Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

LỜI HÁT KHÓC TRONG TANG LỄ CỦA NGƯỜI VIỆT Ở THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.87 KB, 42 trang )

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA ĐỀ TÀI
Họ và tên
Trương Hồng Phúc

Đơn vị công tác
Lớp SP Ngữ văn K11

Nhiệm vụ được giao
Chủ nhiệm đề tài

Y Tròng Dal Lôngding

Lớp SP Ngữ văn K11

Thành viên

Vũ Thị Tuyết

Lớp SP Ngữ văn K12

Thành viên

H’Bêli Êban

UBND xã Hòa Phú – Thành viên
TP.BMT

ĐƠN VỊ PHỐI HỢP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
- Phòng Văn hóa và thông tin thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.
- Bộ môn Văn học; Bộ môn Ngôn ngữ và Trung tâm Khoa học xã hội –
nhân văn Tây Nguyên, trường Đại học Tây Nguyên.



1


MỤC LỤC
Đơn vị công tác......................................................................................................................1
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..................................................................................2
1.TÍNH CẤP THIẾT VÀ MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI............................................................6
1.1 Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................................6
1.2 Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................................................8
2.TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU.........................................................................8
3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................9
3.2 Phương pháp nghiên cứu................................................................................................10
4.CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐẠT ĐƯỢC.................................................................10
4.1 Khái quát về hát khóc trong tang lễ của người Việt.......................................................10
4.1.1 Khái niệm “hát khóc”..................................................................................................10
4.1.2 Mục đích hát khóc.......................................................................................................11
4.1.3 Đặc trưng của lời hát khóc trong tang lễ của người Việt............................................14
4.1.3.1 Không gian – Thời gian....................................................................................14
4.1.3.2 Đối tượng của hát khóc....................................................................................17
4.1.4 Tiểu kết........................................................................................................................18
4.2 ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG CỦA LỜI HÁT KHÓC TRONG TANG LỄ CỦA
NGƯỜI VIỆT Ở THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT.........................................................19
4.2.1 Phân loại......................................................................................................................19
4.2.1.1 Lời hát khóc trong các nghi lễ cúng tế cho người chết....................................20
4.2.1.2 Lời hát khóc theo vai................................................................................................21
4.2.2 Đặc điểm về nội dung.................................................................................................23
4.2.2.1 Mối quan hệ của người còn sống đối với người chết.......................................23
4.2.2.2 Phản ánh gia cảnh của người chết và thân nhân...............................................27
4.2.2.3 Triết lí nhân sinh của dân gian người Việt........................................................29

4.2.3 Tiểu kết........................................................................................................................32
4.3 GIÁ TRỊ CỦA LỜI HÁT KHÓC TRONG TANG LỄ CỦA NGƯỜI VIỆT Ở THÀNH
PHỐ BUÔN MA THUỘT....................................................................................................33
4.3.1 Giá trị tinh thần...........................................................................................................33
4.3.2 Giá trị giáo dục............................................................................................................35
4.3.4 Tiểu kết........................................................................................................................37
KẾT LUẬN..........................................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................41

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ
2


Tên đề tài: Lời hát khóc của người Việt ở Thành phố Buôn Ma Thuột
Chủ nhiệm đề tài: Trương Hồng Phúc

Tel: 0935852189

Email:
Đơn vị chủ trì: Khoa Sư phạm
Cơ quan và cá nhân phối hợp thực hiện:
- Phòng Văn hóa và thông tin thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.
- Bộ môn Văn học; Bộ môn Ngôn ngữ và Trung tâm Khoa học xã hội –
nhân văn Tây Nguyên, trường Đại học Tây Nguyên.
Thời gian thực hiện: 01/2014 – 12/2014
1. Mục tiêu
Sưu tầm lời hát khóc trong tang lễ của người Việt tại thành phố Buôn
Ma Thuột nhằm chỉ ra những đặc điểm về nội dung, giá trị của nó đối với
đời sống tâm linh của người Việt ở thành phố Buôn Ma Thuột.

2. Nội dung chính
Nhóm nghiên cứu tiến hành thống kê, phân loại, sắp xếp các bài hát
khóc thành từng chủ đề. Phân tích những bài hát khóc đó nhằm làm sáng
tỏ mục đích, đặc trưng, nội dung và giá trị của nó đối với đời sống văn hóa
tinh thần của người Việt ở Thành phố Buôn Ma Thuột.
3. Kết quả đạt được
Lời hát khóc trong tang lễ của người Việt là một loại hình nghệ thuật hết
sức độc đáo của dân gian được thể hiện trong sinh hoạt văn hóa tang lễ. Lời
hát khóc chính là nét đẹp trong truyền thống văn hóa tâm linh của người Việt
Nam, nó thể ý thức về tình yêu thương, giáo dục con người; đồng thời đó là
phương tiện để truyền tải những tâm tư, nguyện vọng, ước muốn của người
còn sống dành cho người đã khuất hoặc ngược lại. Chúng tôi thực hiện khảo
sát thực tế, sưu tầm lời hát khóc trong tang lễ của người Việt tại thành phố
Buôn Ma Thuột, ghi nhận và biên tập được 93 bài hát khóc từ các nghệ nhân
hát khóc. Qua thực hiện thao tác sắp xếp, phân loại chúng tôi đã chia được các
bài hát khóc thành 2 nhóm chính; từ đó phân tích để thấy được những đặc
3


điểm về nội dung và giá trị của nó trong sinh hoạt văn hóa dân gian của cộng
đồng người Việt ở thành phố Buôn Ma Thuột.
Lời hát khóc trong tang lễ của người Việt không chỉ là những câu khóc kể
đơn thuần, mà bên trong nó còn ẩn chứa những giá trị đặc sắc về tinh thần và
văn hóa dân tộc. Việc nghiên cứu để tìm ra được khái niệm, mục đích và
những đặc trưng của lời hát khóc là vấn đề rất cần thiết. Trong công trình này,
chúng tôi đã đưa ra những phác họa ban đầu về lời hát khóc trong tang lễ của
người Việt ở Buôn Ma Thuột, đồng thời khẳng định giá trị của nó với đời
sống tinh thần trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong tang lễ ở khía cạnh
nội dung và giá trị của lời hát khóc. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã cho
người đọc những khái quát về loại hình hát khóc nói chung và một số đặc

điểm chính của lời hát khóc về nội dung và giá trị.

SUMMARY
4


Title: “This is regretful crying lyrics in the vietnamese's funeral at
Buon Ma Thuot city”
Coordinator: Truong Hong Phuc

Tel: 0935852189

Email:
Affiliation: Faculty of pedagogical
Cooperating Institution(s) and individual(s):
- Culture and information department of Buon Ma Thuot city, Dak Lak
province
- Literature subject, language subject, and Tay Nguyen humanity science society center, Tay Nguyen university.
Timeline: 01/2014 – 12/2014
1. Objectives
Collecting regetful crying lyrics in the vietnamese's funeral at Buon Ma
Thuot city is the way to show its characteristics about content and its value
toward the spiritual life of vietnam people at Buon Ma Thuot city.
2. The main contents
Researchers classified, arranged regetful crying songs with each its
themes. We analysed them to understand the target, characteristics, content,
and values toward the spiritual life of vietnamese at Buon Ma Thuot city.
3. Results
Regretful crying lyrics in the vietnamese's funeral is orginal art of folklore
which is showed in many activities of the funeral. Regretful crying songs is

the beauty in the cultural and spiritual tradition of Vietnam people. It
expresses the love and educates people. Moreover it is a mean to convey
thoughts, aspirations and desires of human being for dead people or vice
versa. We are reseaching a real survey about collecting the regretful crying
lyrics in the Vietnamese's funeral at Buon Ma Thuot city. We took and edited
93 songs of artists. Through survey, we diviced regertful crying songs into
two groups and then we analysed them to understand its content as well as its
value in living activities of folklore of Vietnam people at Buon Ma Thuot city.
5


Regretful crying lyrics is not only crying songs but it also contains many
greatly spiritual value and ethnic culture. It is necessary to research definition,
purpose and characteristics of regretful crying lyrics. In this convey, we give
you some general infomation about regretful crying lyrics in the vietnamese's
funeral at Buon Ma Thuot. Moreover, they affirm its value in the spiritual life
of. The result of research give reader general information and some main
characteristics about content and value of the regretful crying lyrics.

1. TÍNH CẤP THIẾT VÀ MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Theo quan niệm của người Việt, cuộc sống con người sẽ được đánh dấu
bởi những dấu hiệu của sự sinh ra, trưởng thành, lập gia đình và chết đi. Cả
một cuộc đời như thế, mang tiếng hay mang danh phụ thuộc vào cách sống,
6


cách ứng xử của bản thân người đó. Thế nhưng, dù là người xấu hay tốt thì
khi mất đi họ đều được gia đình, người thân tổ chức lễ tang một cách rất long
trọng, trang nghiêm sao cho phù hợp với hoàn cảnh của gia đình mình. Trong

lễ tang, chúng ta có thể nghe được những lời than khóc của thân nhân người
quá cố hòa lẫn vào những giọt nước mắt đau buồn vì mất đi người thân.
Những lời than trong tiếng khóc ấy là gì? Nó được thể hiện như thế nào? Đây
là một vấn đề mà hầu như chúng ta còn rất mờ nhạt, dù cho việc này vẫn diễn
ra rất phổ biến và dường như đã trở thành phản xạ trong tang lễ của người
Việt.
Buôn Ma Thuột là thành phố trung tâm của tỉnh Đăk Lăk, được thành
lập theo nghị định “thành lập thị xã Buôn Ma Thuột (Centre Urbain)” vào
ngày 5/6/1930 của Khâm sứ Trung kỳ. Lúc bấy giờ người Việt (kinh) lên lập
nghiệp tại tỉnh Đăk Lăk còn ít nên người Việt chỉ được tập trung ở thị xã
Buôn Ma Thuột, sinh sống thành một “làng người Kinh ở Buôn Ma Thuột lấy
tên là làng Lạc Giao với 160 dân và 152 685m2 diện tích” [10,21]. Hiện nay,
thành phố Buôn Ma Thuột dân số có gần 340.000 người, gồm 40 dân tộc cùng
sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có 55.590 người (chiếm 16,36%
dân số toàn Thành phố), còn lại là người Kinh (Việt).
Thành phố Buôn Ma Thuột đã trở thành nơi quy tụ của người Việt ở
khắp nơi trên cả nước. Có thể nói rằng đây là nơi quần cư, hội tụ của của cả
người Việt ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Đây là cơ hội để văn hóa
các vùng miền đất Việt được giao lưu, hội nhập lẫn nhau, tạo nên nét đặc sắc
tự nhiên về văn hóa người Việt ở thành phố cao nguyên đầy nắng và gió này.
Vấn đề sinh hoạt văn hóa tang lễ của người Việt ở thành phố Buôn Ma
Thuột không nằm ngoài sự giao lưu, tiếp biến văn hóa ấy. Cách thức tổ chức
tang ma theo văn hóa vùng miền tồn tại rất rõ nét; nhìn vào tang lễ của một tư
gia chúng ta có thể nhận biết ngay được đó là người Việt ở vùng miền nào;
điều này được thể hiện rõ nét thông qua lời hát khóc trong tang lễ.
Để có một cái nhìn tổng thể về vấn đề đáng quan tâm này, từ góc độ
văn hóa tâm linh, phong tục tập quán của người Việt và đặc điểm của người
7



Việt ở thành phố Buôn Ma Thuột, chúng tôi triển khai đề tài“Lời hát khóc
trong tang lễ của người Việt ở thành phố Buôn Ma Thuột” thông qua khảo sát
thực tế ở các “nghệ nhân hát khóc” trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Sưu tầm lời hát khóc trong tang lễ của người Việt tại thành phố Buôn Ma
Thuột nhằm chỉ ra những đặc điểm về nội dung, giá trị của nó đối với đời
sống tâm linh của người Việt ở thành phố Buôn Ma Thuột.

2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Tang lễ là một phong tục, đồng thời là hoạt động sinh hoạt văn hóa rất
quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Đây là một trong những
đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả. Ngay từ triều Bảo Thái, Hồ Sỹ Tân
(1690 – 1760) đã dựa vào việc tổ chức tang lễ thực tế trong dân gian mà tác
giả thảo ra cuốn Thọ Mai Gia Lễ trong đó đề cập chủ yếu đến cách thức tổ
chức lễ tang của người Việt xưa và ý nghĩa của những nghi lễ đó. Tiếp theo,
8


Phan Kế Bính – tác giả của Việt Nam phong tục được NXB TP. HCM tái bản
năm 1990 cũng đã đề cập rất trực tiếp về những nghi thức trong tang lễ ở
thiên thứ nhì: nói về phong tục hương đảng, phần XXIV: việc hiếu. Hay trong
Cơ sở văn hóa Việt Nam của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm được NXB Giáo
dục xuất bản năm 2008, ở chương IV: Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, bài
2: Phong tục, phần 2.2: Phong tục tang ma; tác giả Đào Duy Anh viết trong
Việt Nam văn hóa sử cương (NXB TP. HCM 1992) tại thiên thứ 3: xã hội và
chính trị sinh hoạt, phần tín ngưỡng và tế tự cũng đã phân tích rất rõ ràng, và
chi tiết những nghi lễ, việc làm từ khi con người lâm chung cho đến lúc xả
tang…
Các tác giả đề cập tổng thể về mặt nghi lễ và ý nghĩa trong tang lễ của
người Việt; tuy nhiên lời hát khóc trong tang lễ của người Việt chưa được chú

ý. Phạm vi đề cập của những tác giả trên chủ yếu là tang lễ của người Việt ở
các tỉnh phía Bắc chứ chưa có tác giả nào nghiên cứu về tang lễ của người
Việt nói chung và lời hát khóc nói riêng tại địa bàn thành phố Buôn Ma
Thuột.
Việc thực hiện đề tài “Lời hát khóc trong tang lễ của người Việt ở thành
phố Buôn Ma Thuột” không chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết mà còn có ý
nghĩa về mặt thực tiễn.

3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: đề tài tập trung nghiên cứu “lời hát khóc trong tang lễ của
người Việt”
Phạm vi: thông qua khảo sát, sưu tầm các bài hát khóc từ những nghệ nhân
hát khóc ở thành phố Buôn Ma Thuột.
9


3.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sử dụng các tài liệu có liên quan làm
cơ sở cho đề tài.
Phương pháp điều tra, điền dã: được thực hiện thông qua một số tang
lễ, các đoàn kèn giải và một số nghệ nhân hát khóc trên địa bàn thành phố
Buôn Ma Thuột.
Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân loại nhằm sắp xếp, phân loại tư
liệu thu được theo từng nội dung, từng chủ đề.
Phương pháp phân tích được sử dụng để nhận diện đặc điểm về nội
dung, vai trò và giá trị của lời hát khóc trong tang lễ của người Việt ở
thành phố Buôn Ma Thuột.
Phương pháp chuyên gia được thể hiện thông qua hội thảo, seminar cấp
bộ môn để tham khảo ý kiến của các nhà khoa học về kết quả nghiên cứu

và giá trị của đề tài.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng kết hợp các phương pháp so sánh, đối
chiếu để thấy rõ sự tương đồng, khác biệt và biến đổi của lời hát khóc
trong tang lễ giữa các nhóm người Việt ở thành phố Buôn Ma Thuột. Từ
đó có những phân tích, nhận định đúng với giá trị và nội dung của hát khóc
đối với đời sống tinh thần của cộng đồng hiện nay.

4. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐẠT ĐƯỢC
4.1 Khái quát về hát khóc trong tang lễ của người Việt
4.1.1 Khái niệm “hát khóc”
Hát khóc là một hình thức khóc có xen lẫn lời kể lể lẫn tiếng khóc trong
tang lễ nhằm thể hiện sự thương tiếc, bi ai của người sống đối với người đã
khuất.
10


Trong tang lễ hát khóc đã trở thành một hoạt động rất quan trọng,
không thể thiếu. Nó gắn liền với tâm tư, nguyện vọng, sự tiếc thương, đau xót
của người sống đối với người ra đi. Đây chính là nét độc đáo trong sinh hoạt
văn hóa lễ tang của các dân tộc Việt Nam nói chung người Việt nói riêng.
Hát khóc trong tang lễ đã trở thành một trong những đối tượng nghiên
cứu của những nhà folklore. Vì vậy nghệ thuật này đã được một số nhà
nghiên cứu quan tâm nghiên cứu. Trong công trình “Phong tục tang lễ”, nhà
nghiên cứu Phạm Minh Thảo đã cho rằng: “Sau lễ thành phục, phường nhạc
phải đứng túc trực bên cạnh linh cữu. Khi có khách tới viếng phải thổi kèn và
nổi trống cho khách làm lễ. Phường nhạc này dân gian gọi là nhạc hiếu.
Nhạc hiếu trong tang lễ là các điệu làn khốc làn thảm, làn ai, già nam, v.v…
nhằm chia buồn, kể lể sư xót xa thương tiếc, nói hộ nỗi niềm tình cảm của
người đến viếng và tạo nên không khí trang nghiêm (…) Xưa, phường nhạc
hiếu thường có những bài riêng, thay lời con khóc cha mẹ, vợ khóc chồng,

cháu khóc ông bà, anh chị em khóc nhau… Dân gian có câu “sống đèn dầu,
chết kèn trống” là nghĩa như vậy. Xét về một khía cạnh nào đó, đây là một
việc làm có văn hóa, một hình thức để tưởng niệm” [7,236]
Hay trong công trình “Việt Nam phong tục”, học giả Phan Kế Bính
cũng đã nhận định: “Thổi kèn giải: Trong những đêm ma còn quàn ở nhà, có
nhà mỗi tối mời phường bát âm gảy đàn thổi sáo và có phường tang nhạc
thổi kèn đánh trống. Con cháu, mỗi người thổi một câu khóc ông bà cha mẹ,
rồi thưởng tiền cho bọn ấy. Nhà nào không có kèn giải thì không vui” [2,32]
Như vậy, từ những nhận định này của các nhà nghiên cứu chúng tôi đưa
ra khái niệm hát khóc trong tang lễ của người Việt là: “Hát khóc chính là một
hình thức khóc, trong đó có đan xen giữa lời ai oán, kể lể bi thiết cùng với âm
thanh não nùng của dàn nhạc bát âm để làm bật lên sự thương tiếc, bi ai của
người còn sống đối với người đã chết”.
4.1.2 Mục đích hát khóc
Thứ nhất, hát khóc là cách để bày tỏ sự thương tiếc của người còn lại
đối với người ra đi. Để vơi bớt nỗi đau buồn, thông qua hát khóc con người có
11


dịp thể hiện cảm xúc của mình với người ra đi, gia đình, dòng họ và cộng
đồng; điều này có thể thấy rõ trong đoạn khóc sau:
“Công cha nghĩa mẹ phù lao
Trong công đức ấy biết bao nhiêu là
Than ôi (vai người mất) vội về già
Từ nay khuất bóng đường xa bụi trần
Con nay thương nhớ muôn phần
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Nghĩa (vai người mất) con để trên đầu hôm nay
Suối vàng (vai người mất) hỡi có hay

Than ôi vĩnh biệt là ngày hôm nay
Bây giờ (vai người mất) vội ra đi
Trăm năm ngàn kiếp chẳng nhìn thấy đâu.” [4,11]
Qua lời khóc trên, người nghe có thể cảm nhận được lời thương tiếc
của người con dành cho cha hoặc mẹ. Đồng thời đoạn khóc trên còn cho
chúng ta cảm nhận được sự luyến tiếc, xót xa, thậm chí đó còn là sự bối rối và
lời chia ly trong nỗi đau thương tột cùng. Không còn nhìn thấy bóng hình mẹ
cha nữa, người con kia chỉ còn biết than khóc để giãi bày sự nhớ thương của
mình.
Hay trong bài khóc Vắng mẹ cũng vậy:
“Dung mạo một mai vắng vẻ, bão xô cây, nghĩ lại ngậm ngùi thay. Âm
dương đôi ngả xa vời, mây phủ núi, trông càng đau đớn nhẽ! Sương bay chớp
nhoáng, bạch vân nghi ngút, cõi phù sinh. Con mất mẹ rồi, mẹ ơi!” [4,12].
Qua lời khóc trên, người nghe có thể thấu hiểu được tâm trạng của người con
có hiếu, xót thương, đau đớn vì mất mẹ, người con ấy đã mượn lời hát khóc
để tỏ bày nỗi lòng của mình.
Thứ hai, hát khóc là bức thông điệp về cuộc đời, gia cảnh của cả người
chết và người sống. Điều này được thể hiện trong các bài khóc kể công.
12


Bài khóc Đời cha có một đoạn như sau: “Cha đà yên nghỉ bên bờ đê,
gốc nhãn. Bỏ đàn con thơ, cui cút tháng ngày. Mới hôm qua còn thấy cha bệ
vệ, oai phong, dang tay lớn che chở đàn con nhỏ. Việc đồng ruộng cha giành
làm lớn, để mẹ con ở nhà với đám con. Mới năm ngoái trời còn hạn, khô héo,
một mình cha toan ghánh nước đưa phân. Con thơ dại nhìn cha gầy than
khóc, đói bát cơm tinh, cỗ thịt ngon lành. Ôi cha ơi! (số người con) miệng ăn
nheo nhóc, thân cha lăn, góc bể chân trời. Mong con lớn đủ đầy cùng trang
lứa, vượt sức trời cha nuôi lớn chúng con. Vậy mà nay còn đâu cha hỡi, ôi
con đau, con lỗi lớn với đời” [4,12]. Nghe lời khóc kể chúng ta biết hoàn

cảnh của một gia đình nông thôn, chuyên việc đồng áng, nhà đông con, nhưng
chỉ một mình cha lo việc kiếm tiền. Người cha này không quản nại mưa nắng
gió sương, khổ cực để nuôi con.
Thứ ba, hát khóc là cách để thể hiện ước mơ, khát vọng và triết lí sống
của dân gian. Con người không hề bế tắc, tuyệt vọng mà luôn mong muốn
người chết được thoát sanh về một cõi yên vui, được luân hồi trở lại làm
người. Khi quan sát các hoạt động trong tang lễ, cũng như trong hát khóc
chúng ta hiểu được quan niệm sinh tử của dân gian. Ví như bài khóc sau đây
cho người nghe cảm nhận được ước muốn của người ở lại:
“Xót thay con khóc mẹ cha
Nay đà yên nghỉ giấc an nghìn trùng
Hỡi ơi, tâm trí não nùng
Mông lung thiết nghĩ hướng về mẹ cha
Một là ước mẹ hóa sanh
Hai là con ước được thân làm người
Ước thứ ba nguyện cha cười thanh thoát
Để hồn kia giải thoát kiếp hồi luân
Con nguyện ước cho cha mẹ tiền kiếp
Được hậu sanh cũng chàng thiếp ngàn năm” [4,12]
Đó là lời nguyện ước của người con mong muốn cho thân sinh phụ mẫu
của mình được vãng sanh về miền cực lạc và cầu cho cha mẹ được hóa kiếp
13


làm người, mãi mãi bên nhau theo quan niệm luân hồi của dân gian người
Việt.
Như vậy, hát khóc chính là phương tiện để con người thể hiện những
ước mơ, khát vọng của mình về sự bất tử, không hề có sự chia ly, xa cách.
Điều này được thể hiện rõ ràng nhất qua hát khóc và các nghi lễ thực hiện cho
người quá cố trong tang lễ. Đây chính là sản phẩm được sáng tạo ra từ quan

niệm sống bất biến, vĩnh cửu của người Việt nhằm phục vụ cho tinh thần của
con người nói riêng và cộng đồng nói chung.
Trong bất kỳ một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian nào cũng đều có
thời gian - không gian thể hiện, đối tượng, vai trò, ý nghĩa. Hát khóc trong
tang lễ của người Việt cũng vậy, loại hình nghệ thuật dân gian này có đầy đủ
những đặc trưng riêng về không gian – thời gian, đối tượng, vai trò, ý nghĩa.
Chúng tôi sẽ kiến giải các đặc trưng này qua nội dung dưới đây.
4.1.3 Đặc trưng của lời hát khóc trong tang lễ của người Việt
4.1.3.1 Không gian – Thời gian
Không gian: Hát khóc là một loại hình văn hóa dân gian đặc biệt, khó
có thể bắt gặp trong các cuộc vui hoặc trong các câu chuyện buồn từ đời sống,
mà ta chỉ có thể biết đến trong môi trường của tang lễ kể từ khi có người tắt
thở cho đến lúc người ấy được hạ huyệt. Ngoài ra người ta có thể hát khóc ở
những không gian sau lễ tang, vào những lần thực hiện các nghi thức cúng
cho người chết, cụ thể: 3 ngày, 1 tuần, 3 tuần, 7 tuần, 100 ngày, giáp năm,
cũng có khi là vào lúc xả tang. Qua khảo sát thực tế chúng tôi nhận thấy có 2
không gian chính để diễn xướng hát khóc, đó là:
Địa điểm hát khóc thứ nhất được diễn ra tại tư gia: ngay bên cạnh
người mất khi chưa khâm liệm, và ở trước linh sàng khi đã khâm liệm. Vào
lúc này, những người thân trong gia đình, dòng họ khóc than như muốn níu
kéo người đã mất như đoạn khóc sau:
“Mẹ ơi! Nước sông Chu chảy khi mô mà cạn, con mất mẹ biết mấy đời
nào nguôi. Ni mẹ còn ở trong nhà, tay đã buông xuôi, khép mắt hờ nhìn con.
Con gọi mẹ không lời thưa, lời đáp; rồi mai đây mẹ ra đồng sương gió, con
14


gục đầu lên cỗ quan ai?” [4,12] – Căn cứ vào nội dung ta có thể xác định
được đây là lời khóc của một người con khóc mẹ trong đêm trước khi di quan.
Hoặc đó là lời khóc của vợ trong lễ khiển điện (tức là nghi thức cúng

trước khi di quan) dành cho người chồng hoặc ngược lại:
“Tôi dẫn hai chữ ái ân
Vợ chồng là nghĩa thiên xuân thọ trường
Bỗng đâu bóng đã xế tà
Những lời châu ngọc khéo ra vô tình
Hoặc là nghiệp chướng tiền sinh
Mà đâu đến nỗi bạc tình tại ai
Vì đâu phụ bạc đơn sai
Mà nàng (chàng) lỡ bước sang ngang cách lòng” [4,23]
Trong không gian tại tư gia của tang lễ người ta thường thể hiện những
lời khóc mang tính chất níu giữ vì không muốn rời xa người thân của mình.
Ngoài ra hát khóc còn được thể hiện ở trước linh vị và di ảnh nơi đặt bàn thờ
ở nhà của người mất sau khi đã an táng xong. Đây là khi những người bà con
ở xa về không kịp đám tang thì sẽ bày tỏ sự mất mát người thân ngay trước
trang thờ; đó có thể là lời thương tiếc của người chị đối với người em xấu số:
“Em ơi em, em đi đâu mà chị tìm chẳng thấy, khắp căn nhà quạnh
vắng đìu hiu, chị cứ ngỡ được gặp em cười nói, mà giờ đây chỉ thấy tấm
tranh này”. [4,27]
Địa điểm hát khóc thứ hai đó chính là ở khu mộ địa: người hát khóc sẽ
thể hiện những ý nguyện tốt đẹp sống ở thác về, mong cho người đã mất được
mồ yên mả đẹp mà thảnh thơi về bên kia thế giới:
“Bác ơi, số phận đã đành, nói sao cho hết nỗi lòng cháu con. Xưa ở
nhà cao che mưa che gió, nhưng lẽ đời thân tứ đại phải lìa, thế cho nên mời
bác về nhà mới mà yên nghỉ ở bên kia thế giới. Con cháu nguyện cho ngôi mả
khang trang để cho bác được an vui chín suối” [4,37].
Thường khi khóc, người còn sống có thể đứng trước, bên cạnh hay dưới
chân mộ phần của người mới mất liền cất lời than cho những người anh em,
15



bà con, họ hàng của họ để thể hiện tâm tư, tình cảm của mình không những
đối với người mới nằm xuống mà còn với tất cả những người thân quá cố của
họ; đồng thời, đây còn là cách gửi lời tri ân của người trong gia đình đến với
người mất, họ hàng và cộng đồng. Ví dụ người con gái đã mất cha mẹ lâu
ngày, trong tang lễ của người dì ruột thì khóc rằng:
“Than ôi! Núi hỗ nhà thung, mẹ cháu sớm hóa thân suối vàng. Dang
tay dì bắc cầu ngang, nuôi con chăm cháu miên man tháng ngày. Mà nay dì
đã lìa trần, bỏ con bỏ cháu than thân khóc thầm. Hỡi ôi mẹ có biết không?
Nhìn sông nhớ núi, nghìn trùng khó phai. Con ai oán ân sâu chưa trả, của mẹ
cha biết mấy đáp đền. Mẹ đi tiếng khóc rĩ rền, cha về chín suối nên tình thâm
ân” [4,38]
Như vậy, qua sự phân tích trên ta có thể thấy đó là 2 không gian chính
để thể hiện hát khóc. Quan niệm sinh – tử của người Việt không chỉ được thể
hiện trong sinh hoạt đời thường mà còn được thể hiện rất rõ trong việc thực
hiện nghi thức tang lễ, đặc biệt qua hát khóc.
Thời gian hát khóc:
Thời gian hát khóc thứ nhất là sau khi người mất tắt thở và bất cứ lúc
nào người nhà có nhu cầu: đây là lúc người trong gia đình bật lên tiếng khóc
tự nhiên, tỏ lòng níu kéo, day dứt, đau đớn vì mất đi người thân.
Thứ hai, hát khóc được thực hiện khi chưa di quan và trong những nghi
lễ cúng tế cho người đã mất: người nhà không hát khóc mà mượn lời của
những nghệ nhân trong đoàn kèn giải để vang lên những bài than phù hợp với
quá trình tế lễ kể từ khi người chết qua đời. Cụ thể là vào các khóa lễ nhập
liệm, thiết linh, thành phục, chúc thực, hồi linh, tế ngu… Ví dụ:
“Than ôi!
Mây núi Hỗ mịt mờ, mờ mịt
(nếu khóc cha hoặc núi Dĩ nếu khóc mẹ)
Chữ vô thường ngán nhẽ cuộc phù sinh;
Cơn bể dâu thay đổi, đổi thay
Cơ huyền diệu, ghê thay vòng tạo hóa

16


Ôi! Thương ôi!
Người thế ấy, mà sao phận thế ấy, bỗng đâu số trời xui khiến.
Cõi âm dương, đôi ngả đã xa vời;
Vận đến đây, hay là mệnh đến đây, thắm đã nấm đất vun vùi.
Đường từ hiếu, trăm năm không gặp gỡ
Mắt trông thấy, đào sâu lấp kín, tủi nỗi lòng, chín khúc ngổn ngang;
Tai vẳng nghe, trống giục, chiêng hồi, đầy nước mắt hai hàng lã chã
Nay đã phân kim lập hướng, cầy được thỏa yên;
Gọi rằng bát nước nén hương, kính trần bái tạ” [4,3]
Đây là lời khóc được diễn xướng trong lễ thành phục (tức là nghi lễ để
tang hay còn gọi là phát tang), thể hiện sự thương xót, buồn tủi của người con
dành cho cha mẹ, hướng mong dâng lên bát nước, nén hương cho hai đấng
sinh thành; tuy đau đớn nhưng vẫn nguyện hướng cho hương linh mẹ cha
được yên ổn bên kia thế giới.
Nếu lúc mới lâm chung hay khi còn ở tư gia mỗi lời khóc cất lên là nỗi
đau thương, xót xa vô hạn của sự chia li, đau khổ thì khi hạ huyệt xong lời hát
khóc sẽ được thể hiện nhằm mục đích tỏ ý mong cầu mọi sự tốt đẹp ở thế giới
bên kia đối với người thân của mình, đó còn là lời nhắn gửi những điều cầu
chúc cho linh hồn ấy sẽ sớm được đầu thai kiếp khác hay được về cõi Niết
bàn (về miền cực lạc).
Tương tự như các nghi thức cúng tế cho người chết, hát khóc chỉ được
thể hiện đúng thời gian, địa điểm thì mới phát huy được vai trò và ý nghĩa của
nó. Được thực hiện như vậy mới phù hợp với tâm lý, đời sống tâm linh và tín
ngưỡng dân gian trong văn hóa lễ tang của người Việt.
4.1.3.2 Đối tượng của hát khóc
Đối tượng của hát khóc được chia làm 2 nhóm như sau:
Đối tượng thứ nhất là: người thân của người quá cố (gia đình, họ hàng,

bạn bè, những người hàng xóm…). Với đối tượng này họ khóc một cách rất tự
nhiên, khóc bằng tâm tư, khóc bằng tình cảm, bằng sự đớn đau, thương xót
khi mất người thân, hòa điệu vào xen trong tiếng khóc vừa xót xa, cay đắng
17


vừa hướng về một tương lai tốt đẹp hơn cho người mất. Ví như lời khóc của
cháu cho dì của mình:
“Dì ơi, có rét không dì?
Tiết hạ tháng 7, dì đi sao đành
Cháu nay chiếu đất trời mành
Điềm lành chưa đến dữ thời báo ngay
Nay thấy dì mà lay chẳng dậy
Lòng cháu đau xiết mấy xót xa
Cha mẹ cháu ra đi từ trước
Ngược thời gian về đón dì đi
Nợ nần đời cái chi chi
Mà sao cháu khổ như ri thế này?” [4,43]
Đối tượng hát khóc thứ hai là: các nghệ nhân của đoàn kèn giải. Những
thành viên này vừa đóng vai trò thay con cháu của người mất, đồng thời họ
còn là tác giả sáng tác ra những bài hát khóc phục vụ cho đám tang. Nhiệm vụ
của họ là khóc thay lời của người thân trong gia đình (thay vai) hoặc những
người đến phúng viếng. Mục đích hát khóc của họ vừa thể hiện tình cảm thực
dành cho người mất, vừa thể hiện tài năng nghệ thuật dân gian của mình, đây
còn là cơ hội hiếm hoi để những thành viên này cải thiện đời sống kinh thế
khó khăn của gia đình. Đối tượng này thường được nhận biết qua câu kết của
bài hát khóc như: “Tấm lòng thương tiếc nhờ kèn khóc than” [4,42] hay
“Nhờ kèn lâm khốc khóc than (vai người mất) mấy lời” [4,41]
4.1.4 Tiểu kết
Như vậy, ở phần này, chúng tôi đã đưa ra những nhận định chung nhất về

lời hát khóc trong tang lễ của người Việt; qua đó người đọc có thể xác định
được khái niệm và những đặc điểm chính về loại hình nghệ thuật dân gian này
ở phương diện mục đích hát khóc và các đặc trưng của hát khóc như: không
gian, thời gian, đối tượng, chức năng… của lời hát khóc trong tang lễ của
người Việt để thấy được vai trò, vị trí của nó đối với đời sống tâm linh hiện
nay.
18


Quan trọng hơn, người đọc có thể nhận thấy nét văn hóa đặc trưng của
người Việt trên cao nguyên Ban Mê, đó không phải là văn hóa của một vùng
miền nào mang đến, cũng không hoàn toàn bị pha trộn để trở thành nét văn
hóa riêng của vùng đất này. Bên trong nét đẹp văn hóa của người Việt ở thành
phố Buôn Ma Thuột luôn tồn tại song song hai yếu tố: chung và riêng; chung
là do sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của người Việt ở các vùng miền mang lại
và riêng chính bởi sự gìn giữ nét đẹp văn hóa của con người mỗi vùng miền.
Vấn đề này được thể hiện trong rất nhiều các lĩnh vực văn hóa của đời sống,
đặc biệt là trong tang lễ.

4.2 ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG CỦA LỜI HÁT KHÓC TRONG TANG LỄ
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT

4.2.1 Phân loại
Qua quá trình thu thập và khảo sát, chúng tôi thu được 150 bài hát khóc từ
12 nghệ nhân khác nhau trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột. Tuy nhiên
trong quá trình xử lí và phân loại tư liệu, chúng tôi chỉ ghi nhận 90 bài do có
sự trùng lặp bài hát khóc giữa các nghệ nhân. Dựa trên nội dung và thời điểm
hát khóc, chúng tôi phân thành 2 loại như sau:

19



4.2.1.1 Lời hát khóc trong các nghi lễ cúng tế cho người chết
Thông thường trong tang lễ các nghi thức cúng tế cho người chết là phần
đặc biệt quan trọng. Đó là lúc người chủ lễ (Thầy cúng) thay mặt gia đình,
dùng lời văn tấu trình với thần linh.
Trong tang lễ, những nghi lễ cúng tế cho người quá cố được thực hiện theo
quy trình sau đây:
1. Phép chiêu hô (tức phép gọi hồn người mất khi vừa tắt thở)
2. Lễ nhập quan (khâm liệm)
3. Lễ thiết linh (lập bàn thờ)
4. Lễ thành phục (phát tang)
5. Lễ tịch điện (lễ rước vong hồn người chết vào quan tài, thường thực
hiện trong đêm trước di quan)
6. Lễ yết cáo tổ tiên (báo cáo với tổ tiên về việc người mới mất, cầu xin
ông bà tiếp dẫn cho người này về cõi cực lạc cùng với tổ tiên)
7. Lễ di quan, hạ huyệt (động quan và hạ quan)
8. Lễ hồi linh (sau khi hạ huyệt, người nhà lập bàn thờ tại tư gia)
9. Lễ sơ ngu (sau khi hạ huyệt, tại mộ phần người mất)
10. Lễ tế ngu (mở cửa mả - 3 ngày)
11. Lễ chung thất (49, 100 ngày)
12. Lễ tiểu tường
13. Lễ đại tường
14. Lễ cải táng
Các nghi lễ kể trên được thực hiện lần lượt theo thứ tự đã sắp xếp, hầu hết
tất cả đều có hát khóc (trừ lễ chiêu hô, cải táng). Mục đích sử dụng lời hát
khóc trong các nghi lễ cúng tế là để thưa với thần linh cho vong hồn người
mới mất được siêu thoát. Theo Hồ Gia Tân viết trong “Thọ mai gia lễ”: “Kinh
Lễ Chính hành nói rằng: “làm lễ táng trọng hậu đến bại gia. Người đời
không thể dùng những lời lẽ thường nhật nói với thần linh mà phải dùng văn

tế, có như vậy mới hợp lẽ” [6,9].
20


4.2.1.2 Lời hát khóc theo vai
Ngoài những bài hát khóc được dùng trong nghi lễ cúng tế thì vào những
thời gian còn lại của lễ tang dành cho việc phúng viếng và khóc than người
chết. Người thân trong gia đình, họ hàng, anh em, hàng xóm muốn khóc than
cho người chết bằng lời khóc của mình hay mướn nghệ nhân của đoàn kèn
giải đều được. Nhưng quan trọng là phải làm nổi bật rõ mối quan hệ của
người hát khóc với người mất, có như vậy mới thể hiện được tình cảm và sự
đau xót.
Lời hát khóc tự nhiên
Qua khảo sát thực tế, các nghệ nhân hát khóc đều cho biết rằng, lời khóc tự
nhiên chính là nỗi lòng, là tâm tư của người còn sống dành cho người mất.
Khóc như thế nào phụ thuộc vào cảm xúc tự nhiên của người còn sống, chứ
không phải là khóc theo lời của những bài hát khóc được viết sẵn. Tuy nhiên,
chúng tôi cũng ghi nhận được một số lời hát khóc tự nhiên ở các bài: Con
khóc cha mẹ 6, con khóc mẹ, vắng mẹ, đời cha…
Phân tích bài khóc “đời cha”:
“Cha đà yên nghỉ bên bờ đê, gốc nhãn.
Bỏ đàn con thơ, cui cút tháng ngày.
Mới hôm qua còn thấy cha bệ vệ, oai phong,
Dang tay lớn che chở đàn con nhỏ.
Việc đồng ruộng cha giành làm lớn, để mẹ con ở nhà với đám con.
Mới năm ngoái trời còn hạn, khô héo,
Một mình cha toan ghánh nước đưa phân.
Con thơ dại nhìn cha gầy than khóc, đói bát cơm tinh, cỗ thịt ngon lành.
Ôi cha ơi!
(Số người con) miệng ăn nheo nhóc, thân cha lăn, góc bể chân trời.

Mong con lớn đủ đầy cùng trang lứa
Vượt sức trời cha nuôi lớn chúng con
Vậy mà nay còn đâu cha hỡi, ôi con đau, con lỗi lớn với đời” [4,12]
21


Ta thấy được lời khóc rất tự nhiên về gia cảnh, cuộc đời của một người cha
vất vả, lo toan suốt cả cuộc đời. Nó không có một sự sáng tác hay gọt giũa về
ý nghĩa, về từ ngữ mà đó là lời kể thật về hoàn cảnh gia đình. Nếu như những
bài hát khóc do các nghệ nhân sáng tác có thể sử dụng ở bất cứ đám tang nào
khi gia chủ có nhu cầu thì lời hát khóc tự nhiên chỉ có thể được phát lộ bằng
tiếng khóc than, đau xót của thân quyến mà thôi, các nghệ nhân hát khóc
không thể khóc được những bài khóc này.
Tuy nhiên, khi nghe lời khóc của bất cứ một thành viên nào trong gia đình
của người mất ta nhận ra vai vế, mối quan hệ của người khóc và người mất
thông qua cách xưng hô của người khóc.
Lời hát khóc của nghệ nhân
Có thể nói rằng lời hát khóc do các nghệ nhân sáng tác chính là sản phẩm
nghệ thuật được tạo ra nhờ nhu cầu thuê khóc của người thân trong gia đình.
Các nghệ nhân phải vận cảnh, viết thành nhiều bài, nhiều nội dung khác nhau
để ứng dụng ngay vào thực tế khi tang quyến có nhu cầu. Các nghệ nhân này
thường khóc bằng nhiều cảm xúc khác nhau, có thể là tình cảm thật, nhưng
cũng có thể là giả khóc vì đây chính là cơ hội hiếm hoi để họ có thể cải thiện
đời sống vật chất khó khăn của gia đình mình. Nếu nghe những bài khóc tự
nhiên ta chỉ cảm nhận một cách đơn giản nhất về tình cảm, quan hệ của người
sống và người mất thì khi nghe những bài hát khóc của những nghệ nhân ta
còn cảm nhận sâu hơn về giá trị nhân sinh, về những ước muốn tái sinh của
người sống dành cho người mất (điều này có xuất hiện ở lời hát khóc tự nhiên
nhưng được thể hiện rất ít, vì trong lúc tang gia bối rối những người thân
trong gia đình tập trung khóc kể về tình cảm, về nỗi đau).

Ví như trong bài khóc “con khóc cha 1”, ta nhận thấy: từ ngữ được trau
chuốt, những câu văn có vần có nhịp rất rõ ràng làm tăng tính biểu cảm cho
người nghe: “Trăm năm là một cuộc đời. Cha nay rời bỏ cửa nhà ra đi. Bây
giờ mưa gió một khi. Chúng con chưa chút đền gì trúc mai…” [4,13].
Người khóc (nghệ nhân) mượn vai người con trong gia đình để than khóc
về sự ra đi đầy đau thương, mất mát của cha mình; trong lời khóc ấy chúng ta
22


nhận thấy rất rõ sự khác biệt đối với lời hát khóc tự nhiên: một bên là những
lời than kể hết sức mộc mạc, giản dị, lời khóc theo ý nghĩ; còn một bên là
những câu khóc như thơ văn. Có như vậy mới tạo nên cảm xúc cho người
khóc giống hệt như vai gốc mà mình đang mượn
Như vậy, lời hát khóc theo vai tự nhiên hay của các nghệ nhân đều làm nổi
bật vấn đề tình cảm, vai vế của người còn sống đối với người đã khuất; tuy
nhiên ở loại thể này thì có thể hát khóc bất cứ lúc nào có nhu cầu chứ không
như những bài khóc trong nghi lễ.
4.2.2 Đặc điểm về nội dung
4.2.2.1 Mối quan hệ của người còn sống đối với người chết
Hát khóc trong tang lễ là một phần của phong tục tập quán người Việt
được diễn xướng trong không gian của lễ tang nhằm tưởng nhớ, thể hiện tình
cảm của mình đến những người đã qua đời thông qua những lời khóc kể.
Chính vì thế lời hát khóc nào cũng thể hiện rõ mối quan hệ của người
còn sống đối với người đã khuất. Mỗi lời khóc cất lên là một sự đau thương
đến tột cùng vì mất đi người thân. Thế nhưng bao hàm trong những lời hát
khóc ấy lúc nào cũng hiển hiện lên cách xưng hô của người khóc và người
mất; đồng thời đó là những lời kể về tình cảm thật giữa hai bên.
Bài hát khóc sau cho ta cảm nhận rõ điều ấy:
“Cháu nay còn ở nơi xa
Nghe tin điện báo cháu đứng ngồi không yên

Bà sao đã vội suối vàng
Nỗi sầu chia nửa nỗi sầu chia hai
Bâng khuâng phong cảnh quê người
Mượn kèn cháu khóc mấy lời viếng thăm
Khóc rằng đường xá xa xăm
Chưa về đưa đón lòng càng nhớ thương
Âm dương cách biệt từ đây
Suối vàng nơi ấy mỗi ngày một xa
Trăm năm là bấy nhiêu ngày
23


Nỗi niềm như thế thật là khổ tâm” [4,32]
Đây là lời khóc của một người cháu ở nơi xa, không thể về viếng bà
được cho nên phải mượn lời của nghệ nhân để khóc thay vai cho mình:
“mượn kèn cháu khóc mấy lời viếng thăm”. Nỗi đau buồn của người cháu
được các nghệ nhân thể hiện như cắt ruột cắt gan: “nỗi sầu chia nửa nỗi sầu
chia hai”, xót thương là vậy nhưng chưa thể về để lo tang ma cho bà được,
cháu còn day dứt hơn nữa: “chưa về đưa đón lòng càng nhớ thương”. Nghe
lời hát khóc chúng ta hiểu ra rất nhiều điều về mối quan hệ giữa vai người
khóc và vai người mất; nó không phải chỉ đơn thuần là vai cháu khóc bà, mà
nó còn cho thấy sự xa cách của bà và cháu: “cháu nay còn ở nơi xa. Nghe tin
điện báo cháu đứng ngồi không yên”.
Hay trong một bài khóc khác:
“Bây giờ mưa gió một cơn
Chúng con chưa chút đền ơn sinh thành
Khóc than khôn xiết sự tình
(Vai người mất) nay đã vội về nơi suối vàng
Suối vàng cách biệt hôm nay
Lẽ thường chưa có một hai báo đền

Hôm nay (vai người mất) vội quy tiên
Con thương con nhớ con phiền lòng con
Tưởng rằng (vai người mất) thọ trăm xuân
Ngỡ đâu (vai người mất) vội từ trần ra đi
(Vai người mất) nay gối đất năm sương
Bao giờ con gặp được người cửu nguyên?” [4,10]
Bài khóc chính là lời của tất cả những người con khóc trong tang lễ của
cha (mẹ) mình: “Bây giờ mưa gió một cơn. Chúng con chưa chút đền ơn sinh
thành”. Hát khóc không phải lúc nào cũng chỉ là lời khóc của một thành viên
mà cũng có thể đó là lời của cả tập thể, bài khóc trên đây là một ví dụ. Mối
quan hệ giữa người mất và người còn sống ở đây chính là tất cả những người
con ruột thịt khóc than cho cha (mẹ). Lời khóc ấy không phải của một người
24


mà là tâm nguyện chung của tất cả các con, bởi sự day dứt chưa báo nghĩa
đền ân cha mẹ mà họ đồng thanh xót xa như vậy: “Lẽ thường chưa có một
hai báo đền”.
Qua đây ta nhận thấy, điều bắt buộc trong lời hát khóc là phải thể hiện
được mối quan hệ giữa người sống và người chết. Mối quan hệ này là trong
dòng tộc hay ngoài dòng tộc, thân tình hay xã giao đều hiện lên ở mỗi lời
khóc. Chính vì thế nội dung nổi bật, rõ nét nhất trong lời hát khóc là thể hiện
mối quan hệ của người sống và người chết.
Trong những ví dụ sau cũng tương tự như thế:
“Cha sinh con lớn là trai
Tình cha con sớm phân hai thế này” [4,14]
Qua câu trên ta nhận ngay ra được người khóc chính là con trai trưởng
(trai lớn) đang khóc than cho người cha quá cố của mình.
Còn đây lại là lời khóc của người con thứ:
“Con là trai gọi thứ (thứ tự của người con trai thứ)

Ngày nay (vai người mất) mất lệ sầu tuôn rơi” [4,15]
Người khóc phải xưng danh vai vế trong lời hát khóc để cho mọi người
đến dự trong đám tang hiểu được tình cảm của mình dành cho người đã khuất;
hơn nữa đi sâu về mặt tâm linh có nghĩa là khi người khóc xưng vai thì khi đó
người mất mới có thể biết được ai đang khóc mình.
Không phải chỉ có người trong gia đình mới khóc mà ngay cả những
người hàng xóm cũng có thể khóc than cho người đã khuất, điều đó thể hiện
trong lời khóc sau của một người hàng xóm:
“Tôi ông cùng lối xóm làng
Thương ông sớm vội suối vàng ông ơi
Mọi ngày tôi vẫn sang chơi
Tôi đây ông đấy ta thời tâm giao” [4,42]
Chỉ nghe lời khóc đó thôi, mọi người đến dự tang lễ đều có thể ngã ngũ
rằng chắc chắn người hàng xóm đang khóc là người bạn tâm giao với người
nằm xuống. Dân gian ta có câu “bán anh em xa mua láng giềng gần” quả
25


×