LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
13:29' 18/10/2006
Nam Định - mảnh đất Xứ Nam, quê hương nhà Trần, lừng lẫy hào khí Đông A – “ non sông
muôn thủa vững âu vàng“. Một mảnh đất có vị thế hết sức đặc biệt trong suốt tiến trình
lịch sử Việt Nam. Đó là miền đất văn hiến,” địa linh, nhân kiệt”, nơi sinh dưỡng biết bao
trạng nguyên, khôi nguyên và nhiều trí thức làm rạng danh non sông đất nước; một vùng
văn hoá đặc sắc, hoà quyện và đan sen văn hoá biển và văn hoá châu thổ, văn hoá bác
học và văn hoá dân gian. Mảnh đất Xứ Nam đất hẹp người đông, đầu sóng ngọn gió ấy
đang vươn lên hội nhập vào xu thế phát triển của đất nước và thời đại.
Nằm ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng Nam Định có diện tích tự nhiên 1641,3km
2
, bằng 0,5% diện tích cả nước. Tỉnh
Nam Định phía Đông giáp tỉnh Thái Bình, phía tây giáp Ninh Bình, phía nam và đông nam giáp biển Đông, phía bắc giáp Hà
Nam.
Là mảnh đất nằm giữa hai con sông lớn: sông Hồng và sông Đáy tạo nên địa giới tự nhiên giữa Nam Định với hai tỉnh Ninh
Bình, Thái Bình. Sông Đào phân chia Nam Định thành hai vùng Nam - Bắc. Sông Ninh Cơ, sông Sò là giới hạn các huyện
trong tỉnh. Nam Định có bờ biển dài 72km, vùng kinh tế giàu tiềm năng có khả năng triển khai, thực hiện nhiều đề án phát
huy thế mạnh kinh tế biển của tỉnh.
Theo các công trình nghiên cứu khoa học, miền đất Nam Định hình thành cách đây khoảng 70 triệu năm do ảnh hưởng tạo
sơn thời kỳ Đại Tân Sinh, nâng ghềnh phía nam sông Hồng cao lên, biển Đông lùi dần và từng bước hình thành đồng bằng
châu thổ Sông Hồng. Dấu tích các loài động - thực vật có ở các vùng biển và những hóa thạch tìm thấy trong lòng đất cho
thấy: đây là vùng đất mầu mỡ, phì nhiêu, tạo cơ hội cho con người quần tụ thành cộng đồng đông vui và khá sầm uất.
Mảnh đất Nam Định đựơc chia thành hai vùng tự nhiên. Phía tây bắc trước đây là những ô trũng thường bị ngập úng quanh
năm và có một số đồi núi đứng chơ vơ: núi Gôi (Côi Sơn), núi Ngăm (Trang Nghiêm), núi Nề (Thanh Nê), núi Hồ (Hồ Sơn);
núi Tiên Hương, núi Phương Nhi, núi Ngô Xá, núi Mai Sơn thuộc hai huyện Vụ Bản, Ý Yên. Đồi núi của Nam Định không cao
và có dòng chảy của khe ngòi liền kề tạo lên cảnh non nước hữu tình. Non Côi - Sông Vị là biểu tượng của Nam Định được
cả nước biết đến. Phía nam tỉnh được phù sa Sông Hồng, Sông Đáy bồi đắp nên miền đất này tương đối bằng phẳng, phì
nhiêu.
Phố cổ Nam Định
Song để làm nên vùng non nước hữu tình, mồ hôi, nước
mắt và cả máu của biết bao thế hệ người dân đã đổ xuống
nơi đây để quai đê, ngăn mặn, khai phá sông ngòi, đào
ao, vượt thổ tạo nên vùng đồng quê trù phú. Từ xa xưa,
người nguyên thuỷ từ miền núi cao đã di cư xuống vùng
đồng bằng do biển lùi dần về phiá nam. Các dấu vết con
người ở đây được xác định thuộc hậu thời kỳ đồ đá mới
hoặc sơ kỳ thời đồ đồng cách đây chừng 5.000 năm.
Công cuộc di cư và những tiến bộ trong trồng trọt, chăn
nuôi, khai thác, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối..... đã tạo
nên làng ấp. Dần dà, dân cư đến quần tụ tại vùng đất này
ngày một đông, góp phần hình thành cộng đồng cư dân có
chung mục đích, đoàn kết, hợp sức đấu tranh với thiên
nhiên. Vì thế, cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên của
con người nơi đây là bản anh hùng ca của nhiều thế hệ kế
tiếp nhau, làm phong phú thêm nét đẹp truyền thống văn
hoá làng, xã, tuy bình dị nhưng giàu tính nhân văn và liên
tục phát triển.
Thời thuộc Đường, Nam Định thuộc huyện Chu Duyên. Đời Trần được gọi là lộ Thiên Trường, sau lại chia làm 3 lộ: Kiến
Xương, An Tiêm, Hoàng Giang. Thời thuộc Minh, vùng đất này được chia làm 3 phủ: Trấn Nam, Phụng Hoá, Kiến Bình. Đời
lê, thuộc xứ Sơn Nam, đến niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 năm 1741, vùng đất này thuộc lộ Sơn Nam Hạ. Đến triều Nguyễn,
năm 1832 đổi tên thành tỉnh Nam Định, với 4 phủ, 18 huyện bao gồm phần đất tỉnh Thái Bình hiện nay. Năm 1890, Thái Bình
tách ra thành tỉnh riêng. Nam Định còn lại 2 phủ và 9 huyện.
Từ năm 1926, tỉnh Nam Định có 2 phủ và 7 huyện, 78 tổng, 708 xã (phủ là cấp trung gian, tương đương với cấp huyện).
Riêng thành phố Nam Định có 10 phường, đến những năm 1930, địa giới hành chính của tỉnh Nam Định không có nhiều
thay đổi.
Cổng Thành Nam Định
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, các đơn vị hành chính trong tỉnh luôn có sự thay đổi. Trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, tỉnh Nam Định thuộc liên khu ba. Năm 1953, 7 xã Bắc sông Đào thuộc huyện Nghĩa Hưng được cắt nhập vào
huyện Ý Yên. Đồng thời, 03 huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên nhập vào tỉnh Hà Nam. Đến tháng 4-1956, 03 huyện này lại được
cắt trả cho tỉnh Nam Định.Tháng 5-1965, Nam Định hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà. Cuối năm 1967, 02 huyện
Giao Thuỷ và Xuân Trường hợp thành huyện Xuân Thuỷ. Tháng 3 - 1968, 07 xã phía nam sông ninh Cơ thuộc huyện Trực
Ninh nhập với huyện Hải Hậu, 02 huyện Trực Ninh, Nam Trực nhập thành huyện Nam Ninh. Năm 1976, Nam Hà và tỉnh
Ninh Bình hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đến năm 1991, lại chia tách và tái lập tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình.Tháng 11
– 1996, tách tỉnh Nam Hà để tái lập 02 tỉnh là Nam Định và Hà Nam. Sau đó, trong nội bộ tỉnh Nam Định, các huyện hợp
nhất trước đây lại được chia tách và tái lập như cũ, đó là: Xuân trường, Trực Ninh, Giao Thuỷ, Nam Trực và tái lập huyện
Mỹ Lộc (gồm 10 xã). Năm 1997, xã Nam Vân, Nam Phong được cắt nhập từ huyện Nam Trực về thành phố Nam Định. Như
Bản đồ hành chính Nam Định
vậy, đến cuối thế kỷ XX, tỉnh Nam Định có 10 đơn vị hành chính, bao gồm: 1 thành phố và 9 huyện, 225 xã phường, thị trấn.
Mảnh đất địa linh, nhân kiệt
Nam Định là mảnh đất “địa linh, nhân kiệt”, nơi phát tích của triều Trần (thế kỷ XIII – XIV) và sinh dưỡng nhiều danh nhân,
danh sĩ, võ tướng mà tên tuổi và sự nghiệp của họ đã được sử sách ghi công, nhân dân tôn thờ mà nổi bật là Quốc Công
Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Nam Định là đất văn hiến, có truyền thống hiếu học, với trường thi được lập
từ thời Lê ở làng Năng Tĩnh. Trong chế độ khoa bảng thời phong kiến, Nam Định có 5 trạng nguyên, 3 bảng nhãn, 3 thám
hoa, 14 hoàng giáp, 62 tiến sĩ và phó bảng, riêng làng cổ Hành Thiện có 91 vị đỗ đại khoa và cử nhân. trong đó nổi danh là
Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Đào Sư Tích, Vũ Tuấn Chiêu, Trần Văn Bảo, Trần Bích San,...
Với bản chất lao động cần cù, cùng truyền thống đoàn kết, nhân dân Nam Định đã chinh phục thiên nhiên. Truyền thống đó
ngày càng được hun đúc và phát huy mạnh mẽ mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm. Nam Định cũng là đất thượng võ, thời
nào cũng có tướng sĩ tài giỏi.
Đời Trần, nhân dân Nam Định đã góp phần ba lần đánh thắng đế quốc Nguyên – Mông. Thời thuộc Minh, nhân dân ủng hộ
nghĩa quân của Trần Triệu Cơ đánh thắng trận Bồ Đề, buộc tướng Mộc Thạch tháo chạy về thành Cổ Lộng. Trong khởi
nghĩa nam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, người dân Nam Định đã bí mật liên hệ với nghĩa quân giết giặc, cứu nước. Đặc biệt với
nghề rèn truyền thống, người dân Vân Chàng đã ngày đêm rèn vũ khí cho nghĩa quân. Ở Cổ Lộng - Chuế Cầu (Ý Yên), nhân
dân còn tham gia nghĩa quân Lam Sơn đánh thành Cổ Lộng giúp nghĩa quân tiến lên phía bắc tiêu diệt giặc Minh.
Khi nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy kéo quân ra Bắc, người Nam Định đã tích cực tham gia lập phòng tuyến
Tam Điệp góp phần làm cuộc thần tốc đánh đuổi giặc Thanh, giải phóng kinh thành Thăng Long. Dưới triều Nguyễn, do
chính sách cai trị hà khắc khiến nhân dân khổ cực, người dân Nam Định đã hợp sức nổi dậy chống lại quan quân triều đình
Huế.Trong đó, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nông dân do Phan Bá Vành chỉ huy.
Khi giặc đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) xâm lược nước ta, Phan Văn Nghị đã tập hợp nghĩa sĩ Nam Định tiến vào
Nam diệt thù. Thực dân Pháp đánh Bắc Kỳ và Nam Định, đề đốc Lê Văn Điểm, án sát Hồ Bá Ôn đã chỉ huy quân chiến đấu
ngoan cường bao vây quân địch. Phong trào Cần Vương được nhân dân trong tỉnh hưởng ứng, trong đó có cuộc nổi dậy ở
Nam Trực do cụ Nghè Giao Cù Hữu Lợi và cụ Vũ Đình Lục(Chỉ Sáu) chỉ huy.
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp câu kết với chế độ phong kiến tay sai ra sức khai thác, vơ vét tài nguyên, áp bức, bóc lột
nhân dân thậm tệ. Trong đó, thực dân Pháp đã xây dựng nhà máy dệt Nam Định lớn nhất Đông Dương, song chính sự ra
đời của nhà máy này đã tạo điều kiện khách quan để giai cấp công nhân trong tỉnh hình thành và không ngừng lớn mạnh.
Không cam chịu cảnh bần hàn, công nhân, nông dân và một số tầng lớp dân cư đã đoàn kết đấu tranh đòi quyền lợi. Đặc
biệt, kể từ khi Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh niên lập cơ sở ở Nam Định (1926-1927), phong trào đấu tranh không ngừng
lớn mạnh, với mục đích đòi quyền dân sinh, dân chủ, mang ý thức chính trị và giai cấp rõ rệt. Tháng 6-1929, Tỉnh uỷ lâm thời
được thành lập và chi bộ Đảng đầu tiên ở Nam Định ra đời, phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ từ thành thị đến nông
thôn. Nam Định trở thành một trong những trung tâm đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến mạnh nhất cả
nước.
Kể từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Nam Định đã
viết tiếp những trang sử vàng chói lọi về truyền thống chống giặc ngoại xâm và lao động cần cù sáng tạo, xây dựng Nam
Định ngày càng đàng hoàng hơn, giàu đẹp hơn.
Cố Tổng bí thư Trường Chinh
Điều kiện kinh tế xã hội
Nam Định là một trong những tỉnh có dân số đông trong cả nước và là nguồn lực rất quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội. Quá trình hình thành cộng đồng cư dân Nam Định gắn liền với quá trình cư dân người Việt từ vùng tiền
châu thổ tràn xuống lấn chiếm vùng châu thổ và duyên hải Bắc Bộ. Chính vì vậy, Nam Định là nơi hội tụ và là nơi
hợp cư của nhiều bộ phận cư dân khác nhau, trong đó chủ yếu là từ vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Sự hình thành
cộng đồng cư dân ở Nam Định cũng đồng thời gắn liền với quá trình phát triển nền nông nghiệp thâm canh trên
vùng đất phù sa màu mỡ. Chính vì vậy, mật độ dân số ở khu vực này là khá cao so với cả nước và với đồng bằng
Bắc Bộ (trừ các đô thị Hà Nội, Hải Phòng…) Nhiều làng xã ở Nam Định như nhận xét của Gourou và Vũ Quốc Thúc
có số lượng cư dân đông và mật độ dân số “lên đến mức kỷ lục”.
Theo các kết quả điều tra, Nam Định là tỉnh có dân số đông và lực lượng lao động khá lớn. Trong tổng số lao động, tỷ lệ
nam thấp hơn so với nữ, nhưng ngược lại, tỷ lệ lao động nữ không có chuyên môn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động và
so với nam giới. Tỉ lệ lao động không có chuyên môn cao: 90%, cao hơn mức bình quân ở đồng bằng sông Hồng là 84% và
cao hơn mức bình quân của cả nước là 88,2%. Do đó, trong quy hoạch, đào tạo lao động cần chú ý đào tạo lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Trong cơ cấu lao động xã hội Nam Định, lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ lớn gần 80% và nếu tính nhóm ngành nông
nghiệp thì tỷ lệ này chiếm trên 80% (năm 1996), so với bình quân cả nước là 70% (năm 1990). Nam Định là một trong
những tỉnh có tỷ lệ cư dân thành thị thấp so với khu vực nông thôn.
Hiện nay với dân số trên 1,8 triệu người, vốn cần cù, thông minh, giàu tài năng, nhưng GDP bình quân trên đầu người vẫn
thấp so với các tỉnh trong khu vực và trong cả nước. Do đó cần xác định chiến lược phát triển nguồn nhân lực ở khu vực
này. Dân cư Nam Định có trình độ học vấn cao hơn nhiều địa phương khác. Người dân Nam Định có truyền thống hiếu học.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, giáo dục Nam Định vẫn không ngừng phát triển, tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục trong
tổng chi tiêu địa phương (năm 1998) cao nhất cả nước. Rõ ràng, khâu đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn kỹ thuật là có điều
kiện nhưng chưa được phát huy có hiệu quả. Thực trạng lao động hiện nay cho thấy, tuy dồi dào, nhưng chất lượng còn hạn
chế. Cơ cấu lao động chuyển đổi chậm, thị trường lao động chưa phát triển, sự tăng trưởng chất lượng lao động chậm.
Mặc dù là địa phương có GDP bình quân ở mức trung bình so với mức bình quân trong cả nước, nhưng Nam Định lại có chỉ
số phát triển con người cao. Nam Định là địa phương đã có đầu tư ngân sách rất cao so với GDP trong các lĩnh vực giáo
dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và là một trong những tỉnh có an ninh lương thực cao ở đồng bằng Bắc Bộ. Số hộ
có nhà ở chiếm tỷ lệ cao và nhu cầu về nhà ở của người dân Nam Định về cơ bản đã được đáp ứng. Tỷ lệ dân số được tiếp
cận với nước sạch, sử dụng điện thắp sáng, điện thoại cao hơn nhiều tỉnh trong khu vực. Hệ thống giao thông, y tế, giáo dục
phát triển mạnh; chính vì vậy, khi phân tích chỉ số HDI, Nam Định được xếp vào nhóm các tỉnh, thành phố có chỉ số phát
triển con người cao. Đó là những thành tựu rất to lớn trong chiến lược phát triển con người.
Nam Định là một vùng văn hoá tiêu biểu và đặc sắc, với tính cách đặc trưng của miền “giao thuỷ”. Ăn, mặc, ở, đi lại của
người Nam Định vừa là sự thích nghi, hoà đồng của con người với tự nhiên, vừa là sự tận dụng và khai thác của con người
đối với môi trường tự nhiên ven sông, gần biển. Trên cái nền tín ngưỡng dân gian, của tục thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng
thành hoàng tại vùng phía Bắc của Nam Định, được quan niệm là một vùng “không gian thiêng” đã là nơi khởi phát và trở
thành trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu và thờ Đức thánh Trần. Vùng ven biển Nam Định lại là nơi đầu tiên tiếp nhận và
sớm trở thành mảnh đất màu mỡ cho Thiên chúa giáo nẩy mầm, bén rễ, trở thành một trung tâm Thiên chúa giáo lớn. Cả
Đê Giao Thuỷ-Nam Định
Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo và các tín ngưỡng dân gian khác đều song song tồn tại, phát triển, thậm chí
có khi hoà đồng trong mỗi làng xã, mỗi gia đình, làm cho đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của người Nam Định thật nổi trội,
phong phú và độc đáo.
Nam Định là một vùng quê văn hiến, một môi trường văn hoá tổng hợp, hoà quyện và đan xen văn hoá biển với văn hoá
miền châu thổ, văn hoá bác học với văn hoá dân gian, văn minh đô thị với văn minh thôn dã, giá trị tinh thần truyền thống với
tác phong công nghiệp hiện đại… Nam Định là một vùng đất học với nhiều trường học nổi tiếng và nhiều thầy giỏi, trò ngoan,
nhiều người người đỗ đạt cao, nhiều nhà văn hoá lớn, nhiều thành tựu khoa học, văn học, nghệ thuật ngang tầm quốc gia,
quốc tế.
Tựu trung lại, Nam Định là một vùng quê giàu truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng và lao động sáng tạo, một vùng
kinh tế, văn hoá, văn hiến tiêu biểu và có vị thế đặc biệt trong suốt chiều dài lịch sử đất nước.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, Nam Định đang hội tụ được cả hai lợi thế rất căn bản là kinh tế
biển và công nghiệp dệt – may. Nam Định lại là nơi có nguồn lao động rất dồi dào và chất lượng lao động đang ngày một
nâng cao cùng với sự nâng cao của trình độ văn hoá, học vấn, tay nghề và sự năng động, nhanh nhạy trong cơ chế thị
trường. Nam Định có hướng đầu tư đúng và có chỉ số phát triển con người cao. Lợi thế này không còn ở dạng tiềm năng mà
đang trở thành hiện thực sinh động.
Nam Định đang dần dần hội tụ được các yếu tố “thiên thời”, “địa lợi” và “nhân hoà” để phát triển
SỐ LIỆU THÔNG KÊ
Số liệu thông kê 6 tháng đầu năm 2006 | Số liệu thông kê 6 tháng cuối năm 2006
Một số chỉ tiêu xã hội
Một số chỉ tiêu xã hội Đơn vị tính
Ước tính 6 tháng
năm 2006
6 tháng 2006 so với cùng
kỳ năm 2005 (%)
1. Dân trung bình Ng. người 1980 101,6
2. Mẫu giáo
- Số trường Trường 256 104,5
- Lớp học Lớp 2437 102,9
- Giáo viên Người 3011 95,6
- Học sinh Cháu 67287 99,2
3. Trường học phổ thông Trường 580 99,8
4. Lớp học phổ thông Lớp 9700 97,2
5. Giáo viên phổ thông Người 15961 99,8
6. Học sinh PT giữa năm học HS 370307 96,3
- Tiểu học HS 151382 94,1
- Trung học cơ sở HS 154427 94,6
- Trung học phổ thông HS 64498 106,9
7. Thi tốt nghiệp phổ thông
- Tỷ lệ HS tốt nghiệp tiểu học % 100,00 100,00
- Tỷ lệ HS tốt nghiệp TH cơ sở % 99,90 99,95
- Tỷ lệ HS tốt nghiệp THPT % 99,87 99,70
8. Cơ sở y tế Cơ sở 250 100,0
Trong đó: Bệnh viện Cơ sở 17 100,0
9. Giường bệnh Giường 3545 102,0
10. Cán bộ y tế nhà nước Người 4350 100,8
Trong đó: Y, bác sĩ Người 1655 106,9