đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho con người vững vàng trong mọi
thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước ... khi gặp thuận lợi và thành công
vẫn giữ đuợc tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng
thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”.
Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân, Người yêu cầu phải
xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Trong
bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là

người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”10.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ bản của
con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
Trung với nước, hiếu với dân
Bác cho rằng: Trung với nước phải gắn liền với hiếu với dân. Vì nước là
nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ chứ không
phải là “quan cách mạng’’. Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước;
là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ
thương dân, tin dân, phục vụ dân hết lòng. Để làm được như vậy, phải gần dân,
kính trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với
cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm,
thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân khí.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là cái cốt lõi của đạo đức cách
mạng
Đây cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được
Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung
mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Cần là siêng năng, chăm chỉ, lao động có
kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh. Kiệm là
9 Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.252 – 253.
10 Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.510.

14


tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của
bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ... Liêm là luôn tôn trọng của công
và của dân. Phải “trong sạch, không tham lam’’ tiền của, địa vị, danh tiếng.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: Đối với mình không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay,

sữa chữa cái dở của mình. Đối với người - không nịnh người trên, không khinh
người dưới, thật thà, không dối trá. Đối với việc - phải để việc công lên trên, lên
trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác, nhỏ mấy cũng tránh.
Đối với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về mặt
vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, kiệm, liêm,
chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
Chí công vô tư, là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm việc gì
cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ’’ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ chủ nghĩa cá nhân.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau: cần
và kiệm như hai chân của con người nên phải đi đôi với nhau. Người coi cần,
kiệm, liêm, chính là bốn đức của con người, thiếu một đức thi không thành
người, như trời có 4 mùa, đất có 4 phương. Cần, kiệm, liêm, chính dẫn đến chí
công vô tư, ngược lại, đã có chí công vô tư, một lòng vì nước vì dân thì nhất
định sẽ thực hiện được 4 đức tính kia và có được nhiều tính tốt khác. Nếu rèn
luyện được các đức tình này thì mỗi người sẽ vượt qua được chủ nghĩa cá nhân,
vững vàng trước khó khăn, thử thách.
Yêu thương con người
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo: Người
coi con người là vốn quý nhất,suy cho cùng thì ở đời và làm người càng phải
yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ. Hồ Chí Minh đã xác định tình
yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ,những người
lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” 11. Hồ
Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở
miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai,
11Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.161-162


15


không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng
nhân ái của Người. Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm
chất yêu thương con người
Có tinh thần quốc tế trong sáng
Hồ Chí Minh đề cao tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, đó là tinh thần đoàn
kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước; là tinh thần đoàn
kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì những
mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội,
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh thần:
bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân
Việt Nam và nhân dân thế giới. Đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối
thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hoá hoà bình cho nhân loại.
- Quan điểm Hồ Chí Minh về nguyên tắc rèn luyện đạo đức
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ
đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên...là rất quan trọng. Người
yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm
gương cho con cháu, lãnh đạo làm guơng cho cán bộ, nhân viên... Đảng viên
phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Truớc mặt quần chúng, không
phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
yêu mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
làm phải mực thước cho người ta bắt chước”.
Xây đi đôi với chống
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp,

nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, xấu xa, trái với những yêu
cầu của đạo đức mới, đó là “chủ nghĩa cá nhân”. Xây đi đôi với chống là muốn
xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
phải chống chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải đuợc tiến hành bằng giáo dục, từ gia
đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải
được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá
các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm
xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
16


mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong
đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân,
phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây dựng và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra
phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê bình cái xấu. Người đã
phát động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để
tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người,
không phải trên trời sa xuống, mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua
giáo dục, tự tu dưỡng và bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong đấu
tranh cách mạng. Rèn luyện đạo đức là một quá trình rất gian khổ, phải xác định
tư tưởng, kiên trì, tự giác, tự nguyện, đề cao tinh thần tự phê bình và phê
bình.Muốn rèn luyện đạo đức phải lấy tự mình làm mực thước; phải nêu tấm
gương tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau; gắn với việc rèn luyện đạo đức với
thực tiễn công tác của mình; phải rèn luyện thường xuyên, liên tục và suốt đời.
2.6. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ một cách toàn diện

Theo Hồ Chí Minh, chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ phải toàn diện; chú trọng
đủ các mặt: lý tưởng, chí khí, đạo đức cách mạng; trình độ học vấn, khoa học,
ky thuật, quân sự; nếp sống văn hóa, giáo dục thể chất.
Trước hết và quan trọng nhất là giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng
cho thanh niên mà hạt nhân là giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi thanh niên
sống có lý tưởng cao đẹp, có chí khí và bản lĩnh chính trị vững vàng, thì dù khó
khăn gian khổ thế nào, họ vẫn nguyện suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp
của Đảng, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Cùng
với cần giáo dục, bồi dưỡng về trình độ học vấn và năng lực hoạt động thực
tiễn. Có tri thức, trình độ học vấn, hiểu biết về khoa học ky thuật là cơ sở để thế
hệ trẻ nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn đáp ứng tốt yêu cầu của cách
mạng, xây dựng xã hội mới.
Hồ Chí Minh coi trọng giáo dục nếp sống văn hóa và giáo dục thể chất cho
thanh niên, khi khỏe cả về thể chất và tinh thần thì mới thực hiện được nhiệm vụ
cách mạng. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho thế hệ trẻ,
những nhu cầu, lợi ích chính đáng được thoả mãn là một động lực trực tiếp thúc
đẩy họ hoạt động tích cực và hiệu quả.
17


Phương châm giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ
Giáo dục phải phù hợp với mỗi đối tượng; học phải đi đôi với hành, học
mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy;
giáo dục phải phối hợp gia đình, nhà trường và xã hội; phải phát huy dân chủ,
bình đẳng trong giáo dục; phát động phong trào thi đua.
Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau phải xuất phát từ yêu
cầu cách mạng mỗi giai đoạn, từ thực tiễn xã hội, cần phải tuyên truyền sâu
rộng về vai trò, vị trí trách nhiệm của thanh niên, cũng như tầm quan trọng của
việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống dân tộc,
truyền thống cách mạng của Đảng, đạo đức cách mạng, sống và làm việc

theoHiến pháp và pháp luật. Định hướng cho thế hệ trẻ biết kết hợp chặt chẽ
giữa yêu nước và yêu chế độ Xã hội chủ nghĩa trong hành động, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa
3. VAI TRÒ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG
VIỆT NAM
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn,
bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Tư tưởng đó bao gồm một hệ thống
những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách
mạng đối với thế giới, về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về
việc hiện thực hoá các tư tưởng ấy trong đời sống xã hội… đang soi sáng cho
chúng ta.
Khẳng định nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh là bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc và nhân loại. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh và đã quyết định ghi
vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Điều
đó đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho tương lai,
tiền đồ tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con
đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
18


minh.
Trong suốt chặng đường hơn nửa thế kỷ qua, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở

thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn
đề lớn liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền dân tộc, phát triển xã hội và bảo vệ
quyền con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường
lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta đi tới thắng lợi.
4. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1. Sự cần thiết phải học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh
Xuất phát từ vai trò to lớn của đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, gồm những chuẩn mực, định
hướng giá trị là nền tảng tinh thần của xã hội, có tác dụng chi phối, điều chỉnh
hành vi của con người. Đạo đức xã hội tốt, xã hội sẽ ổn định và phát triển. Hiện
nay, bên cạnh những tấm gương đạo đức tốt còn có một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên và thanh niên suy thoái về đạo đức lối sống, sống thực dụng, chủ
nghĩa cá nhân vụ lợi, sống thiếu trung thực…
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các trào lưu tư tưởng trên thế giới
tác động vào nước ta ngày càng sôi động, nhiều chiều, phức tạp… Nhiệm vụ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh còn rất nặng nề. Giáo dục lối sống,
xây dựng lối sống tốt đẹp theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là yêu cầu và
nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức mẫu mực, sáng người, tiêu biểu nhất
cho truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn
hoá thế giới. Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta; là Chủ tịch nước đầu tiên;
Người sáng lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhiều đoàn thể chính trị xã hội
lớn ở nước ta.

Hồ Chí Minh là tiêu biểu cho tấm gương đạo đức tận trung với nước, tận
hiếu với dân, hết lòng thương yêu con người; mẫu mực của tinh thần cần kiệm,
19


liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng. Người là tấm gương
mẫu mực cho sự tự rèn luyện, kiên quyết vượt qua mọi khó khăn.
Hồ Chí Minh là nhà báo vĩ đại12. Người nói báo chí có trách nhiệm là
người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức và lãnh đạo chung. Người nói
nhà báo viết phải rõ mục đích là viết cho ai? Viết để làm gì và viết như thế nào?.
Hồ Chí Minh là nhà thơ lớn, “Mỗi vần thơ Bác, vần thơ thép. Mà vẫn mênh
mông, bát ngát tình” ( Tố Hữu). Hồ Chí Minh là nhà giáo, là người mở đầu nền
sử học mácxit ở Việt Nam.
Người là điển hình cho phong cách lãnh đạo quần chúng, dân chủ, nêu
gương, phong cách làm việc khoa học, phong cách ứng xử chân tình, dễ gần, dễ
mến; phong cách diễn đạt ngắn gọn, trong sáng, giản dị; phong cách sống đời
riêng trong sáng
Xuất phát từ thực trạng đạo đức trong xã hội hiện nay
Hiện nay bên cạnh những tấm gương đạo đức tốt, còn một bộ phận trong
xã hội suy thoái về đạo đức lối sống; sống thực dụng, nặng về chủ nghĩa cá
nhân, ích kỷ, thực dụng, vụ lợi, bản vị cục bộ. Tệ quan liêu, nạn tham nhũng,
hối lộ, lãng phí, quan liêu… chưa được ngăn chặn; một bộ phận thanh niên
nghiện hút, cờ bạc, đua đòi sống thực dụng, buông thả, thờ ơ với chính trị… Đó
thực sự là nguy cơ, thách thức lớn, ảnh hưởng đến chế độ xã hội chủ nghĩa của
chúng ta.
Trong khi đó, nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
rất nặng nề. Giáo dục đạo đức, xây dựng lối sống tốt đẹp theo tư tưởng, đạo đức
Hồ Chí Minh “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”, khơi dậy, phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc; nhằm khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối

sống; hình thành và phát triển các giá trị đạo đức mới, xây dựng con người Việt
Nam có đạo đức cách mạng vừa là yêu cầu nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên, cấp
bách hiện nay.
Đảng ta khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức Hồ Chí Minh
Trong Điếu văn vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh (9-1969), chúng ta đã thề:
Suốt đời học tập đạo đức tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách
mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến
sĩ trung thành với Đảng, với dân xứng đáng là đồng chí, là học trò của Hồ Chủ
12 Hồ Chí Minh sáng lập 9 tờ báo, viết trên 2.000 bài báo, tác giả 134 bài thơ Nhật ký trong tù, thơ Chúc tết và thơ cách
mạng.

20


tịch. Noi gương Người, toàn thể nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau
dồi mình thành những con người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội mới,
mang lá cờ bách chiến, bách thắng của Hồ Chủ tịch tới đích cuối cùng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta (bổ sung, sửa đổi năm 2011) khẳng định: “Cùng với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng ta”. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vừa
là vinh dự, vừa là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam, quyết tâm phấn đấu
xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hiện nay, Đảng ta đang đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, với mục đích làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc,
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt
trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh
2.2. Nội dung chủ yếu của học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh
Kết hợp công tác giáo dục chính trị, đạo đức và công tác tổ chức thi đua,

nêu cao chủ nghĩa tập thể, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng,
chống chủ nghĩa cá nhân phải đi song song với không ngừng tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng.
Đối với mỗi thanh niên, học sinh, sinh viên cần tích cực học tập lý luận
chính trị trong Đảng. Tin tưởng và kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu không thay đổi của Đảng và nhân
dân ta.
Mỗi người cần nắm vững nội dung tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, trong đó cốt lõi là rèn luyện cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư để phát huy tính tự giác, tiên phong, giữ kỷ luật nghiêm
trong học tập, rèn luyện và lao động, thường xuyên phê bình và tự phê bình,
kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.
Phát huy truyền thống nhân ái của con người Việt Nam mới. Nhân ái là
truyền thống nổi bật của dân tộc Việt Nam. Người thanh niên, học sinh phát
huy truyền thống nhân ái của con người Việt Nam, xây dựng tình thương yêu
với nhân dân, với người lao động trong xã hội. Thương yêu con người phải tin
vào con người để đoàn kết trong nhà trường, lớp học. Có lòng hiếu thảo đối với
21


ông bà, cha mẹ; kính thầy, yêu bạn và với mọi người. Cần rèn luyện ý thức tự
rèn luyện, nghiêm khắc với chính mình, khoan dung, độ lượng với người khác.
Thương yêu con người là có sự cảm thông, chia sẻ trước những khó khăn, hoạn
nạn của người khác; giúp cho mỗi người, những lúc bình thường, cả khi họ mắc
sai lầm, khuyết điểm để họ cố gắng sửa chữa ngày càng tiến bộ hơn. Tham gia
tự nguyện và tích cực các hoạt động vì cộng đồng như các hoạt động từ thiện,
hiến máu nhân đạo, ủng hộ giúp đỡ người nghèo…
Rèn luyện phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Thanh niên
học sinh cần xác định cho mình động cơ, thái độ học tập đúng đắn; tích cực,

siêng năng, say sưa học tập nắm vững kiến thức chuyên môn, rèn luyện tay
nghề, ky năng thực hành. Chú trọng học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng. Học tập và làm việc có kế
hoạch, có phương pháp khoa học để mang lại hiệu quả cao. Nêu cao tác phong
độc lập suy nghĩ ; chống thói lười biếng, ngại khó, ngại khổ, dựa dẫm. Chống tư
tưởng bình quân chủ nghĩa trong học tập, rèn luyện. Nhận thức đầy đủ và thực
hành tiết kiệm mọi lúc, mọi nơi, trong việc nhỏ lẫn việc to. Tiết kiệm trong chi
tiêu, quý trọng và sử dụng tiền bạc. Tôn trọng, giữ gìn của công; phê phán
những hành vi ăn chơi đua đòi lãng phí. Rèn luyện tính trung thực, thẳng thắn,
thật thà trong học tập, thi cử và trong cuộc sống. Có quan hệ đúng mực trong
quan hệ với thầy cô, bạn bè và mọi người, không xu nịnh hay đe nẹt người khác.
Có thái độ khiêm tốn, tích cực học hỏi, cầu tiến bộ. Nâng cao tinh thần tự phê
bình và phê bình. Tôn trọng lẽ phải, làm theo lẽ phải. Kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhân, không bao che, dung túng cho khuyết điểm mình, của bạn, không
kéo bè, kéo cánh chia rẽ nội bộ...
Xây dựng lòng tự hào dân tộc chân chính đi đôi với tôn trọng các dân tộc
khác. Biết lên án các cuộc chiến tranh xâm lược, phi nghĩa, chống lại sự can
thiệp thô bạo từ bên ngoài vào công việc nội bộ của mỗi nước. Nhận thức sâu
sắc đường lối đối ngoại của Đảng là giữ vững độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh. Nhận thức nhiệm vụ đối ngoại hiện nay là giữ vững môi
trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế
của đất nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Tuỳ theo khả năng có những đóng góp,
ủng hộ giúp đỡ nhân dân các nước bị thiên tai, khó khăn qua các phong trào do
22



nhà trường và các đoàn thể trong nước phát động. Nâng cao nhận thức về bạn
và về thù, về đối tác và đối tượng trong giai đoạn hiện nay. Chống tâm lý tự ti
dân tộc, tâm lý sùng ngoại, sính ngoại.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua
đó rút ra kinh nghiệm gì về rèn luyện tư tưởng của bản thân?
2. Phân tích nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh và làm rõ vai trò
tư tưởng của Người đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
3. Trình bày sự cần thiết phải học tập theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh. Để học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, sinh viên học nghề cần phải làm gì?

23



×