Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Khai thác các giá trị đạo đức truyền thống trong tư tưởng hồ chí minh vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường đại học quy nhơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.47 KB, 53 trang )

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cách mạng là bắt đầu giáo dục lý tởng
cách mạng và đạo đức cách mạng cho những ngời yêu nớc, cho thanh niên,
quần chúng nhân dân Hồ Chí Minh không chỉ là ngời giáo dục đạo đức
cách mạng mà còn là hiện thân của đạo đức cách mạng, nêu gơng cho toàn
Đảng, toàn dân ta. Ngời luôn xem đạo đức là cái gốc, là nền tảng của ngời
cách mạng, là nguồn nớc làm cho tinh thần cách mạng không bao giờ cạn. T
tởng đạo đức là bộ phận quan trọng trong hệ thống t tởng Hồ Chí Minh, có
giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, đợc thể hiện với một phong cách độc
đáo, cô đúc, vô cùng giản dị, trong sáng và dễ hiểu Thực tiễn cách mạng
ở nớc ta gần 3/4 thế kỷ qua chứng tỏ rằng, t tởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng là động lực vĩ đại cổ vũ nhân dân ta tiến hành cách mạng tháng
Tám thành công, kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi đem lại
độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Công cuộc đổi mới đất nớc ta theo định hóng xã hội chủ nghĩa đợc
tiến hành trong 20 năm qua "đã đạt đợc những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử"[7; tr.17]: đất nớc ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, kinh tế
tăng trởng khá nhanh, đời sống nhân dân đợc cải thiện rõ rệt Bên cạnh
những mặt tích cực do công cuộc đổi mới đem lại, "nớc ta cũng đang đứng
trớc nhiều thách thức lớn", trong đó có "tình trạng suy thoái về chính trị, t t-
ởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn
liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng
cha đợc ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa rời mục tiêu, lý tởng
của chủ nghĩa xã hội cha đợc khắc phục"[7; tr.22]. Đặc biệt là tình trạng suy
giảm đạo đức trong thế hệ trẻ làm cho chúng ta không khỏi băn khoăn, lo
lắng
1
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ơng Đảng khóa
VIII khẳng định: "Sự nghiệp đổi mới thành công hay không, đất nớc bớc vào
thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn


tùy thuộc vào lực lợng thanh niên, vào việc bồi dỡng rèn luyện thế hệ thanh
niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng".
Chiến lợc phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010 do Chính
phủ phê duyệt ngày 29/4/2003 cũng nêu rõ quan điểm: phát triển thanh
niên là xây dựng thế hệ con ngời mới, phát triển toàn diện, kế tục trung
thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đầu t và phát
triển thanh niên là đầu t cho tơng lai, là bồi dỡng và phát huy nhân tố con
ngời để thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Trớc lúc đi xa, trong "Di chúc" thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những lời rất tâm huyết về thanh niên:
"Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung
phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ, Đảng cần phải chăm lo, giáo
dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ trở thành ngời kế thừa xây dựng
xã hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên", và Ngời nhấn mạnh "bồi dỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết"[21;
tr.512].
Vì thế việc nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gơng đạo đức Hồ Chí
Minh trong quần chúng nói chung và đối với học sinh, sinh viên nói riêng
đang là một yêu cầu cấp bách. Do đó em chọn đề tài "Khai thác các giá trị
đạo đức truyền thống trong t tởng Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức
cho sinh viên trờng Đại học Quy Nhơn" để làm luận văn tốt nghiệp.(vn
dng vo cụng tỏc giỏo dc o c cho sv hin nay)
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ trớc đến nay đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu t tởng
Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên và thế hệ trẻ, đáng chú ý có một số
sau đây:
- "Bác Hồ với sự nghiệp bồi dỡng thế hệ trẻ", Nxb Thanh niên, HN, 1995.

- "Bác Hồ với vấn đề giáo dục thanh niên" của Đặng Xuân Kỳ, Tạp
chí Thanh niên, số 5-1985.
- "Giáo dục thanh niên theo gơng Bác Hồ" của Hiền Hoài, Tạp chí
Thanh niên, số 11, 12-1985.
- "Bác Hồ với việc giáo dục thanh thiếu niên" của Hà Huy Giáp, Báo
Sài Gòn giải phóng, ngày 11/9/1991.
- "Bớc đầu tiếp cận nghiên cứu t tởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh
niên" của Nguyễn Văn Hùng, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 3-1994.
- "Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Đoàn thanh niên" của Dơng
Trung ý, Báo Hà Nội mới, ngày 27/10/1995.
- "Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ của Phạm Bình Nghiệp,
Báo Quân đội nhân dân, ngày 6/4/1997.
- "T tởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên" của Lê Văn Tích và
Nguyễn Minh Đức, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3-1999.
- "T tởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên và sự vận dụng của Đảng
trong công cuộc xây dựng đất nớc", Luận án tiến sĩ Sử học của Trần Thị
Nhơn, năm 2001.
- "T tởng Hồ Chí Minh về bồi dỡng thế hệ cách mạng cho đời sau" của
Trần Qui Nhơn, Nxb Giáo dục, 2005
Hầu hết những công trình nêu trên đã đề cập đến việc giáo dục cho
thanh niên cũng nh thế hệ trẻ theo t tởng Hồ Chí Minh nói chung. Tuy nhiên,
việc vận dụng t tởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh viên ở tr-
ờng Đại học Quy Nhơn là vấn đề mới. Do đó luận văn này tập trung đi sâu
vào giải quyết vấn đề còn khá mới mẻ này.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
- Mục đích:
Khai thác các giá trị đạo đức truyền thống trong t tởng Hồ Chí Minh,
cũng nh quan điểm của Ngời về nội dung, phơng pháp giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ nhằm vận dụng vào công tác giáo dục, bồi dỡng phẩm chất, nhân

cách, lối sống cho sinh viên trờng Đaị học Quy Nhơn.
- Nhiệm vụ:
Để đạt đợc mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Tìm hiểu những giá trị đạo đức truyền thống đợc Hồ Chí Minh kế
thừa và phát triển nhằm vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho thanh niên.
+ Làm rõ nội dung và phơng pháp giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói
chung, học sinh - sinh viên nói riêng theo t tởng Hồ Chí Minh.
+ Tìm hiểu thực trạng đạo đức, lối sống của thanh niên trờng Đại học
Quy Nhơn và bớc đầu nêu ra một số giải pháp để nâng cao đạo đức cách
mạng cho sinh viên của trờng trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận:
Các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thanh niên; những bài
nói, bài viết của Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên; các văn
kiện của Đảng; các báo cáo về công tác đoàn và phong trào thanh niên; các
tài liệu điều tra xã hội học của các đề tài khoa học có liên quan đến luận
văn
- Phơng pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh, luận văn sử dụng một số phơng pháp cụ
thể sau: phơng pháp logic và lịch sử, phân tích tổng hợp tài liệu, phơng pháp
đối chiếu, so sánh, phơng pháp thống kê, khảo sát thực tế
5. Bố cục luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chơng, 7 tiết.
4
Chơng 1
các giá trị đạo đức truyền thống trong t tởng đạo
đức Hồ Chí Minh
1.1.Tinh thần yêu nớc, tự tôn và tự cờng dân tộc, có ý thức làm

chủ, phấn đấu vơn lên trong mọi hoàn cảnh
Trong bản sắc văn hoá dân tộc, truyền thống yêu nớc nổi lên nh hạt
nhân, đây là tài sản có giá trị nhất trong hành trang tìm đờng cứu nớc của Hồ
Chí Minh, là cơ sở xuất phát, là động lực, sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Ngời. Ngời nói: "Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
nớc, chứ cha phải chủ nghĩa cộng sản đã đa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc
tế thứ ba. Từng bớc một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận, vừa
làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu đợc rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng đợc các dân tộc bị áp bức và những ngời lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ. [19; tr.129]
Ngời nhận thức sâu sắc, trọn vẹn về tinh thần yêu nớc của nhân dân
các dân tộc trên thế giới trớc hết về căn bản là thông qua thực tiễn chứ không
phải bằng con đờng sách vở, lúc đầu Ngời ủng hộ cách mạng tháng Mời, đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ mới là theo cảm tính tự nhiên, Ngời kính yêu
Lênin trớc hết vì Lênin là một ngời yêu nớc vĩ đại đã giải phóng đồng bào
mình, chứ không phải vì các tác phẩm của Lênin, vì trớc đó Ngời "cha hề
đọc cuốn sách nào của Lênin viết". Khi đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
lòng yêu nớc của Hồ Chí Minh đã có bớc phát triển mới, đó không chỉ là
lòng thơng cảm sâu sắc đối với những ngời nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột,
mà còn biểu hiện lòng quyết tâm giải phóng triệt để, trớc hết là ngời lao
động.
Yêu nớc và gắn với nó là thơng dân trở thành chuẩn mực đạo đức bao
trùm, quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác. Bởi theo Ngời, mối
quan hệ giữa con ngời với Tổ quốc, với nhân dân là mối quan hệ cơ bản, bao
5
trùm lên các mối quan hệ khác, là cơ sở, điều kiện để giải quyết các mối
quan hệ khác của con ngời đối với xã hội. Nếu không có tình yêu quê hơng,
đất nớc, thì không thể có tình yêu thơng con ngời một cách đầy đủ và đúng
đắn, dẫn đến sự chà đạp hay xúc phạm quyền con ngời, thì nói gì đến giải
phóng con ngời. Vì mỗi con ngời sinh ra đều gắn liền với quê hơng, đất nớc,

đợc nuôi dỡng và trởng thành trong các mối quan hệ (gia đình - làng - nớc)
trong những tập thể, cộng đồng xã hội nhất định. Do đó, không có tình yêu
quê hơng, đất nớc, không có tình thơng đối với con ngời thì không dám dũng
cảm hy sinh đứng trong hàng ngũ đấu tranh để bảo vệ nền độc lập của dân
tộc, bảo vệ cuộc sống và những quyền lợi chân chính của con ngời.
Xét cho cùng, nếu không có lòng yêu nớc thơng dân thì không thể có
những phẩm chất khác: đoàn kết, yêu thơng quý trọng con ngời, sống có
tình, có nghĩa, khoan dung, độ lợng hay cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
t, do đó cũng không có tình th ơng yêu nhân loại trên tinh thần chủ nghĩa
quốc tế trong sáng thuỷ chung .Đặc biệt, đối với cán bộ, đảng viên, nếu
không có phẩm chất "trung với nớc, hiếu với dân thì họ sẽ biến thành những
"ông quan cách mạng" kiêu căng, tự cao, tự đại, tự cho mình nh những "vị
cứu tinh của nhân dân"
T tởng yêu nớc Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nớc
truyền thống Việt Nam, Ngời đã khắc phục, vợt qua những hạn chế của
truyền thống đó. Ngời không gạt bỏ hai chữ "trung hiếu" đã ăn sâu bám rễ
trong con ngời Việt Nam với ý nghĩa là trách nhiệm, bổn phận của ngời dân,
ngời con. Ngời đa vào khái niệm này nội dung mới, cách mạng: "Trung"
trong quan niệm đạo đức của Nho giáo, để chỉ mối quan hệ giữa dân với vua,
trong đó vua có quyền đặt ra mọi phép tắc, luật lệ trong xã hội, buộc con ng-
ời phải tuân theo, phục tùng tuyệt đối, cho nên chữ "trung" trong quan niệm
đó trở thành "cuồng si", "ngu tín", thực chất đó là sự phản ánh quy định chế
độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội phong kiến một cách mù quáng, nhằm
bảo vệ địa vị và lợi ích độc tôn cho một bộ phận thuộc về tầng lớp cai trị, bóc
lột trong xã hội mà đứng đầu là vua. Hồ Chí Minh đặt vấn đề "trung" trong
6
một quan niệm tích cực, tiến bộ trung là trung với nớc, đó không chỉ là
hy sinh cho đến chết, mà quan trọng hơn là phải đạt cho đợc kết quả, phải
nhất định thành công. Ngời không chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của
nhân dân bị áp bức với kẻ thống trị bóc lột mình, mà phải có trách nhiệm với

sự nghiệp dựng nớc và giữ nớc của dân tộc, thể hiện lòng trung thành của
công dân với mục tiêu, phơng hớng phát triển của đất nớc, phấn đấu hết
mình cho sự nghiệp giải phóng và phồn vinh của dân tộc. Với ý nghĩa đó,
"trung với nớc" trở thành bổn phận chung của mọi công dân, không phân
biệt bất kỳ một ai, không nh dới chế độ phong kiến trớc đây. Đó mới thực sự
là yêu nớc.
Ngời nói: " Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nớc. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lớt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nớc và lũ cớp nớc"[15; tr.171]. Hồ Chí Minh xem tinh thần yêu nớc nh
một thứ của quý và vì là thứ của quý nên bổn phận của Đảng là phải ra sức
giải thích, tuyên truyền, giáo dục, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu n ớc của
tất cả mọi ngời đều đợc thực hiện trong công việc yêu nớc, công việc
kháng chiến.
Hồ Chí Minh coi tinh thần yêu nớc là một trong những sức mạnh to
lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân. Từ năm 1924, trong "Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam
Kỳ"[10; tr.464] gửi Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh đã đề cập tới chủ nghĩa
dân tộc và coi đó là "động lực lớn của đất nớc". Đến tận cuối đời, trớc lúc
vĩnh biệt chúng ta, trong "Di chúc" Bác vẫn nói đến con ngời yêu nớc Việt
Nam với một thái độ hết sức trân trọng thông qua việc biểu dơng tinh thần
"Anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù của nhân dân lao động ".
"Di chúc" của chủ tịch Hồ Chí Minh là những dòng cuối cùng kết
tinh bản sắc văn hoá Việt Nam đậm đà chủ nghĩa yêu nớc, chủ nghĩa xã hội
mà t tởng "không có gì quý hơn độc lập, tự do" là hạt ngọc lung linh toả
sáng của tinh thần yêu nớc đợc Hồ Chí Minh nêu lên nh một chân lý, một
động lực, ngọn cờ quy tụ cả dân tộc đứng lên chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.
7
Chính vì truyền thống yêu nớc của dân tộc ta mà Ngời mới đủ tự tin để

khẳng định kháng chiến nhất định thắng lợi và ta nhất định sẽ xây dựng
thành công CNXH.
Nh vậy, truyền thống yêu nớc trở thành niềm tin, niềm tự hào cao cả
khi Ngời đề cập đến dân tộc mình bởi cũng nh Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ
Chí Minh đều là những nhà cách mạng chân chính cho nên họ nhất quán
nhấn mạnh và đề cao văn hoá dân tộc, mà đối với Hồ Chí Minh thì truyền
thống yêu nớc là cốt lõi của văn hoá Việt Nam. Ngời thờng nói rằng chúng
ta chiến thắng đế quốc là sự chiến thắng của văn minh đối với bạo tàn, văn
minh ở đây đồng nghĩa với văn hoá mà hạt nhân là con ngời yêu nớc. Chính
vì thế mà Bác có cơ sở để tự hào: "Nớc ta sẽ có vinh dự lớn là một nớc nhỏ
mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ và đã góp phần
xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc."[21; tr.511]
Từ lòng tự tin, tự hào về truyền thống yêu nớc, Ngời đã đi đến ý thức
làm chủ, tinh thần tự tôn, tự cờng dân tộc, ý chí bất khuất vơn lên trong mọi
hoàn cảnh của dân tộc:
"Kể năm hơn bốn ngàn năm
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà."
Hay:
N ớc ta nhiều kẻ tôi trung.
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sơng [12; tr.227]
Nớc Việt Nam là của ngời Việt Nam, sông có thể cạn, đá có thể
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi
Đây là sự tiếp nối ý thức tự tôn, tự cờng dân tộc từ trong quá khứ:
"Nh nớc Đại Việt ta từ trớc
Vốn xng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc - Nam cũng khác."
(Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi).
Từ những thành tựu văn hoá nổi bật, tỏ rõ bản lĩnh kiên cờng, bất
khuất của một dân tộc độc lập đã dần dần hình thành nền văn hiến Việt

8
Nam. Chính vì vậy, tuy sống bên cạnh hai nền văn minh lớn là Trung Quốc
và ấn Độ, nhng Việt Nam vẫn đợc xem là một nền văn minh riêng trong hệ
thống gồm 34 nền văn minh của nhân loại. [4; tr.191]
Theo Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nớc của nhân dân Việt Nam đợc
biểu hiện sáng ngời và thờng xuyên ở ý chí bất khuất, tinh thần tự tôn, tự c-
ờng, đoàn kết dân tộc. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì dù kẻ địch từ đâu
đến, binh hùng tớng mạnh đến đâu, cuối cùng cũng thất bại: "Lịch sử ta đã
có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nớc của dân ta.
Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trng,
Bà Triệu, Trần Hng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung [15; tr.171]. Tấm gơng
đấu tranh bất khuất, oanh liệt của tổ tiên đã để lại cho chúng ta nhiều bài học
quý báu, do đó: "Dân ta phải biết sử ta. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ
vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều ngời tài giỏi
đánh Bắc dẹp Nam yên dân trị nớc tiếng để muôn đời. Trớc khi vua Gia
Long bán nớc ta cho Tây, nớc ta vẫn là nớc độc lập. Đời nào cũng có ngời
anh hùng mu cao võ giỏi đứng ra đoàn kết nhân dân đuổi giặc cứu nớc"[12;
tr.216]. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần tự tôn, tự lực và tự cờng của dân tộc
ta để khích lệ đồng bào chiến sĩ cả nớc "mang sức ta mà tự giải phóng cho
ta", "thà hy sinh tất cả, chứ không chịu mất nớc, nhất định không chịu làm
nô lệ". Tinh thần đó cũng phải đợc thể hiện ở công cuộc xây dựng đất nớc
"đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm ngời kêu
gọi toàn dân tham gia phong trào, thi đua yêu nớc với khẩu hiệu: "thi đua là
yêu nớc, yêu nớc phải thi đua".
Trong rất nhiều bài viết, bài nói của mình, bằng nhiều số liệu, tài liệu
lịch sử chính xác, đợc trình bày dới dạng văn vần hay văn xuôi giản dị, xúc
tích, dễ hiểu, có sức truyền cảm, Ngời đã lồng vào đó truyền thống lịch sử,
văn hiến để giải thích, giáo dục lòng yêu nớc, ý thức làm chủ, tinh thần tự
tôn, tự cờng dân tộc và ý chí phấn đấu vơn lên trong mọi hoàn cảnh cho nhân
dân. Và Ngời đã sử dụng con ngời yêu nớc với những phẩm chất nêu trên nh

9
những vũ khí sắc bén không chỉ trong sự nghiệp cứu nớc, trong việc xây
dựng đạo đức cách mạng để phân định thiện - ác, đúng - sai, tốt - xấu mà
cả trong công việc xây dựng nớc mạnh, dân giàu và nền văn hoá mới Việt
Nam.
1.2. ý thức cộng đồng, tinh thần tập thể, đoàn kết vì lợi ích chung.
Ngời Việt Nam coi làng là quê hơng gốc, tại đấy họ đã ra đời, sinh
sống và qua đời. Nếu phải rời quê hơng đi làm ăn nơi đất khách quê ngời thì
họ vẫn luôn nghĩ và giữ quan hệ chặt chẽ với làng mình. Giữa các làng trong
vùng có mối quan hệ với nhau, đồng thời cũng có tính độc lập tơng đối
Điều đó đã tạo nên ý thức tập thể, chung sức, chung lòng lo lắng những việc
lớn vừa có tính địa phơng, vừa có tính quốc gia Điều này xuất phát từ cơ sở
kinh tế mà Hồ Chí Minh đã miêu tả sinh động: "Về của cải t hữu, luật pháp
An Nam cấm mua bán toàn bộ đất đai. Hơn nữa cứ một phần t đất trồng
trọt bắt buộc phải để làm của chung. Cứ ba năm ngời ta chia lại ruộng đất
đó. Mỗi ngời dân trong xã thôn đợc nhận một phần. Điều đó không hề ngăn
cản một số ngời trở nên giàu có nhng nó có thể cứu nhiều ngời khác thoát
khỏi bần cùng"[10; tr.36].
Nớc ta lại là một nớc bị khá nhiều thiên tai, địch hoạ: bão lụt, hạn hán
thờng xuyên xảy ra và kéo dài; luôn bị đe doạ bởi giặc ngoại xâm. Trong
cuộc đấu tranh với thiên nhiên và đơng đầu với những kẻ thù mạnh hơn mình
nhiều lần, dân tộc ta đã sớm cố kết thành một khối vững chắc, sớm hình
thành tình cảm tự nhiên "ngời trong một nớc phải thơng nhau cùng". "Ngời
trong một nớc" ở đây đợc xây dựng trên trục quan hệ: gia đình (nhà) - làng -
nớc là trụ cột làm nên sức sống của dân tộc, kết tinh những giá trị t tởng và
tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng vững bền.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
luôn gắn bó với dân tộc, cùng với nhân dân chia sẻ tất cả những ngọt bùi,
đắng cay, những nỗi gian khổ và vinh quang. Ngời đã sáng lập, rèn luyện
Đảng cộng sản Việt Nam và cùng toàn Đảng lãnh đạo, động viên nhân dân

đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc
10
và làm nên mọi thắng lợi. Ngời cũng nhiều lần đề cập đến tính cộng đồng dù
cách diễn đạt có khác nhau, nhng đều thể hiện sâu sắc, trọn vẹn tình cảm
cộng đồng của dân tộc, Ngời viết: "Do nhiều ngời nhóm lại thành làng, do
nhiều làng nhóm lại thành nớc Ng ời là gốc của làng nớc". Ngay từ năm
1947, trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lợc
Hồ Chí Minh đã nói đến "đời sống mới" của một ngời, một nhà, một làng
và khắp nớc, trong trờng học và khắp các công sở, xởng máy Ng ời thờng
nhắc đến câu tục ngữ "lá lành đùm lá rách , đói cho sạch, rách cho
thơm" , nếu một mình no ấm mà nỡ để đồng bào xung quanh đói rét, đến
khi giặc cớp lung tung, thì dù giàu cũng không hởng đợc
Từ thực tế lịch sử dựng nớc và giữ nớc của dân tộc, Hồ Chí Minh đã
rút ra kết luận: "Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết
muôn ngời nh một thì nớc ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nớc ngoài xâm lấn"[12; tr.217], đây còn xuất phát từ những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về "cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng", "nhân dân là ngời sáng tạo ra lịch sử và t tởng chiến lợc",
vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại" Kết thúc cuốn
"Lịch sử nớc ta", Hồ Chí Minh đúc kết:
"Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!"
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết không phải là vấn đề sách lợc trớc mắt mà
là vấn đề chiến lợc lâu dài, nó không phải là một biện pháp đơn thuần để tập
hợp lực lợng trong đấu tranh cách mạng mà đợc nâng lên thành vấn đề có
tính chất đờng lối, nó không phải là thủ đoạn để tranh thủ quần chúng mà là
tâm huyết và thắng lợi của cách mạng. Với Hồ Chí Minh thì "đại đoàn kết đ-
ợc xây trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của
ngời trong một nớc phải thơng nhau cùng"[32; tr.34]. Đoàn kết gắn liền chặt
chẽ và là hệ quả của sự thành công của sự nghiệp cách mạng:

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
11
Thành công, thành công, đại thành công".
Từ khi đã tìm thấy con đờng giải phóng theo quỹ đạo cách mạng vô
sản và lý luận đoàn kết nhằm tập hợp lực lợng toàn dân tộc và nhân dân thế
giới để đạt mục tiêu, lý tởng đã chọn thì suốt cả cuộc đời Hồ Chí Minh phấn
đấu không mệt mỏi cho việc xây dựng khối đại đoàn kết đó. Ngời biết rõ hơn
ai hết: không có thứ vũ khí nào khác có đủ sức mạnh vô địch để chiến thắng
kẻ thù ngoài sự đoàn kết của giai cấp, của dân tộc, các tôn giáo; đoàn kết
toàn dân tộc Việt Nam; đoàn kết với giai cấp công nhân và nhân dân lao
động chính quốc; đoàn kết quốc tế
Một vấn đề có tính nguyên tắc trong t tởng Hồ Chí Minh về xây dựng
và mở rộng khối đoàn kết toàn dân là phát huy những yếu tố tơng đồng,
dùng cái tơng đồng để loại bỏ sự dị biệt, cố gắng tìm ra mẫu số chung cho
toàn dân tộc. Cơ sở tạo thành sự tơng đồng, nhất trí đó trong các giai đoạn
lịch sử khác nhau xuất phát từ những nhu cầu, lợi ích chung không giống
nhau. Trớc khi cách mạng tháng Tám nổ ra, lợi ích chung nhất của cả cộng
đồng dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh nêu rõ: "Trong lúc
này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết
lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nớc sôi
lửa nóng"[12; tr.198]. Trong những ngày đầu tiên sau cách mạng tháng Tám
thành công, chúng ta phải đối phó với "thù trong giặc ngoài" nhằm giữ vững
chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều chủ trơng, biện pháp
nêu cao chữ "đồng" nhằm đoàn kết dân tộc, thu phục nhân tài, sử dụng nhân
sĩ, trí thức phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Đến khi đất nớc tạm thời chia
làm hai miền, nhiệm vụ chính trị số một và cũng là mong ớc chung của mọi
ngời Việt Nam yêu nớc là đất nớc đợi hoà bình, thống nhất, độc lập, Hồ Chí
Minh viết: "Từ Nam đến Bắc, ai là ngời tán thành hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ, thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác với họ,
dù từ trớc tới nay họ đã theo phe phái nào"[17; tr.49].

12
Ngời coi đoàn kết là lẽ sống của dân tộc ta trong sự nghiệp dựng nớc
và giữ nớc, là sức mạnh vô địch của Đảng, của dân tộc ta hiện nay và mai
sau. T tởng đại đoàn kết của Ngời thể hiện tính cộng đồng dân tộc, tinh thần
nhân ái, lòng khoan dung cao cả và độ lợng to lớn với sự quý trọng từng nhân
cách, vì đại nghĩa để tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân:
"Hãy yêu thơng nhau, cùng nhau ta đoàn kết
Hãy lắng nghe câu hát từ đáy lòng tôi.
Kẻ không đoàn kết cũng nh chim lạc đàn
Chóng hoặc chày rồi sẽ trúng tên
Vì đơn độc sẽ làm mồi cho hiểm hoạ
Từ kết đoàn hạnh phúc sẽ sinh sôi "
(Quảng Châu, ngày 23.8.1925)[11; tr.440]
Ngời xem đoàn kết là một trong những đức tính hàng đầu của ngời
cách mạng. Ai không có khả năng tập hợp, đoàn kết quần chúng và các
đồng chí của mình thì không thể làm cách mạng. Sự đoàn kết trong Đảng
là cơ sở, là hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc: "Từ Trung ơng đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng nh giữ gìn con
ngơi của mắt mình" [21; tr.497].
Với vịêc nêu cao chữ "đồng" Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh việc loại
bỏ mọi thành kiến, mặc cảm đối với các tầng lớp trung gian, khơi gợi, cổ
vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nớc, chân thành hợp tác và trọng dụng.
Ngay cả trong việc xử lý những quan hệ hàng ngày, Hồ Chí Minh cũng
luôn nhắc nhở cán bộ phải tìm ra những cái chung, cái đồng nhất giữa các
cá nhân để cố kết họ lại vì lợi ích đại cục: "Năm ngón tay cũng có ngón
vắn ngón dài. Nhng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy
triệu ngời cũng có ngời thế này thế khác, nhng thế này hay thế khác đều
dòng dõi tổ tiên ta"[13; tr.246].
13
Xuất phát từ nhận thức cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới có

mối quan hệ thống nhất biện chứng, Hồ Chí Minh cho rằng việc kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một tất yếu, tạo ra sức mạnh cho cách
mạng Việt Nam giành thắng lợi và cũng tạo cho Việt Nam góp phần xứng
đáng vào tiến trình phát triển của nhân loại. Ngời luôn đặt cách mạng Việt
Nam trong tình hình nhiệm vụ chung của cách mạng thế giới và nhấn mạnh
đến tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong xây dựng lực lợng của mình, tạo
thế và lực cho cách mạng.
Song trong khi nhấn mạnh chữ "đồng", Hồ Chí Minh cũng không
xem nhẹ việc loại trừ sự khác biệt và đối lập, Ngời viết: "Đảng ta luôn
luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hớng cô độc, hẹp hòi, coi
nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lợng có thể tranh thủ đợc; đồng thời
chống khuynh hớng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu
tranh"[19; tr.18].
Liên quan đến tầm cao t tởng đoàn kết của Hồ Chí Minh, chúng ta có
thể thấy cả yếu tố nhân cách của Ngời. Những đức tính của một nhân cách
lớn có khả năng thuyết phục hơn mọi lời thuyết phục đối với mọi tầng lớp
nhân dân đi theo Ngời. Không loại trừ một ai, dù đó là chính khách nh Mu-
tê, Xanh-tơ-ny; là các tớng lĩnh nh đô đốc Đác-giăng-liơ của Pháp, L Hán,
Tiêu Văn của Tởng Giới Thạch; là các nhà báo: Philip-De-Vinle, Bớc-Set,
các nhà t bản kếch xù, hay là những ngời cầm đầu các tôn giáo, các đảng
phái, các hoàng tộc trong và ngoài nớc Khi tiếp xúc với họ, Hồ Chí Minh
đều chiếm đợc thiện cảm, thuyết phục và tranh thủ họ có lợi cho cách mạng
nớc ta.
1.3. Yêu thơng quý trọng con ngời, sống có tình nghĩa, có lòng
khoan dung độ lợng, vị tha cao cả.
14
Lòng yêu thơng quý trọng con ngời không phải chỉ là lý tởng cao đẹp,
một chuẩn mực trong tu dỡng, rèn luyện của các tầng lớp nhân dân ta từ xa
đến nay, mà nó đợc đúc rút từ chính cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian
khổ, khó khăn và thử thách của Hồ Chí Minh. Ngay từ hồi còn nhỏ ở quê

nhà rồi theo cha vào Nam ra Bắc, trên hành trình ấy Ngời trực tiếp chứng
kiến bao cảnh đau lòng của ngời dân: cảnh bị áp bức, bóc lột, lầm than cơ
cực của những ngời dân lao động mất nớc, su cao thuế nặng chất đầy trên vai
họ Vì yêu th ơng nhân dân đã giúp cho Ngời có đủ can đảm hoà mình vào
cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở Huế (năm 1908), rồi 3 năm sau đó, Ngời
quyết chí tạm xa tổ quốc, đi ra nớc ngoài để tìm đờng cứu dân, cứu nớc với
hai bàn tay trắng và nghị lực phi thờng "để xem họ làm thế nào rồi trở về
giúp đồng bào mình". Bác đã dành trọn tình cảm của mình cho đồng bào:
"Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và
hạnh phúc của nhân dân , bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi
một mục đích làm cho ích quốc lợi dân " [13; tr.240].
Lòng yêu thơng, quý trọng con ngời ở Hồ Chí Minh không chỉ đơn
thuần là chữ "hiếu" một chiều của con cái đối với cha mẹ mình mà mang nội
dung mới, sâu sắc, toàn diện. Trớc hết, đó là tình thơng yêu dành cho nhân
dân lao động, cho những ngời cùng khổ bị đoạ đày áp bức, từ tình yêu thơng
đồng bào mình, dân tộc mình, Ngời mở rộng lòng yêu thơng đó ra phạm vi
thế giới. Nhng đó không phải là lòng thơng ngời phi giai cấp, Ngời đứng trên
lập trờng giai cấp vô sản để phân biệt rạch ròi giữa một bên là đế quốc thực
dân và bên kia là nhân dân lao động bị bóc lột áp bức nặng nề: "Dù màu da
có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống ngời: Giống ngời bóc lột và
giống ngời bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái thật thà mà thôi:
Tình hữu ái vô sản."[10; tr.266]
Không phải là sự ban phát, thơng hại của "bề trên" nhìn xuống, cũng
không phải là lòng trắc ẩn của ngời đứng ngoài trông vào, mà lòng thơng ng-
ời trong t tởng Hồ Chí Minh là sự đồng cảm của ngời cùng cảnh ngộ. Những
khổ đau của đồng bào chính là nỗi đau khổ mà bản thân Ngời, gia đình Ngời
15
đã phải trải qua. Tình thơng của Ngời trớc hết dành cho những mất mát quá
lớn mà gia đình đã trải qua, những ngời dân xứ Nghệ phải chịu bao nỗi khổ
của nghèo đói, bất công do chế độ thực dân phong kiến đem lại. Ngời đau

xót trớc cảnh khổ sở của những ngời nông dân chống thuế (mà Ngời cũng
tham gia) ở Thừa Thiên bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Là ngời dân của
một nớc nô lệ, nhận thức sâu sắc sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân,
trái tim Ngời đã đập cùng nhịp với đồng bào mình, cùng khát vọng cháy
bỏng dân tộc đợc giải phóng. Đến khi ra nớc ngoài, trong hành trình tìm đ-
ờng cứu nớc, tận mắt chứng kiến nỗi đau khổ của những ngời lao động ở
khắp nơi trên thế giới, đó là cảnh những ngời công nhân ở các nớc t bản trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất nhng sống trong nghèo đói, thiếu thốn, bệnh
tật; đó là cảnh những ngời dân các nớc thuộc địa ở châu á, châu Phi bị đoạ
đày dới chế độ thực dân tàn bạo, đã bao lần Ngời rơi lệ khi chứng kiến trẻ
em đói rét, những ngời da đen bị chết một cách oan ức; đã bao lần Ngời đau
xót trớc cảnh sống lam lũ của những ngời lao động trong xóm nghèo khu
Hác-Lem (Mỹ), Epinet (Pari - Pháp) lòng yêu th ơng con ngời của Hồ Chí
Minh đã vợt ra ngoài giới hạn chủng tộc, màu da, lãnh thổ:
"Lọ là thân thích ruột rà,
Công nông thế giới đều là anh em."[20; tr.253]
Tình yêu thơng con ngời của Bác đã đợc nhà thơ Tố Hữu ca ngợi:
"Ôi lòng Bác vậy cứ thơng ta
Thơng cuộc đời chung, thơng cỏ hoa.

Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già".
Xuất phát từ lòng thơng ngời cho nên trong suốt cuộc đời, Ngời đặc
biệt coi trọng vấn đề con ngời, luôn quý trọng con ngời, kính trọng và tin t-
ởng ở nhân dân: "Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta[13; tr.57]. Từ lòng nhân ái Hồ Chí Minh đã định nghĩa về nhân dân độc
16
đáo: "Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân
dân[17; tr.267].
Nh vậy, trong t tởng Hồ Chí Minh "thơng ngời" nhiều lúc gắn liền với

"vì nghĩa- đây là nét tiêu biểu của bản sắc văn hoá dân tộc. Giáo dục truyền
thống dân tộc cho thanh niên, nhân dân, cán bộ, đảng viên Ng ời thờng nhấn
mạnh: Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa. Và tình nghĩa ấy
đã đợc Ngời cùng với Đảng nâng lên "cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng
bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà"[21; tr.554]. Chính vì
vậy, khi tuyên truyền và giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin - đỉnh cao văn hoá và
trí tuệ nhân loại, Ngời đã nhấn mạnh "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải
sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có
tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin đợc"[21; tr.55]. Chữ
"nghĩa" trong phong tục đạo đức văn hoá Việt Nam, với ý nghĩa là điều phải, lẽ
phải, ngay thẳng, sống có nghĩa có tình, thuỷ chung son sắt đã trở thành
nguồn sức mạnh, là tiêu chí để ngời phân định điều lợi - điều hại, thiện - ác, bạn
- thù Ng ời thờng giáo dục cán bộ thấy việc phải làm thì làm, thấy việc phải
nói thì nói. Cũng nh Nguyễn Trãi "Phàm mu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm
gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu".
Lòng nhân ái Hồ Chí Minh còn bao hàm sự khoan dung độ lợng, vị
tha cao cả. Đây nguyên là những khái niệm đạo đức xuất phát từ lòng nhân
ái, nó đòi hỏi sự đối xử nhân từ, độ lợng với ngời khác, sẵn sàng bỏ qua
những lỗi lầm mà vẫn tôn trọng nhân cách của họ. Khoan dung, độ lợng, vị
tha là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta đợc Hồ Chí Minh tiếp nhận
và nâng lên ở tầm cao mới.
Trong tác phẩm "Đờng cách mệnh" (1927), Hồ Chí Minh viết "Với
từng ngời thì khoan thứ. GS.Trần Văn Giàu dẫn lời một học giả nớc ngoài
trong Hội thảo quốc tế về Hồ Chí Minh năm 1990: "Cụ Hồ là một ngời xây
dựng lơng tri, xây dựng nó khi nó thiếu, tái tạo khi nó mất. Cụ thức tỉnh kẻ
mê, ân cần để dạy ngời trợt ngã, biến vạn ức ngời dân bình thờng thành anh
17
hùng vô danh và hữu danh trong lao động, trên chiến trờng, trong ngục tối,
trớc máy chém".
Lòng khoan dung độ lợng của Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống

"ngời trong một nớc phải thơng nhau cùng", tất cả đều là dân nớc Việt, con
lạc cháu Hồng, mỗi ngời đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng, ta phải biết
làm sao cho phần tốt nảy nở nh hoa mùa xuân; dân tộc ta là một dân tộc giàu
lòng bác ái tất cả kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo Mácxít tạo thành văn
hoá khoan dung, độ lợng cao cả, sâu sắc ở Hồ Chí Minh: luôn có thái độ tôn
trọng, cách nhìn rộng lợng với những giá trị khác biệt với mình; chống lại
mọi thái độ kỳ thị, giáo điều, áp đặt quan điểm, ý kiến của mình lên ngời
khác; không phải là sự hạ cố kiểu bề trên, cũng không phải sự nhợng bộ thoả
hiệp của kẻ yếu, thoả hiệp với tội ác và bất công xã hội
Xuất phát từ lòng khoan dung độ lợng, lòng thơng yêu con ngời mênh
mông, sâu xa, không biên giới, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá
của con ngời, tin rằng họ đều có thể vơn tới cái tốt đẹp, cái lơng thiện Hồ
Chí Minh đã nêu gơng sáng cho tất cả mọi ngời về đức vị tha: nhìn con ngời,
bao giờ Hồ Chí Minh cũng nhìn vào mặt u điểm, Ngời quan niệm thợ mộc
khéo tay thì sử dụng đợc tất cả các bộ phận của cây gỗ, phần nào việc ấy.
Nếu trên thế giới, ở những nớc tồn tại chế độ quân chủ, khi cách mạng thắng
lợi thì vua bị xử tử hoặc ít ra cũng bị cầm tù, còn ở ta với Hồ Chí Minh thì
sau khi cách mạng tháng Tám thành công, vua nhà Nguyễn - Bảo Đại không
những không bị tù, không bị giết mà còn đợc mời làm cố vấn tối cao cho
chính phủ cách mạng, cả hoàng tộc cũng đợc an toàn, lăng tẩm triều Nguyễn
và các nơi thờ tự trong hoàng cung còn đợc cách mạng gìn giữ, trông nom
Gửi th cho các ngụy binh, Hồ Chí Minh viết: "Các ngời cũng là máu đỏ da
vàng Tuy các ng ời đã phạm tội nặng là cầm súng chống lại Tổ quốc, song
Chính phủ kháng chiến độ lợng khoan hồng, thơng hại các ngời nh những
đứa con lầm đờng, cho nên nặng về giáo dục, nhẹ tay xử phạt, để dìu dắt
các ngời bỏ đờng tà, theo đờng chính[15; tr.305]". Ngời kêu gọi: "Tôi
18
tha thiết kêu gọi các ngời mau mau quay về với Tổ quốc, các ngời sẽ đợc
đối đãi tử tế".
"Nhiễu điều phủ lấy giá gơng

Con Hồng cháu Lạc phải thơng nhau cùng"[15; tr.333]
Lòng nhân ái bao la, lòng khoan dung độ lợng, vị tha cao cả, trọng
tình nghĩa, lòng tin mãnh liệt ở bản tính con ngời là nhân cách cao đẹp của
Hồ Chí Minh mà không phải lãnh tụ nào cũng hội đủ. Chính điều đó đã cổ
vũ, nâng đỡ con ngời bỏ thói h tật xấu, sửa chữa lỗi lầm, hớng thiện, phục
thiện, tranh thủ mọi lực lợng với mục đích đoàn kết toàn dân, quy tụ bạn bè
trong một thế giới hoà bình, nhân ái. Chính vì thế Ngời đợc cả nhân loại
phong tặng danh hiệu "danh nhân văn hoá thế giới". Ngay cả những ngời Mỹ
cũng phải thốt lên: "Nếu chủ nghĩa cộng sản nh chủ nghĩa cộng sản Hồ Chí
Minh thì cũng chấp nhận đợc" (Hội thảo Quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh).
1.4. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô t, giản dị, khiêm tốn, cởi
mở, chân thành.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô t vốn là những khái niệm của Nho
giáo phong kiến khi nói đến đạo đức, t cách của ngời quân tử. Tuy nhiên, khi
du nhập vào nớc ta những khái niệm đó đợc Việt hoá và trở thành một bộ
phận của đạo đức truyền thống dân tộc. Dới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, xuất phát từ nhu cầu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chế
độ mới, Hồ Chí Minh đã cải biên, làm phong phú và sâu sắc thêm bằng cách
tiếp cận mới, mang ý nghĩa mới, tiến bộ và cách mạng. Đây là những phẩm
chất đạo đức gắn liền và cụ thể hoá phẩm chất "trung với nớc, hiếu với dân",
nó lấy chính bản thân mỗi ngời làm đối tợng điều chỉnh, nó diễn ra hàng ngày,
hàng giờ trong công tác cũng nh trong sinh hoạt.
Mặc dù bận trăm công ngàn việc song Hồ Chí Minh vẫn dành nhiều
thời gian viết sách, báo để giải thích, tuyên truyền, giáo dục và kêu gọi mọi
ngời thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô t. Ngay từ những năm 20
của thế kỷ trớc trong tác phẩm "Đờng cách mệnh" (1927) dùng để đào tạo,
19
huấn luyện cán bộ, Hồ Chí Minh đã đa yêu cầu về t cách ngời cách mạng lên
hàng dầu, trong đó có yêu cầu tự mình phải "cần, kiệm, vị công vong t". Đến

khi vừa giành đợc chính quyền, ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ (3/9/1945), Hồ Chí Minh đã "đề nghị mở một chiến dịch giáo dục
lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính". Tháng 6
năm 1946 với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Cần,
Kiệm, Liêm, Chính". Sau đó Ngời thờng xuyên đề cập vấn đề này. Cho đến
trớc lúc đi xa, trong "Di chúc" Ngời vẫn còn căn dặn "Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô t ".
Theo Ngời, "Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai ,
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không lãng phí thì giờ, của
cải của mình và của nhân dân , Liêm là trong sạch, không tham lam, tham
tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất
liêm . Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
không thẳng thắn, đứng đắn tức là tà"[14; tr.643]. Ngời còn chỉ ra mối quan
hệ giữa bốn điều đó: "Cần, Kiệm, Kiêm là gốc rễ của Chính. Nhng một cây
cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một ngời
phải cần, kiệm, liêm, nhng còn cần phải chính mới là hoàn toàn . Ngời nói:
"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phơng: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Ngời có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành Trời.
Thiếu một phơng, thì không thành Đất.
Thiếu một đức, thì không thành Ngời"[14; tr.631].
Đối với cán bộ, đảng viên thì bốn đức trên đặc biệt cần thiết vì
"Những ngời trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không
giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt
của dân". Đó là thớc đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc: "Một dân tộc
20
biết cần, kiệm, liêm , chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ". Căn cứ vào yêu cầu thực tiễn cách

mạng và đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực công tác, các khái niệm
cần, kiệm, liêm, chính luôn đợc Hồ Chí Minh sử dụng đúng nơi, đúng lúc,
phù hợp với từng đối tợng.
Còn chí công vô t theo Hồ Chí Minh là không nghĩ đến mình trớc,
không quản đến riêng t của mình, hết lòng vì sự nghiệp chung của xã hội,
ham làm những việc ích quốc lợi dân, không ham địa vị và công danh phú
quý, công minh chính trực, công bằng, công tâm không thiên t, thiên vị, chí
công vô t thì lòng dạ mới trong trẻo, đầu óc mới sáng suốt. Chí công vô t là
nêu cao chủ nghĩa tập thể, từ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Nêu cao t tởng chí công
vô t, Ngời coi chủ nghĩa cá nhân là một trong ba kẻ địch nguy hiểm và hung
ác, nó dẫn đến hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm: kiêu ngạo, công thần, tự cao
tự đại, quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô lãng phí, tham danh
trục lợi, thích địa vị quyền hành, độc đoán chuyên quyền, dẫn đến mất đoàn
kết, không chấp hành đúng chính sách của Đảng và của Nhà nớc, làm hại
đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Hồ Chí Minh ca ngợi những cán
bộ, đảng viên "anh dũng, gơng mẫu, gian khổ đi trớc, hởng thụ đi sau". Ngời
kêu gọi "mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng,
của nhân dân lên trên hết, trớc hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nâng cao đạo đức cách mạng" [21; tr.439]. Chủ nghĩa cá nhân là một
trở lực lớn cho việc xây dựng CNXH, cho nên thắng lợi của CNXH không
thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh từ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Có nhiều
ngời cho rằng chí công vô t ngày nay không còn phù hợp nữa, tại sao lại chỉ
nhấn mạnh lợi ích cộng đồng, "giày xéo lên lợi ích cá nhân"? Sự ngộ nhận
này là do hiểu sai về khái niệm "công" và "t". Hồ Chí Minh khẳng định:
"Chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi ngời mới có điều kiện để cải
thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trờng riêng
của mình ".[18; tr.291]
21
Nh vậy, trong t tởng đạo đức Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô t là những đức tính không thể thiếu đợc của mỗi ngời, mỗi gia đình,

mỗi tập thể, mỗi cơ quan, địa phơng cũng nh của cả dân tộc. Đó là nền tảng
tinh thần của một xã hội mới, là đặc điểm của một xã hội hng thịnh, đi lên.
Còn trái lại, để cho các bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí hoành hành, xã hội
sẽ đứng trớc nguy cơ mục nát, suy vong.
Nh là kết quả tất yếu và gắn liền với cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô t, khiêm tốn, giản dị, cởi mở chân thành là những nét tính cách theo Bác
suốt đời, từ khi còn là một ngời dân nô lệ, đến khi làm Chủ tịch nớc. Ngời
yêu cầu những ngời cách mạng phải ít lòng tham muốn về vật chất phải tránh
xa hoa, lãng phí, phải biết khiêm tốn, giản dị bởi vì: Cách mạng là một sự
nghiệp gian khổ, đất nớc còn nghèo, lại trải qua bao nhiêu năm chiến tranh.
Nếu đua về sự xa hoa với ngời thì bao giờ ta cũng thua, nhng nếu đua về sự
cần, kiệm thì ta nhất định thắng.
Có rất nhiều câu chuyện về đức khiêm tốn, giản dị, cởi mở chân thành
của Bác trong sinh hoạt đời thờng cả trong những hoạt động cách mạng.
Trong suốt cả chặng đờng kháng chiến gian khổ sống kham khổ, thiếu thốn,
sống cuộc đời chiến sĩ, cơm nắm, ở rừng, chia ngọt sẻ bùi với đồng bào,
chiến sĩ, nhng ngay cả khi về Thủ đô Bác vẫn giữ nếp sống giản đơn, tiết
kiệm. ở cơng vị Chủ tịch nớc, Ngời vẫn sống cuộc đời bình dị, vẫn hoà đồng
với cuộc sống gian nan, vất vả của nhân dân, vẫn bộ quần áo bà ba, bộ ka ki
bạc màu, chân đi dép cao su đợc cắt từ chiếc lốp ô tô quân sự của Pháp tại
Việt Bắc về với ruộng đồng, xởng máy Hàng năm đến dịp sinh nhật Bác,
nhiều đoàn thể cơ quan tập trung đến chúc thọ Bác rất vui, nhng sau Bác bảo
không nên làm ảnh hởng đến thời gian và tiền bạc của tập thể. Vào thăm
nhà sàn của Bác Hồ, nhiều chính khách nớc ngoài đã rút ra đợc một nhận
xét sâu sắc: "Bài học mà chúng ta có thể rút ra của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là ngời ta không thể là nhà cách mạng trong những vịêc lớn mà lại thiếu
sót trong những việc nhỏ" " Hành nan, ngôn dị" là một tổng kết sâu sắc
22
của ngời xa về cái khó trong sự đạt tới sự nhất quán giữa nói và làm, nhất là
giữa nói đạo đức và thực hành đạo đức, nhng nghiên cứu t tởng và cuộc

đời Bác chúng ta thấy có nhiều khi Bác làm nhiều hơn nói hoặc chỉ làm
mà không nói - đây là đức giản dị, khiêm tốn không phải ai cũng đạt đợc.
Ngời căn dặn: "Mỗi cán bộ chính quyền và đoàn thể cần phải:
- Luôn luôn gần gũi nhân dân.
- Ra sức nghe ngóng và hiểu biết nhân dân.
- Học hỏi nhân dân " [15; tr.88]
Hồ Chí Minh lu ý cán bộ, đảng viên tuyệt đối không đợc lên mặt
"quan cách mạng", "ra lệnh, ra oai", phải "khiêm tốn, không đợc kiêu ngạo",
phải lắng nghe, hoan nghênh và tiếp thu ý kiến đóng góp, phê bình của dân,
chủ động sửa chữa những sai lầm khuyết điểm. Chỉ có nh vậy mới đoàn kết,
lãnh đạo đợc nhân dân, mới đợc dân tin, dân phục, dân yêu
Là Chủ tịch nớc nhng không vì thế mà Ngời tỏ ra quan cách, khó gần,
trái lại Ngời lúc nào cũng cởi mở chân thành, điều này khiến cho mọi ngời
tiếp xúc với Bác cảm thấy gần gũi, thân thơng. Là một ngời đã từng có nhiều
thời gian sống với Bác, Phạm Văn Đồng nhận xét: "Thờng thờng, khi con ng-
ời biết mình là một nhân vật quan trọng thì không phải lúc nào cũng hồn
nhiên chân thật. Hồ Chí Minh không nh vậy. Suốt đời mình, trong việc lớn
cũng nh trong việc nhỏ, Hồ Chí Minh bao giờ cũng chân thực.
Hồ Chí Minh là một con ngời phi thờng và xuất chúng. Tuy nhiên khi
gặp Hồ Chí Minh, mọi ngời cảm thấy nh thân thuộc từ lâu, dễ dàng nói
chuyện cởi mở, tự nhiên không chút nào cách bức. Chính những ngời khách
ngoại quốc rất thích thú nhấn mạnh điểm này. Nét đặc biệt của Hồ Chí
Minh là khiêm tốn, giản dị, sự khiêm tốn giản dị chân thành và hồn nhiên
của con ngời bao giờ cũng là chính mình và chỉ cần là chính mình. Địa vị
càng cao, uy tín càng lớn, Hồ Chí Minh càng khiêm tốn và giản dị.[1; tr19]
1.5. Linh động sáng tạo, ham học hỏi cầu tiến bộ.
23
Điều kiện địa lý, tự nhiên và nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nớc đã
rèn luyện cho con ngời Việt Nam tính cần cù, chịu khó, ham học hỏi cái
mới, cái tiến bộ cả trong và ngoài nớc; đồng thời luôn có những sáng tạo cho

riêng mình trong quá trình sản xuất cũng nh trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Tất cả những điều đó đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Chúng ta đều đã biết t tởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và
phát triển, làm phong phú thêm truyền thống của dân tộc, đặc biệt là chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nớc ta. Cơ sở của sự phát triển
sáng tạo đó nằm ngay trong nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin -
lý luận phải luôn luôn kết hợp với thực tiễn, chính thực tiễn sinh động sẽ bổ
sung, làm phong phú thêm kho tàng lý luận.
Ngời một mặt khẳng định tính chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
mặt khác, trong khi tìm hiểu và vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn xã hội Việt Nam và các nớc phơng Đông, Ngời đã
sớm phát hiện ở phơng Đông có những đặc điểm khác với các nớc phơng
Tây mà thời Mác cha có điều kiện nghiên cứu.
Trong "Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ" gửi Quốc tế
cộng sản năm 1924, Ngời viết: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống nh ở phơng Tây.Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung cơ sở
lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đ a thêm vào đó những t liệu mà
Mác ở thời mình không thể có đợc.
Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của
lịch sử, nhng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó cha phải
là toàn thể nhân loại
Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phơng Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô Viết
đảm nhiệm "[10; tr.465]
Luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và thực tiễn phát triển của thời
đại, với t duy độc lập, tự chủ, linh động, Ngời đã có những luận điểm sáng
tạo nhất là trên những vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, về xây dựng
24
Đảng, xây dựng chế độ dân chủ mới; con đờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
một nớc thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế lạc hậu gắn liền với các nội

dung đó là những sáng tạo của Ngời trong việc xây dựng nền đạo đức mới,
nền văn hoá mới.
Là ngời Mác xít, Nguyễn ái Quốc thừa nhận đấu tranh giai cấp trong
xã hội có giai cấp là một động lực lớn của lịch sử, nhng Ngời không coi đó là
động lực duy nhất. Phân tích cơ cấu kinh tế, sự phân hoá giai cấp xã hội ở
Đông Dơng, Ngời cho rằng muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc phải phát
huy chủ nghĩa yêu nớc và tinh thần dân tộc từ đó Nguyễn ái Quốc đa ra luận
điểm: "chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nớc", lộ trình cách
mạng ở các nớc thuộc địa là đi từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp
và giải phóng con ngời chứ không phải: giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng loài ngời nh con đờng cách mạng vô sản ở Châu Âu. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới đã chứng minh luận điểm này của Hồ
Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.
Sang thế kỷ XX, mặc dù đánh giá cao vai trò của cách mạng thuộc
địa nhng cả Lênin và quốc tế cộng sản vẫn xem thắng lợi của cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở Châu Âu. Nhận
thức sâu sắc hơn ai hết về yêu cầu bức xúc của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, về sức mạnh vĩ đại của chủ nghĩa yêu nớc và tinh thần dân
tộc, Ngời không chấp nhận ỷ lại, trông chờ, mà yêu cầu các dân tộc thuộc
địa cần phải chủ động đứng lên, "đem sức ta mà giải phóng cho ta", cách
mạng thuộc địa "có thể và cần phải tiến hành trớc" và thắng lợi của nó sẽ
"giúp đỡ những ngời anh em mình ở phơng Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn".[10; tr.36]
Trong nhận thức và trên thực tiễn xây dựng CNXH trong thời kỳ quá
độ ở một nớc nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, mặc dù chịu tác
động rất lớn của Liên Xô và Trung Quốc nhng Hồ Chí Minh luôn nhấn
mạnh: Việt Nam tiến hành xây dựng CNXH trong những điều kiện đặc biệt,
25

×