Tải bản đầy đủ (.docx) (166 trang)

Nghiên cứu giá trị của chụp CHT 1,5 tesla trong chẩn đoán ung thư tuyến giáp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.93 MB, 166 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu giáp nhân (BGN) là bệnh lý nội tiết khá thường gặp, tỷ lệ phát
hiện BGN trên LS 4-7%, tỷ lệ phát hiện trên siêu âm (SA) có thể lên tới 1967% [1]. Tỷ lệ mắc cao nhưng < 10% BGN là ác tính.Theo các nghiên cứu
trong nước, tỉ lệ ung thư tuyến giáp (UTTG) tại Hà Nội ở nam giới là 0,9%, ở
nữ là 3% trong tổng số ung thư, tại thành phố Hồ Chí Minh, tỉ lệ trên lần lượt
là 1,1% và 2,1% [2]. Số liệu từ giai đoạn năm 2011 đến 2014 cho thấy tỉ lệ
mắc theo tuổi ở nữ là 8,4/100.000 dân/năm và đứng thứ 6 trong các loại ung
thư tại Việt Nam [3].
Về chẩn đoán BGN nói chung và UTTG nói riêng, ngoài dựa vào triệu
chứng LS của BN là sờ thấy khối vùng tuyến giáp (TG), các hạch di căn vùng
cổ, còn rất nhiều phương pháp chẩn đoán xét nghiệm, hình ảnh và giải phẫu
bệnh (GPB) như: định lượng hóc môn trục yên-giáp, các chất chỉ điểm khối u,
đo độ tập trung I131 tại TG, ghi hình nhấp nháy phóng xạ TG, SA, chụp cắt lớp
vi tính (CLVT), chụp cộng hưởng từ (CHT), chọc hút kim nhỏ (CHKN) làm tế
bào học (TBH): dưới hướng dẫn SA hay không, mô bệnh học (MBH) tức thì
trong mổ, MBH thường quy sau mổ [4]. Các phương pháp chẩn đoán này có
giá trị rất khác nhau: chẩn đoán xác định, chẩn đoán giai đoạn của u theo TNM,
trong đó các phương pháp chẩn đoán hình ảnh, y học hạt nhân thường được chỉ
định với mục đích định hướng bản chất khối u, đánh giá mức độ xâm lấn tại
chỗ của khối u, đánh giá di căn hạch vùng cổ và di căn xa, các phương pháp
TBH, MBH giúp chẩn đoán xác định và định loại TBH UTTG [5-9].
Về điều trị và tiên lượng, UTTG rất phụ thuộc vào loại TBH ung thư,
tiến triển LS và giai đoạn bệnh phát hiện bệnh. Hiện nay điều trị UTTG cơ
bản vẫn dựa trên PT cắt bỏ u, có hay không cắt TG một phần hay toàn bộ, nạo
vét hạch cổ chọn lọc hay hệ thống, sau đó kết hợp điều trị hỗ trợ bằng I 131, xạ


2


trị và điều trị hóc môn, kết hợp theo dõi kéo dài và các điều trị bổ trợ khác
[10],[11]. Như vậy các phương pháp chẩn đoán hình ảnh với khả năng định
hướng bản chất khối BGN lành hay ác tính, đánh giá mức độ xâm lấn tại chỗ
của khối u, đánh giá di căn hạch vùng cổ, có vai trò rất quan trọng giúp các
nhà LS đưa ra các chiến lược điều trị đúng đắn.
Trước đây trong chẩn đoán hình ảnh bệnh nhân (BN) UTTG chỉ được
SA TG, vùng cổ trước điều trị. Tuy nhiên gần đây với sự xuất hiện ngày càng
phổ biến của các máy chụp CHT từ lực cao 1,5Tesla tại nhiều bệnh viện và
trung tâm chẩn đoán hình ảnh ở Việt Nam, với những ưu điểm vượt trội như:
có độ phân giải cao trên các có chuỗi cơ bản như T1W, T2W, T1W xoá mỡ,
T2W xóa mỡ, chuỗi xung khuếch tán đo được giá trị độ khuếch tán biểu kiến
ADC, có khả năng đánh giá được các yếu tố: số lượng, vị trí, kích thước khối
u, định hướng bản chất khối u lành hay ác tính, mức độ xâm lấn tại chỗ và di
căn hạch vùng của ung thư; được kì vọng là phương pháp chẩn đoán hình ảnh
có giá trị cao trong chẩn đoán UTTG.
Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu sinh: “Nghiên cứu giá trị
của chụp CHT 1,5 Tesla trong chẩn đoán ung thư tuyến giáp” với 2 mục
tiêu sau:
1.

Phân tích giá trị của CHT trong chẩn đoán phân biệt bướu giáp
nhân lành tính và ác tính.

2.

Phân tích giá trị của CHT trong đánh giá xâm lấn tại chỗ và di căn
hạch vùng cổ của UTTG.


3


Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu TG và các hạch vùng cổ
1.1.1. Giải phẫu TG
TG là tuyến nội tiết lớn nhất của cơ thể, nằm ở phân vùng cổ trước
trong tam giác cơ, trước khí quản và hai bên thanh quản, ngang mức các đốt
sống cổ 5,6,7 và ngực 1 [12]. Hình thể ngoài dạng chữ H hoặc hình con bướm
với hai thùy được nối với nhau bởi eo tuyến. Trọng lượng TG ở người trưởng
thành khoảng 20 đến 25gr [13], TG ở phụ nữ có trọng lượng lớn hơn ở nam
giới và to hơn ở giai đoạn hành kinh và có thai [14].
TG có mặt trước liên quan với các cơ vùng dưới xương móng, mặt
sau liên quan với bao cảnh gồm động mạch, tĩnh mạch cảnh và dây thần
kinh X, mặt trong liên quan với thanh – khí quản và thực quản, ở sau hai
bên liên quan với dây thần kinh thanh quản quặt ngược.

Hình 1.1. Hình ảnh giải phẫu tuyến giáp nhìn thẳng [12].


4

Hình 1.2. Liên quan giải phẫu động mạch giáp trên và giáp dưới với các
thần kinh thanh quản quặt ngược [12].
TG được bọc trong một bao xơ rất mỏng (do lá trước khí quản của mạc
cổ tạo thành), tách biệt với thực quản và khí quản phía sau. Từ lớp xơ này có
các dải xơ đi vào nhu mô tuyến mang theo mạch máu và thần kinh phân chia
bề mặt TG thành các rãnh nhỏ, nông.
TG là tạng rất giàu mạch, được cấp máu bởi các động mạch giáp trên
và giáp dưới, một số tài liệu còn nêu động mạch giáp giữa dưới (Thyroid ima
artery) như là một biến thể giải phẫu khá thường gặp [15].

Các tĩnh mạch dẫn lưu máu của TG bao gồm tĩnh mạch giáp giữa, giáp
trên và giáp dưới[12],[16]. Tĩnh mạch giáp trên dẫn lưu máu từ nửa trên
tuyến, đi cạnh động mạch giáp trên và đổ vào tĩnh mạch cảnh trong. Tĩnh


5

mạch giáp giữa dẫn lưu máu từ nửa dưới của tuyến, và đổ vào tĩnh mạch
cảnh ngoài. Tĩnh mạch giáp dưới xuất pháp từ bờ dưới tuyến, hoà vào đám
rối trước khí quản trước khi đổ vào tĩnh mạch cánh tay đầu trái. Một số
trường hợp tĩnh mạch này đổ sang thân cánh tay đầu phải hoặc trực tiếp và
tĩnh mạch chủ trên. Trong một số bệnh lý u nội tiết của tuyến cận giáp, có
thể can thiệp chọn lọc các nhánh tĩnh mạch này để lấy được máu có nồng
độ hormon cao, giúp chẩn đoán chính xác tuyến cận giáp nào có u, giúp ích
cho phẫu thuật viên.
1.1.2. Hệ thống bạch huyết và các chuỗi hạch vùng cổ
Các hạch cổ được chia làm 6 nhóm [14]:

Hình 1.3. Phân nhóm hạch cổ theo Gray's anatomy [14].
Nhóm I (dưới hàm, dưới cằm): gồm hai dưới nhóm
Ia: tam giác dưới cằm được giới hạn bởi đường giữa, bụng trước cơ nhị
thân và đường thẳng ngang qua xương móng.
Ib: tam giác dưới hàm được giới hạn bởi thân xương hàm dưới và hai
bụng trước và sau cơ nhị thân.


6

Nhóm II (cảnh cao ): Nhóm này được giới hạn bởi phía trên là nền sọ, phía
dưới là đường thẳng ngang qua xương móng ( vị trí ngang mức chỗ chia đôi

động mạch cảnh chung). Phía sau là bờ sau cơ ức đòn chũm và phía trước là
bờ ngoài cơ ức móng.
Nhóm III (cảnh giữa): Tiếp theo nhóm II, dọc theo máng cảnh. Giới hạn trên
ngang mức xương móng, giới hạn dưới ngang mức chỗ cơ vai móng bắt chéo
tĩnh mạch cảnh trong. Phía trước là bờ ngoài cơ ức móng và phía sau là bờ
sau cơ ức đòn chũm.
Nhóm IV (cảnh dưới): Giới hạn trên ngang mức cơ vai móng bắt chéo tĩnh
mạch cảnh, giới hạn dưới là xương đòn. Trước là bờ ngoài cơ ức móng và
phía sau là bờ sau cơ ức đòn chũm.
Nhóm V (cổ sau): Giới hạn trước bởi bờ sau cơ ức đòn chũm, phía sau là bờ
trước cơ thang và phía dưới là xương đòn. Bụng dưới cơ vai móng chia nhóm
V thành 2 dưới nhóm:
Va: hạch dọc theo thần kinh XI
Vb: hạch chạy dọc theo động mạch cổ ngang
Nhóm VI (trước khí quản): Bao gồm các hạch trước sụn nhẫn và trước khí
quản. Phía ngoài được giới hạn bởi bao cảnh 2 bên, phía trên là xương móng
và phía dưới là hõm thượng đòn [17]. Trên lâm sàng, một số tác giả đôi khi
còn xếp nhóm hạch trung thất trên thành nhóm VII của vùng cổ.
Hệ thống mạch bạch huyết của TG bắt nguồn từ các vi mạch bạch huyết
trong tuyến, từ các vi mạch này dịch bạch huyết sẽ đổ về các mạch bạch huyết
chạy trên bề mặt tuyến. Mạch bạch huyết ở phía trên theo động mạch giáp
trên, mạch bạch huyết phía dưới theo động mạch giáp dưới và tĩnh mạch giáp
giữa. Các bạch mạch này sẽ đổ vào chuỗi hạch dọc theo máng cảnh. Các
mạch bạch huyết trên bề mặt eo tuyến đổ về theo chuỗi hạch trước thanh quản
và khí quản. Hệ thống bạch huyết nói trên có sự thông thương rộng với chuỗi


7

hạch gai, chuỗi hạch cổ ngang [17]. Do vậy ung thư eo tuyến và phần thấp

thùy bên hay di căn chuỗi hạch trước khí quản (nhóm VI), ung thư thùy bên
hay di căn theo chuỗi hạch cảnh (nhóm III, IV). Di căn ở chuỗi hạch gai
(nhóm V) ít gặp hơn [6],[18] .

Hình 1.4. Dẫn lưu bạch huyết của TG và thanh – khí quản [15].
1.2. Chẩn đoán UTTG
1.2.1. Khám lâm sàng
Khám có thể thấy nhân TG mềm hoặc cứng, nhỏ (khu trú) hoặc to (lan
tỏa), di động hoặc cố định, và đau hoặc không đau. Nếu sờ thấy nhân cứng,
mới xuất hiện thì có thể là nang TG chảy máu hoặc viêm TG bán cấp. Kết quả
khám LS có thể không chính xác vì phụ thuộc kỹ năng người khám và vị trí
nhân giáp [19]. Các nhân có đường kính < 1cm rất khó sờ thấy trừ khi nó nằm
ở phía trước, các nhân lớn thì dễ sờ thấy trừ khi nó nằm sâu trong tuyến. Tính


8

chung thì trên 50% các nhân không sờ thấy trên LS. Khám LS cần lưu ý các
dấu hiệu gợi ý ung thư như có hạch cổ, nhân cứng, ít di động, nhân to > 4cm
hoặc nhân to nhanh, các dấu hiệu xâm lấn tại chỗ (nuốt khó, khàn tiếng, đau
vùng cổ). Hội tuyến giáp Mỹ (ATA) nhận định nguy cơ bị UTTG của các
nhân < 1cm cũng cao như các nhân lớn và bướu đa nhân cũng có nguy cơ bị
ung thư ngang bằng với bướu đơn nhân [20]. Bảng 1 liệt kê các dấu hiệu gợi ý
UTTG.
Bảng 1.1. Các dấu hiệu gợi ý chẩn đoán UTTG ở BN có u TG [3].
Nghi ngờ cao
Nghi ngờ trung bình
Tiền sử gia đình bị UTTG thể tủy
Tuổi < 20 hoặc > 70
Nhân rất rắn hoặc cứng

Nam giới
Nhân dính vào tổ chức xung quanh, ít di Tiền sử bị tia xạ vùng đầu, cổ
động
Liệt dây thanh

Nhân có đường kính > 4cm hoặc

Có hạch cổ

một phần là nang.
Có triệu chứng chèn ép, gây khó
nuốt, nói khàn, khó thở, ho

Có dấu hiệu di căn xa
1.2.2. Vai trò của các xét nghiệm trong chẩn đoán u TG
1.2.2.1. Xét nghiệm hormon TG
Đa số các u TG đều không ảnh hưởng tới chức năng TG, các xét nghiệm
hormon FT3, FT4, TSH thường là bình thường. Trong một số ít trường hợp u TG
tăng hoạt động, sản xuất ra quá nhiều nội tiết tố gây cường giáp biểu hiện bằng
FT3 và FT4 tăng, TSH giảm. Đứng trước các trường hợp u TG buộc phải làm
xét nghiệm hormon TG, nếu hormon FT3, FT4 tăng, TSH giảm thì cần chú ý tới
nhân độc giáp trạng (nhân lành tính nhưng tăng sản xuất hormon) hoặc UTTG
[21].
Định lượng hormon TG mà tăng thì cũng cần lưu ý khi chọc tế bào TG
cũng cân nhắc vì có thể gây cơn nhiễm độc giáp cấp, ngoài ra cũng cần phải


9

chú ý điều trị trước PT vì có thể làm xuất hiện cơn nhiễm độc giáp cấp trong

và sau khi mổ.
1.2.2.2. Các kháng thể kháng giáp
- Các u TG hầu như không làm thay đổi nồng độ các kháng thể kháng
giáp như là anti TPO, anti TG, TRAb...
- Nồng độ thyroglobulin cũng không có giá trị cho chẩn đoán u TG lành
hay ác tính. Tuy nhiên ở những BN UTTG đã điều trị PT cắt toàn bộ tuyến
hoặc tia xạ thì nồng độ thyroglobulin có giá trị cho theo dõi [3].
1.2.2.3. Xét nghiệm khác
Canxi máu: nên làm ở các BN có u TG. Nếu canxi máu tăng thì cần chú
ý liệu có phải u tuyến cận giáp trạng không và cần làm thêm các xét nghiệm
để chẩn đoán như là định lượng PTH, xạ hình tuyến cận giáp.
Nội soi tai mũi họng cũng cần thiết trong các trường hợp nghi ngờ u
TG gây xâm lấn hoặc chèn ép dây thanh âm làm BN nói khàn nói khó, trong
trường hợp đó thì bướu thường là ung thư.
1.2.3. Các phương pháp CLS đánh giá hình thái u TG
1.2.3.1. SA TG thường quy kèm Doppler màu
SA chẩn đoán phân biệt nhân giáp ác tính với nhân giáp lành tính
Giá trị của SA so với khám LS là SA giúp chẩn đoán xác định có hay
không có nhân giáp, nhất là những nhân không sờ thấy trên LS. SA giúp xác
định các đặc điểm của nhân, tổn thương thuộc TG hay là các khối lân cận TG
như nang giáp lưỡi, nang bạch huyết, hạch to vùng cổ, những đặc điểm này có
thể làm thay đổi kế hoạch điều trị ở > 60% BN được chẩn đoán BGN [22],[23].
Nhiều nghiên cứu công bố khả năng dự báo bướu TG là lành tính hay ác
tính trên cơ sở các dấu hiệu SA. Kích thước bướu không dự báo tính chất ác tính,
bởi vì khả năng ung thư ở một bướu TG đã được chứng minh là như nhau,
không liên quan tới kích thước được đo trên SA [23],[24].
Các đặc điểm SA hướng đến bướu nhân lành tính: Cấu trúc dạng nang
hoặc thành phần nang là chủ yếu. Cấu trúc đặc tăng âm hoặc đồng âm, bờ



10

đều, ranh giới rõ không có vi vôi hóa, tăng sinh mạch kiểu ngoại vi. Cấu trúc
dạng hỗn hợp hoặc bọt biển có phần đặc tăng âm hoặc đồng âm [25-27].

A

B

C

D

E

F
Hình 1.5. Các hình thái tổn thương lành tính của bướu TG [22].

A: Bướu có cấu trúc dạng nang là chủ yếu, có nốt đặc bám thành, có tăng sinh mạch
kiểu ngoại vi, không tăng sinh mạch trong nốt đặc; B: Bướu có cấu trúc dạng nang; C:
Bướu có cấu trúc hỗn hợp dạng bọt biển (nhiều nang nhỏ xen lẫn phần tổ chức đặc;
D: Bướu có cấu trúc hỗn hợp có phần đặc đồng âm với nhu mô giáp lành; E: Bướu TG
có vôi hóa viền (đầu 2 mũi tên trắng); F: Tổn thương đa nhân, các bướu tăng âm so
với nhu mô giáp lành.


11

Một vài đặc điểm SA kết hợp với nguy cơ tăng cao UTTG đã được tìm
thấy gồm: bướu đặc hoặc thành phần đặc chiếm ưu thế, giảm âm hoặc rất giảm

âm, bờ không đều hoặc có múi nhỏ, có vi vôi hóa, chiều cao lớn hơn chiều rộng,
tăng sinh mạch trong bướu. Tuy nhiên, độ nhạy, độ đặc hiệu, và giá trị dự báo âm
tính và dương tính đối với các tiêu chuẩn đó biến đổi rất nhiều từ nghiên cứu
này đến nghiên cứu khác [25],[26],[28],[29].

A

B

C

D

E
Hình 1.6. Các hình thái tổn thương ác tính của bướu giáp nhân [28].
A. Bướu giảm âm có chiều cao lớn hơn chiều rộng, bờ tua gai; B. Tăng sinh mạch trong
bướu; C,D: Bướu rất giảm âm so với cơ trước giáp; E. Bướu có vi vôi hóa.


12

Không có đặc điểm SA nào được coi là tiêu chuẩn vàng trong chẩn
đoán bướu giáp nhân ác tính nhưng nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy
sự kết hợp các yếu tố nguy cơ trên SA làm tăng khả năng ác tính . Một vài
nghiên cứu đã đưa ra phân loại nguy cơ ác tính của bướu giáp nhân dựa trên
các đặc điểm SA được gọi là bảng phân loại TIRADS (Thyroid Imaging
Reporting and Data System) [28-30].
Jin Joung Kwak và cs (2011) đưa ra bảng phân loại TIRADS dựa vào 6
đặc điểm SA gồm: Cấu trúc dạng đặc hoặc thành phần đặc là chủ yếu, giảm âm
hoặc rất giảm âm, bờ không đều hoặc có múi nhỏ, có vi vôi hóa, chiều cao lớn

hơn chiều rộng [28]. Tác giả xếp loại TIRADS từ 1 đến 6 như sau:
- TIRADS 1: Mô giáp lành
- TIRADS 2: Tổn thương lành tính (0% ác tính)
- TIRADS 3: Tổn thương nhiều khả năng lành tính (< 5% nguy cơ ác tính)
- TIRADS 4: Tổn thương có nguy cơ ác tính gồm:
+ TIRADS 4a: Tổn thương có một đặc điểm SA nghi ngờ (5 - 10%
nguy cơ ác tính)
+ TIRADS 4b: Tổn thương có 2 đặc điểm SA nghi nghờ (10 - 50%
nguy cơ ác tính).
+ TIRADS 4c: Tổn thương có 3-4 đặc điểm SA nghi nghờ (50 - 95%
nguy cơ ác tính).
- TIRADS 5: Tổn thương có > 4 đặc điểm SA nghi ngờ (> 95% nguy cơ
ác tính).
- TIRADS 6: Biết chắc tổn thương ác tính trước đó [28].
SA với CHKN chẩn đoán BGN:
Với bướu đơn nhân SA giúp xác định đúng vị trí cần chọc hút nhất là đối
với những bướu có cấu trúc hỗn hợp. Với bướu đa nhân SA giúp chọn lọc bướu
cần chọc hút dựa trên các đặc điểm SA nghi ngờ. CHKN dưới hướng dẫn của SA
làm giảm tỷ lệ mẫu không đủ tiêu chuẩn trong khi giữ nguyên hoặc tăng độ nhạy
và độ đặc hiệu, giảm tỷ lệ âm tính giả do chọc kim sai vị trí [22],[23].


13

SA theo dõi BGN:
Ưu điểm của SA TG là đơn giản dễ thực hiện, không độc hại, giá
thành thấp, có thể thực hiện nhiều lần..., do vậy hiện nay SA là phương
pháp đầu tay được lựa chọn để theo dõi sự tiến triển của BGN, SA giúp
theo dõi sự tiến triển về kích thước, thể tích của bướu, sự thay đổi cấu trúc
của bướu để quyết định có cần CHKN lại hay PT. Theo khuyến cáo của

hiệp hội SA Mỹ nếu BGN tăng ≥ 50% thể tích so với lần SA trước thì cần
phải CHKN lại [20],[23].
SA đánh giá di căn hạch vùng cổ
Bình thường, trên SA có thể thấy được các hạch nhỏ ở vùng cổ. Mỗi hạch
có hình bầu dục, trên SA có hình thái giống nhu mô quả thận thu nhỏ, với vùng
vỏ hạch giảm âm tương tự vỏ thận, xoang hạch tăng âm tương tự xoang thận.
Trên SA Doppler màu, có thể thấy các cấu trúc mạch máu đi vào rốn hạch. Kích
thước ngang của hạch bình thường không quá 8mm và tỷ lệ giữa kích thước dọc
vào kích thước ngang của hạch thường lớn hơn 2 [31].

A

B
Hình 1.7. Hình ảnh SA bình thường hạch vùng cổ [22].

A. Hình ảnh SA bình thường hạch vùng cổ, mũi tên chỉ rốn hạch tăng âm.
B. Hình ảnh SA hạch cổ bình thường trên Doppler, mạch máu đi vào rốn hạch.

SA có độ nhạy cao trong phát hiện các hạch cổ nhưng cần phải chẩn
đoán phân biệt giữa hạch di căn với hạch phản ứng viêm [32].


14

- Trong ung thư biểu mô TG biệt hóa (UTBMTGBH), tỷ lệ di căn hạch cổ
sâu và hạch cổ bên tương ứng là 77,4% và 58.5%. Vị trí thường gặp theo thứ tự là
nhóm VI, III, IV, II [33],[34].
- Kích thước hạch: Hạch ác tính thường to nhưng hạch viêm cũng có
thể to tương tự, hơn nữa hạch nhỏ cũng có thể tìm thấy ung thư di căn. Vì vậy,
kích thước hạch không thể sử dụng như là tiêu chuẩn chẩn đoán phân biệt.

Tuy nhiên, trong thực hành LS, kích thước của hạch rất có ích khi thăm khám
hàng loạt BN không biết u nguyên phát mà phát hiện hạch to, là một gợi ý di
căn [35].
- Hình dạng hạch: Hạch ác tính thường tròn, tỷ lệ trục ngắn/trục dài ≥ 0,5,
trong khi hạch phản ứng và hạch bình thường hình ovan hoặc dài. Tuy thế, có báo
cáo cho rằng hạch mang tai và hạch dưới hàm dưới có xu hướng tròn. Hơn nữa,
hạch ác tính có thể hình ovan khi nó ở giai đoạn sớm. Vì thế, hình dạng hạch nên
được xem xét như là một tiêu chuẩn trong chẩn đoán [32],[34].
- Độ cản âm: Bình thường, hạch viêm lao, hạch viêm phản ứng và hạch
trong u lympho hầu hết là giảm âm so với mô cơ. Hạch di căn thường giảm âm,
nhưng riêng ung thư biểu mô TG (UTBMTG) thể nhú có xu hướng tăng âm. Vì thế,
đây là dấu hiệu rất có ích trong chẩn đoán UTBMTG thể nhú [33],[34].
- Ranh giới hạch: Hạch trong u lympho và hạch di căn có xu hướng
ranh giới rõ, trong khi hạch phản ứng và hạch bình thường ranh giới không.
Ranh giới của hạch ác tính rõ được giải thích là do sự xâm nhập u và giảm
lắng đọng mỡ trong hạch (chính thành phần này làm tăng sự khác biệt âm
giữa hạch và mô xung quanh. Ranh giới không rõ thường thấy trong hạch lao
do phù nề và phản ứng viêm của mô mềm xung quanh. Tuy vậy, ranh giới rõ
hay không cũng không giúp ích nhiều cho việc chẩn đoán phân biệt. Song
trong thực hành LS, hạch ác tính có ranh giới không rõ thể hiện sự lan tỏa u ra
ngoài vỏ hạch, điều này rất có ích trong đánh giá tiên lượng của BN [22],[34].


15

- Calci hóa: Calci hóa trong hạch hiếm thấy trong các bệnh hạch ở vùng
cổ. Tuy nhiên, khoảng 50-69% hạch di căn trong UTBMTG thể nhú có calci hóa
với những hạt lấm tấm, khu trú ở ngoại vi hạch và thể hiện trên SA là hình tăng
âm có bóng cản. Vì thế, sự hiện diện của calci hóa là đặc điểm hữu ích xác định
hạch di căn trong UTBMTG thể nhú. Ngoài ra, calci hóa trong hạch có thể thấy

trong u lympho và ở hạch viêm lao sau điều trị nhưng nốt vôi hóa này thường to,
đặc và có bóng cản nhiều trên SA [32-34].
- Hoại tử trong hạch: Hoại tử trong hạch được phân chia thành hai loại:
hoại tử đông và hoại tử nang (hay còn gọi là thoái hóa nang). Khoảng 40% các
hạch di căn trong UTBMTG thể nhú có xu hướng thoái hóa nang. Trên hình
ảnh SA, hạch di căn này có đặc điểm tạo vách trong nang, có các nốt trong
nang và vỏ nang dầy. Khi đó cần CHKN xét nghiệm chẩn đoán, định lượng
nồng độ thyroglobulin trong dịch nang. Cũng cần lưu ý, khi thấy bất kỳ khối
dạng nang nào ở vị trí chuỗi hạch cảnh giữa và dưới thì khả năng rất lớn là
UTTG di căn [32-34].

A

B
Hình 1.8. Hình ảnh SA hạch vùng cổ ác tính [22].

A. Hạch có vi vôi hóa; B. Hạch có thoái hóa dạng nang và mất rốn hạch tăng âm.


16

SA đánh giá xâm lấn ung thư tuyến giáp
SA còn đánh giá sự xâm lấn khối u với các tổ chức lân cận: u còn trong
tuyến hay đã phá vỡ vỏ tuyến, xâm lấn cơ cận giáp, bó mạch cảnh, khí quản,
thực quản [20],[23].
Mức độ tiếp xúc của khối u với bao giáp liên quan đến mức độ xâm lấn
tối thiểu, được chia làm 4 độ:
- Độ 0: Khối u không tiếp xúc với bao giáp.
- Độ 1: Khối u tiếp xúc với bao giáp 1- 25% chu vi.
- Độ 2: Khối u tiếp xúc với bao giáp 26 - 50% chu vi.

- Độ 3: Khối u tiếp xúc với bao giáp 51 - 75% chu vi.
- Độ 4: Khối u tiếp xúc với bao giáp 76 - 100% chu vi.
Khối u tiếp xúc với bao giáp > 25% chu vi hoặc > 50% đường kính
ngang và mất đường tăng âm của bao giáp trên SA được coi là tiêu chuẩn
đánh giá khối u xâm lấn tối thiểu [36],[37].

A

B
Hình 1.9. Hình ảnh xâm lấn của ung thư giáp [36].

A. Khối u phá vỡ vỏ: mất liên tục đường tăng âm của bao giáp và khối u tiếp xúc với
bao giáp > 50% đường kính khối u; B. Khối u phá vỡ bao giáp xâm lấn cơ trước giáp.

SA theo dõi UTTG sau điều trị
Hiện nay SA là phương pháp phổ biến nhất được sử dụng trong đánh
giá, theo dõi BN UTTG sau PT. SA giúp phát hiện những trường hợp bệnh tái
phát ở vị trí hố TG sau khi đã cắt bỏ hoàn toàn hoặc một thùy TG hoặc di căn
hạch cổ.


17

SA có thể được thực hiện mà không cần phải ngừng thuốc hormon TG,
do đó tránh được suy giáp và không cần dùng liệu pháp kích thích hormon kết
hợp (cả 2 phương pháp này cần thiết trong xạ hình TG). Vì vậy, những BN có
nguy cơ thấp sau điều trị ung thư thể nhú có thể chỉ cần SA định kỳ, không cần
phải xạ hình TG như phương pháp truyền thống. Sau PT và/hoặc xạ trị, SA đánh
giá hố TG và hạch cổ nhóm trung tâm và nhóm bên có thể được thực hiện 6 tháng
một lần, sau đó kiểm tra định kỳ, tùy theo nguy cơ tái phát của BN [22],[23].

1.2.3.2. SA đàn hồi mô
Trong thời gian gần đấy, SA đàn hồi mô (Ultrasonography based
elastography) được nhắc đến như là một phương pháp không xâm lấn có giá trị
cao trong việc phụ trợ chẩn đoán phân biệt một nốt TG lành tính với ác tính [38].
Ứng dụng LS đầu tiên của SA đàn hồi mô TG được mô tả bởi Rago và
cộng sự vào năm 2007 [39], sử dụng thang điểm gồm 05 độ. Đến năm 2012
Moon đưa ra nghiên cứu của mình trên 676 BN với 703 nốt TG nghi ngờ, tuy vậy
không thấy sự ưu việt của SA đàn hồi mô vào thời điểm này so với SA thường
quy [40].
Để nâng cao giá trị chẩn đoán, người ta đưa ra kỹ thuật mới đó là Đo độ
đàn hồi sóng biến dạng (Shear Wave Elastography – SWE). Được mô tả đầu tiên
bởi Sebag vào năm 2010 [41]. SWE cũng được nhiều tác giả sử dụng và coi là
một phương pháp có giá trị trong chẩn đoán phân biệt nốt lành tính và ác tính, có
độ đặc hiệu và độ nhạy cao hơn so với SA thường quy, có thể kể đến các nghiên
cứu của Kim [42], của Szczepanek-Parulska và cộng sự trên 393 nốt TG [43].
Nghiên cứu phân tích gộp của Razavi năm 2013 cũng cho ý kiến tương tự [44].
Ngoài ra SA đàn hồi mô còn cho phép phân biệt hạch di căn ung thư
vùng cổ với một hạch bình thường dựa vào độ cứng chắc khác nhau của
chúng [45]. Tuy vậy các kết quả mang tính định lượng còn chưa nhiều và còn
nhiều tranh cãi.


18

Nhược điểm của SA nói chung cũng như SA đàn hồi mô nói riêng đó là
tính phụ thuộc vào người thực hiện quy trình SA, kể cả khi đã có bảng phân
loại nguy cơ hay các phương pháp đánh giá đàn hồi mô định lượng gần đây.
1.2.3.3. Chụp X – quang thông thường và CLVT
Xquang không có giá trị trong chẩn đoán khả năng ác tính cũng như
đánh giá về di căn, xâm lấn u.

Chụp CLVT cũng không cho phép đánh giá đặc điểm BGN là lành tính
hay ác tính. Tuy vậy trong tổng kê đánh giá giai đoạn bệnh, chụp CLVT được
coi là có giá trị tương tự với CHT, mặc dù độ nhạy và độ đặc hiệu được thống
kê là khác nhau với từng cơ quan mong muốn đánh giá xâm lấn, cơ bản thì
CHT có độ nhạy với tổn thương cao hơn nhưng độ chính xác thì khác biệt
chưa có ý nghĩa thống kê [46]. Sau đây là bảng thống kê độ nhạy và độ đặc
hiệu theo tổng hợp của Jenny K.Hoang:
Bảng 1.2. Giá trị chẩn đoán xâm lấn so sánh giữa CLVT và CHT
theo Jenny Hoang [46].
Cơ quan đánh
giá xâm lấn

CLV
T

Tiêu chuẩn chẩn đoán
xâm lấn trên CLVT

Khí quản
Độ nhạy
Độ đặc hiệu

59%
91%

Một trong:
 Tiếp xúc ≥180 độ chu vi
 Biến dạng lòng khí quản

Độ chính xác


83%

 Bất thường lớp nhầy

Thực quản
Độ nhạy
Độ đặc hiệu
Độ chính xác

29%
96%
91%

Thần kinh thanh
quản quặt ngược
Độ nhạy

78%

Độ đặc hiệu

90%

Độ chính xác

86%

 Tiếp xúc ≥180 độ chu vi
Bất thường lòng hoặc

thành
Hai trong số:
 Xóa lớp mỡ trong
khoang khí thực quản
 >25% khối u lồi ra
phần sau tuyến giáp
 Dấu hiệu liệt dây

CHT

Tiêu chuẩn chẩn đoán
xâm lấn trên CHT

Một trong:
100  Tiếp xúc ≥180 độ chu vi
%
 Tín hiệu phần mềm
84%
trong sụn
 Khối trong lòng khí
quản
90%
82%
94%
91%

Xâm lấn lớp ngoài

94% Xóa lớp mỡ trong khoang
khí thực quản trên ít nhất

82%
88%

một lát cắt ngang


19

thanh cùng bên
Động mạch cảnh
Độ nhạy
Độ đặc hiệu
Độ chính xác

75%
99%
99%

Tiếp xúc trên 180 độ
chu vi

100
%
88%
91%

Tiếp xúc trên 270 độ
chu vi

1.2.3.4. Chụp CHT

Theo các nghiên cứu nước ngoài, đa số tác giả trước đây đều nhận định
CHT ít khi được chỉ định trong chẩn đoán phân biệt bướu nhân giáp lành tính
và ác tính mà thường được chỉ định với mục đích đánh giá giai đoạn xâm lấn
tại chỗ của UTTG và di căn hạch vùng cổ hoặc di căn xa. Nguyên nhân do
đặc điểm hình ảnh của UTTG trên CHT thường không đặc hiệu. Gần đây bắt
đầu có một số tác giả nghiên cứu giá trị chuỗi xung khuếch tán (Diffusion) và
bản đồ khuếch tán ADC trong chẩn đoán phân biệt bưới nhân giáp lành tính
và ác tính của TG [47-49]. Như vậy CHT không chỉ giúp đánh giá xâm lấn và
định giai đoạn mà còn có giá trị phân biệt lành tính với ác tính, chúng tôi xin
được trình bày kỹ hơn về CHT TG đánh giá ung thư ở mục 1.4.
1.2.3.5. Ghi hình bằng nhiệt độ (thermography)
Phương pháp này thường được sử dụng cùng với ghi hình nhấy nháy
phóng xạ để xác định hệ mạch của một nhân lạnh. Thường nhân giáp có hình
ảnh nhân ấm ghi trên hình nhiệt thì có tỷ lệ ung thư cao hơn nhân lạnh.
1.2.3.6. Xạ hình TG và xạ hình toàn thân (ghi hình nhấp nháy phóng xạ radio
scintigraphy)
Người ta thường sử dụng các đồng vị phóng xạ như I 131, I123 hoặc Tc99m
đường tiêm hoặc uống vào cơ thể để ghi hình phóng xạ. Thời điểm ghi hình là
24 h đối với I131 hoặc Tc99m là 30 phút. Tc99m có độ nhạy ghi hình cao và thời
gian bán hủy ngắn hơn. Ghi hình bằng các máy Scanner, gamma camera,
SPECT với bao định hướng Pinhole.
Xạ hình toàn thân bằng I131/I123 có thể sử dụng để đánh giá tổn thương
tồn dư tại vùng cổ và các di căn xa của ung thư thể nhú hoặc thể nang sau


20

phẫu thuật [6]. Khả năng chẩn đoán của phương pháp này có thể bị hạn chế
bởi khả năng bù trừ chức năng của phần tuyến giáp còn lại, gây ra sự bắt
thuốc phóng xạ tại vị trí giường tuyến giáp còn lại. Do vậy người ta thường

dùng liều cao khoảng 80mCi thay vì liều thấp khoảng 1-5mCi, với tác dụng 3
trong 1: diệt phần tuyến giáp còn lại; sàng lọc các phần tồn dư tại vùng cổ và
di căn xa, đồng thời thấy được bất kỳ nhân u nào khác có bắt thuốc iod. Sự
bắt thuốc I131/123 có thể bị giảm bởi thuốc cản quang tiêm đường tĩnh mạch khi
chụp CLVT trước đó, do vậy cần kiêng chụp CLVT có tiêm cản quang trước
đó 1-3 tháng [6]. Tuy vậy các ung thư thể tủy, thể không biệt hóa, hoặc một
vài thể nhú và thể nang kém biệt hóa cũng có thể âm tính với xét nghiệm này.
Chỉ khoảng 2/3 UTTG di căn có tích tụ iod. Do vậy, ngoài I 131 người ta
có thể dùng Tc99m Tetrofosmin, Tc99m Sestamibi hoặc chụp F18DG PET để đánh
giá di căn trong hoàn cảnh âm tính với xạ hình toàn thân bằng I131 [50]. Mặc
dù phương pháp có độ đặc hiệu rất cao tuy vậy có nhưng trường hợp dương
tính giả với các bệnh lý không phải ác tính, hoặc bệnh lý ác tính khác có
nguồn gốc không phải thuộc tuyến giáp [50].
Kết quả ghi hình phóng xạ tại TG ít có giá trị chẩn đoán nguy cơ ác tính
của u. Hầu hết các nhân lạnh là lành tính, ung thư chỉ chiếm 15 – 25%. Tuy
nhiên 84% UTTG có hình ảnh nhân lạnh. Hình ảnh nhân ấm và nhân nóng rất
ít gặp ung thư, chỉ chiếm < 4%.
1.2.3.7. Chụp PET-CT và một số kỹ thuật khác
Như đã nói ở trên, F18DG PET/CT có thể phát hiện di căn xa từ các ung
thư thể nhú hoặc thể nang khi kết quả âm tính với xạ hình toàn thân bằng I 131
[51]. Tuy độ nhạy cao nhưng độ đặc hiệu của PET/CT lại tương đối thấp so
với xạ hình tuyến giáp toàn thân [6]. Do vậy chụp PET/CT nên chỉ định với
các trường hợp ung thư thể nhú/nang, có thyroglobulin tăng và xạ hình toàn
thân với I131 âm tính. Ngoài ra F18DG PET cũng có thể được chỉ định với di
căn xa từ ung thư thể tủy và thể kém biệt hóa, những thể âm tính với xạ hình
tuyến giáp [6].


21


1.2.4. Giải phẫu bệnh bướu giáp nhân
1.2.4.1. Tê bào học bướu giáp nhân
Từ nhiều thập kỷ qua, rất nhiều tác giả thế giới đã nghiên cứu và cố tìm
kiếm phương pháp chẩn đoán khối u TG với mong muốn phương pháp chẩn đoán
mới đáp ứng được các tiêu chí như đơn giản, dễ áp dụng, tốn ít thời gian, an toàn,
đạt độ chính xác cao. Vào năm 1947, Marcel Zar là người đầu tiên trên thế giới đã
tiến hành chọc hút vào khối nằm trong TG để lấy mẫu tế bào nghiên cứu. Nhờ kỹ
thuật TBH chọc hút bằng kim nhỏ, người ta đã làm giảm được một tỷ lệ đáng kể
(75 – 90%) trường hợp PT cắt bỏ TG không cần thiết. Hơn nữa, người bệnh tránh
được những tai biến có thể rất nghiêm trọng xảy ra khi bị PT TG [52].
Kỹ thuật CHKN làm TBH được áp dụng lần đầu tiên tại Việt Nam vào
năm 1972 để chẩn đoán các u giáp và nhiều loại u khác của cơ thể và kể từ
đó, kỹ thuật này ngày càng được nhân rộng trong cả nước. Cho đến nay, nó đã
trở thành một xét nghiệm thường quy không những cho các u nói chung mà
còn cho nhiều loại tổn thương không u khác [53-55].
CHKN làm TBH là kỹ thuật quan trọng nhất trong việc quản trị các
nhân TG. Độ nhạy của kỹ thuật đạt khoảng 65 – 98% và độ đặc hiệu từ 72 –
100%. Tỷ lệ dương tính giả từ 0 – 7% và âm tính giả từ 1 – 11%. Dưới sự
hướng dẫn của SA, kỹ thuật CHKN làm TBH sẽ dễ dàng lấy trúng mô u hơn,
góp phần giảm tỷ lệ âm tính giả [48],[52]. Khi không có SA dẫn đường, có tới
14% trường hợp không lấy được tế bào hoặc không thể chẩn đoán. Tỷ lệ này
giảm xuống còn 8% nếu được SA dẫn đường; do vậy, độ nhạy tăng từ 92% tới
98% và độ đặc hiệu tăng từ 69% lên 71%. Đặc biệt, SA giúp phát hiện và định
khu tổn thương không sờ thấy (tổn thương < 1cm).
CHKN làm TBH nhân giáp cho phép giảm đáng kể trường hợp PT không
cần thiết. Tuy nhiên, CHKN làm TBH cũng có giới hạn của nó. Những yếu tố
sau có thể trong một số trường hợp làm giảm độ chính xác hoặc không nhất quán
trong chẩn đoán như lấy mẫu không đủ, kỹ năng lấy mẫu, kinh nghiệm đọc
(dịch) các tổn thương trên phiến đồ, kỹ thuật làm phiến đồ không chuẩn.



22

Tỷ lệ nhân giáp lành tính được chẩn đoán đúng bằng một lần CHKN
đạt 90%. Nếu 2 lần chọc hút cách xa nhau, tỷ lệ này có thể đạt tới 98%. Với 2
lần chọc hút có thể giảm 1,2% tỷ lệ âm tính giả [56-58].
Năm 2009, bảng phân loại về chẩn đoán CHKN làm TBH TG theo hệ
Bethesda đã được công bố và triển khai áp dụng, với các mức độ nhận định
kết quả trên TBH như sau:
- Phiến đồ không thỏa đáng
Dùng để chỉ những bệnh phẩm không thỏa đáng có thể do lẫn nhiều máu,
phết quá dày, để khô sau khi cố định bằng cồn, hoặc số lượng tế bào nang giáp
quá ít. Phiến đồ không thỏa đáng chiếm khoảng 2 - 20% các trường hợp.
Ý nghĩa (giá trị LS) của bệnh phẩm không thích hợp: kết quả chỉ có
dịch phụ thuộc vào liên hệ với SA. Nếu toàn bộ cục/nốt là nang, đặc điểm SA
không có gì nghi ngờ, nhà nội tiết quyết định trường hợp này lành tính. Với
trường hợp khác, cần phải lặp lại xét nghiệm nếu đặc điểm SA còn băn khoăn
và nhà nội tiết không dám chắc mẫu đó có đại diện cho bệnh không. Trong
một nghiên cứu phân tích riêng rẽ với các mẫu bệnh phẩm không thỏa đáng,
nguy cơ ung thư với mẫu bệnh phẩm chỉ có dịch là 4%. Nguy cơ ác tính của
phiến đồ không thỏa đáng (không bao gồm chỉ có dịch) là 1-4% [48],[56].
- Phiến đồ lành tính
Khoảng 70% mẫu xét nghiệm CHKN TG cho kết quả lành tính. Đa số
các trường hợp là nhân nang lành tính. Tỷ lệ âm tính giả với kết quả đọc lành
tính khá thấp (<1%), nhưng những BN đó cần được theo dõi và đánh giá lại
bằng sờ nắn hoặc SA khoảng 6-18 tháng một lần. Nếu nhân phát triển hoặc
trên SA có nghi ngờ, cần nhắc lại CHKN.
- Phiến đồ nghi ngờ ác tính
Khoảng 10% đến 15% các trường hợp xếp vào loại nghi ngờ. Những
trường hợp này được chia làm 3 loại: nghi ngờ u thể nang, nghi u tế bào Hürthle,

và nghi ngờ ác tính (thường là ung thư biểu mô nhú). Đa số các trường hợp nghi


23

ngờ đề nghị PT nhưng giá trị dự báo ác tính khác nhau với mỗi loại. Khoảng 3% 7% phiến đồ CHKN TG là ác tính với hầu hết là ung thư biểu mô nhú [52],[57].
- Hình thái TBH nghi ung thư biểu mô nhú
Theo phân loại mới này, ung thư biểu mô nhú TG thể hiện trên phiến
đồ tế bào CHKN có các đặc trưng sau: sắp xếp thành mảng, nhú, vi nang.
Biến đổi nhân. Bào tương thay đổi (có thể hẹp, dạng vảy, dạng tế bào Hürthle
hoặc có hốc). Thể cát. Mô bào bao gồm cả tế bào khổng lồ [59].
- Hình thái TBH nghi u thể nang
Phiến đồ giàu tế bào. Ưu thế là vi nang hoặc dạng bè. Tế bào nang
nhiều, lớn. Ít chất keo [52].
- Hình thái TBH của phiến đồ nghi u tế bào Hürthle
Phiến đồ đơn thuần tế bào Hürthle. Thường ít kết dính với nhau. Hạt
nhân rõ. Giả thể cát [52].
- Hình thái TBH của ung thư biểu mô kém biệt hóa
Mật độ tế bào cao. Đa số tế bào đứng rời rạc. Một số có dạng nang
nhỏ, dạng bè hoặc hình cầu. Nhân tế bào tròn, đơn hình [52].
- Hình thái TBH của ung thư biểu mô không biệt hóa
Đa số tế bào u đứng rời rạc. Nhân đa hình rõ. Nhân lớn. Tế bào hình
thoi hoặc dạng biểu mô. Tế bào khổng lồ nhiều nhân [52].
- Hình thái TBH của ung thư biểu mô tủy
Nhiều tế bào đơn lẻ. Có thể thành đám nhỏ lỏng lẻo. Tế bào có dạng
biểu mô, dạng tương bào, hoặc hình thoi. Có hạt màu đỏ trong bào tương
(70% các trường hợp), có chất dạng tinh bột [52].
Bảng 1.3. Nhận định kết quả CHKN TG theo phân loại Bethesda [52].
Các tiêu chí chẩn đoán
Bệnh phẩm chưa thỏa đáng

Lành tính
TB không điển hình ý nghĩa
chưa xác định

Nguy cơ
ác tính (%)
1-4
<1

Nhắc lại CHKN dưới SA
Theo dõi trên LS

5-10

Nhắc lại CHKN

Xử trí


24

Nghi ngờ u thể nang
15-30
Nghi ngờ u tế bào Hürthle
15-45
Nghi ngờ ác tính
60-75
Nghi ung thư thể nhú
Nghi ung thư thể tủy
Nghi u lympho

Nghi di căn ung thư
Loại khác
Ác tính
97-99
1.2.4.2. Sinh thiết tức thì làm mô bệnh học

Cắt thùy TG
Cắt thùy TG
Cắt thùy hay toàn bộ TG

Cắt toàn bộ TG

STTT hay còn gọi là sinh thiết cắt lạnh là một phương pháp chẩn đoán
MBH trong lúc mổ trên các tiêu bản được cắt từ máy cắt lạnh (Cryostat), cho
phép chẩn đoán nhanh sau 10-15 phút với độ chính xác cao, có thể áp dụng
rộng rãi tại các cơ sở điều trị ngoại khoa lớn, đặc biệt là các trung tâm điều trị
ung thư. Phương pháp này đã giúp các nhà PT có một thái độ xử lý đúng đắn,
làm giảm số lần PT, rút ngắn thời gian điều trị, góp phần quan trọng trong
điều trị các khối u và ung thư nói chung, đặc biệt STTT có giá trị bổ sung cao
cho kết quả CHKN khi kết quả là nghi ngờ.
Kỹ thuật này được Welch thực hiện lần đầu tiên năm 1891 trên một BN
ung thư vú [60] và được phát triển thành một phương pháp chẩn đoán MBH
trong lúc mổ bởi Wilson năm 1905 [61]. Cho đến những năm 1960, việc cắt
lạnh trở nên dễ dàng hơn nhờ việc phát minh ra máy cắt lạnh (Cryostat), là
một tủ lạnh có nhiệt độ từ -200C đến -300C, bên trong chứa một lưỡi quay cắt
lát mỏng [62]. STTT ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Tại Việt
Nam, kỹ thuật này đã được sử dụng tại một số bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố
và hầu hết các bệnh viện tuyến trung ương.
STTT có thể áp dụng với nhiều cơ quan khác nhau, trong đó có TG.
Hầu hết các nước tiên tiến sử dụng phương pháp này với các khối u TG có chỉ

định PT. STTT cho kết quả rất chính xác mà các phương pháp khác không có
được. Đã có nhiều báo cáo về giá trị của phương pháp sinh thiết tức thì trong
chẩn đoán u TG của các tác giả nước ngoài như tác giả Batra có độ nhạy là


25

81,8%, độ đặc hiệu là 100% [63], tác giả Duek cho kết quả độ nhạy 83,3% và
độ đặc hiệu là 95,2% [64]. Tại Việt Nam cũng có một số báo cáo của Đặng Thế
Căn và CS nghiên cứu trên 1917 BN làm sinh thiết tức thì tại bệnh viện K từ
7/1996 - 7/2001 thì độ chính xác, độ đặc hiệu của xét nghiệm chung cho các loại
u là 96,03% và 97,9% [65]. STTT được tiến hành ngay trong PT, thông thường
khối u giáp ở một thùy sau khi được cắt bỏ được gửi đến khoa GPB, làm đông
cứng, cắt lát mỏng, nhuộm H&E và đọc kết quả trên kính hiển vi. Nếu kết quả
STTT được trả lời là ác tính, PT viên sẽ ra quyết định khi BN đang còn trên bàn
mổ đó là cắt bỏ phân TG còn lại. Điều này mang lại nhiều lợi ích cho BN như
tránh phải mổ lại, hạn chế các tai biến PT và tiết kiệm chi phí.
1.2.4.3. Đặc điểm MBH ung thư biểu mô TG (UTBMTG)
UTBMTG thể nhú (UTBMTG thể hỗn hợp nang và nhú)
Đây là loại thường gặp nhất (65-85%) trong UTBMTG, tuổi trung bình
từ 30-49, nữ gặp nhiều hơn nam (Đối với lứa tuổi thiếu niên, trên 90% các
trường hợp UTBMTG gặp ở nữ giới).Có hai đặc điểm nổi bật để xác định
UTBMTG thể nhú, đó là cấu trúc nhú và biến đổi nhân tế bào.
UTBMTG thể nang (UTBM tế bào ưa eosin, UTBM tế bào Hurthle)
Chiếm 5-15% các UTBMTG, nhóm tuổi cao hơn thể nhú.
Vi thể: các tế bào u xếp thành nang nhỏ, dạng đặc hoặc dạng bè, nhân tế bào
không điển hình, hạt nhân rõ và có thể có nhân chia.
UTBM tế bào vảy
Là một khối u ác tính bao gồm các tế bào biệt hoá dạng tế bào vảy. Nó
chiếm tới 1% các ung thư của TG, thường gặp ở nữ với tỷ lệ nam/nữ là 1/2.

UTBMTG thể vảy điển hình thường là một khối u lớn phát triển ở một hoặc
cả hai thuỳ TG và thường có các cục vệ tinh nhỏ xung quanh, u thường thuần
nhất, mặt cắt màu trắng hơi xám với những vùng hoại tử.
Trong UTBM không biệt hoá hoặc UTBM thể nhú có thể gặp những
vùng biệt hoá vảy, tuy nhiên nó không phải là dấu hiệu của UTBMTG thể


×