Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn toán lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.49 KB, 20 trang )

TT

Nội dung

Trang

1

MỞ ĐẦU

2

1.1

Lí do chọn đề tài.

2

1.2.

Mục đích nghiên cứu.

3

1.3

Đối tượng nghiên cứu.

3

1.4



Phương pháp nghiên cứu.

3

1.5

Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.

3

2

NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4

2.1

Cơ sở lí luận.

4

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

5

2.3


Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

6

2.3.1
2.3.2
2.3.3

Giải pháp 1: Phân hóa đối tượng, khơi dậy lòng say mê và
thích học toán ở học sinh.
Giải pháp 2: Thiết kế bài và dạy học theo đối tượng để phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Giải pháp 3: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình
thức dạy học theo hướng đổi mới để phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh.

6
8
10

2.3.4

Giải pháp 4: Lồng ghép tổ chức trò chơi trong giờ học toán.

12

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo

dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

17

3

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

17

3.1

Kết luận.

17

3.2

Kiến nghị.

18

1. MỞ ĐẦU
1


1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ
trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản
lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm thích ứng được với

thực tiễn đời sống xã hội luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu Giáo
dục đào tạo phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu
về nội dung và phương pháp dạy học.
Ở cấp Tiểu học môn Toán có vai trò đặc biệt quan trọng cùng với các môn
học khác nó góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển tư duy của
người học, đồng thời nó còn góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục, đào
tạo thế hệ trẻ. Ở trường tiểu học, việc dạy học toán cho học sinh tạo năng lực
cho các em sử dụng toán trong học tập và trong cuộc sống hàng ngày. Thông qua
việc học toán ở nhà trường đã rèn cho các em năng lực tư duy, phát triển trí
thông minh, kĩ năng tính toán. Chính vì thế, môn Toán luôn được chú trọng và
được dành một thời lượng rất lớn trong chương trình Giáo dục phổ thông. Theo
yêu cầu của Bộ giáo dục và Đào tạo về đổi mới nội dung và phương pháp dạy
học ở cấp Tiểu học, ngoài việc tổ chức các hoạt động dạy học để học sinh nắm
được kiến thức chuẩn thì tùy vào năng lực của học sinh, giáo viên cần phải phát
triển, khai thác, mở rộng thêm kiến thức một cách phù hợp để đáp ứng nhu cầu
học tập của các em.
Hơn nữa, cấp Tiểu học là bậc học quan trọng, nó đặt nền móng cho việc
hình thành nhân cách ở học sinh, trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học
ban đầu về tự nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị các
phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn,
bồi dưỡng và phát huy các tình cảm, thói quen và đức tính tốt đẹp của con người
Việt Nam. Chính vì vậy mà cấp Tiểu học được coi là "nền móng vững chắc của
toà nhà phổ thông".
Trong đó, môn Toán lớp 5 góp phần không nhỏ để tạo nên cái gọi là "nền
móng" đó. Học sinh học tốt môn Toán sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
năng lực học toán ở các lớp tiếp theo. Và để đạt kết quả cao trong dạy học toán
đòi hỏi giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học dựa trên đặc điểm tâm lý của học sinh. Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán
không còn mới lạ đối với học sinh, khả năng nhận thức của các em đã được hình
thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững

và đang ở giai đoạn phát triển. Vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có
những tích lũy nhất định.
Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng
dạy và học toán là rất cần thiết. Một trong những đổi mới phương pháp dạy học
đó là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Quá trình dạy học phải đạt được yêu cầu, tạo ra động cơ học tập tốt nhất để phát
triển trí tuệ, trí thông minh cho học sinh. Để có được điều đó, các em phải tích
2


cực học tập biểu hiện ở chỗ: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung
các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề giáo viên
nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích những vấn đề chưa rõ, chủ động vận
dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào
những vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản chí trước
những tình huống khó khăn.
Trong khi đó, học sinh tiểu học vốn ưa hoạt động, khả năng tập trung chú
ý chưa cao, các em thường chỉ chú ý tới những vấn đề mới lạ, hấp dẫn. Mức độ
tiếp thu kiến thức của học sinh không đồng đều. Trong một lớp học có nhiều đối
tượng học sinh, nhu cầu hứng thú học tập của các em là khác nhau. Vì vậy làm
thế nào để thu hút tất cả các em đều chú ý tập trung trong giờ học, tích cực hoạt
động để lĩnh hội kiến thức là điều mà giáo viên cần quan tâm. Với những băn
khoăn đó, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra “Một số biện pháp
nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Xây dựng và áp dụng một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong
giảng dạy môn Toán lớp 5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Giáo viên dạy toán và học sinh lớp 5 của nhà trường.
- Các giải pháp nâng cao chất lượng trong giảng dạy môn Toán lớp 5.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu, giáo trình có liên quan
đến các vấn đề cần nghiên cứu. Nghiên cứu sách giáo khoa, sách bài tập và các
tài liệu khác.
- Phương pháp điều tra:
+ Trao đổi với giáo viên về những khó khăn, thuận lợi khi dạy toán lớp 5.
+ Tiếp cận, trò chuyện với học sinh về những hứng thú, khó khăn khi học
toán.
+ Dự giờ để đánh giá thực trạng việc dạy và học ở lớp 5 để đề xuất giải
pháp khắc phục.
- Phương pháp thực nghiệm: Để kiểm tra tính khả thi của những vấn đề
đã được nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê toán học: Thu thập, xử lí, đánh giá số liệu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu học theo
phương hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng
cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Góp phần giúp học sinh hứng thú học tập môn Toán. Đó là một môn học
được coi là khô khan và khó khăn. Do đó việc đưa ra những câu đố, trò chơi
3


toán học nhằm giúp các em học mà chơi, chơi mà học. Đặc biệt trò chơi toán
học không những giúp các em lĩnh hội được tri thức mà nó còn giúp các em
củng cố và khắc sâu các tri thức đó.
Tôi chọn đề tài nghiên cứu này nhằm giúp học sinh nắm kiến thức môn
Toán ngày càng vững vàng hơn, hăng say trong các giờ học toán, nâng cao chất
lượng giảng dạy và làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên.

Điểm mới trong việc nghiên cứu và áp dụng đề tài này là tạo dựng được
lòng say mê và thích học toán, sự chủ động, tích cực của học sinh và các trò chơi
dạy học toán phù hợp với đối tượng học sinh của lớp qua từng dạng bài, một
sáng kiến mang tính mới mẻ mà từ trước tới nay ít được vận dụng hoặc có vận
dụng thì cũng đang dừng lại mang tính hình thức, chưa thực sự mang lại hiệu
quả cao.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
Môn Toán lớp 5 là một môn học luyện tập, thực hành nhiệm vụ quan
trọng nhất của nó là hình thành năng lực học toán cho học sinh. Năng lực của
học sinh qua các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng sau:
- Về số và phép tính:
+ Bổ sung những hiểu biết cần thiết về phân số thập phân, hỗn số để
chuẩn bị học số thập phân.
+ Ôn tập củng cố, hệ thống hoá những kiến thức và kĩ năng cơ bản về số
và phép tính với số tự nhiên, phân số và số thập phân.
- Về đo lường:
+ Biết tên gọi, kí hiệu, quan hệ giữa một đơn vị đo diện tích, thể tích
thông dụng.
+ Biết viết các số đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian dưới
dạng số thập phân.
- Về hình học:
+ Nhận biết được hình thang, hình hộp chữ nhật, hình lập phương và một
số dạng của hình tam giác.
+ Biết tính chu vi, diện tích hình tam giác, hình thang, hình tròn.
+ Biết tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích hình hộp
chữ nhật, hình lập phương.
+ Về giải toán có lời văn: Biết giải và trình bày các bài toán có đến bốn
bước tính: một số dạng bài toán về quan hệ tỉ lệ; các bài toán về tỉ số phần trăm;

các bài toán có nội dung hình học liên quan đến các hình đã học.
- Về các yếu tố thống kê.
+ Biết đọc các số liệu trên biểu đồ hình quạt.
+ Bước đầu biết nhận xét về một số thông tin đơn giản thu thập trên biểu
đồ.
- Về phát triển ngôn ngữ, tư duy và góp phần nhân cách của học sinh.
4


+ Biết diễn đạt một số nhận xét, quy tắc, tính chất... bằng ngôn ngữ (nói,
viết dưới dạng công thức...) ở dạng khái quát.
+ Tiếp tục phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, cụ thể
hoá; bước đầu hình thành và phát triển tư duy phê phán và sáng tạo; phát triển trí
tượng không gian...
+ Tiếp tục rèn luyện các đức tính: chăm học, cẩn thận, tự tin, trung thực,
có tinh thần trách nhiệm... góp phần hình thành nhân cách ở học sinh.
Các yêu cầu kiến thức, kĩ năng trên được hình thành trong quá trình giảng
dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh. Vì thế trong dạy học toán ở tiểu
học, phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Cốt lõi
của vấn đề là hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Muốn vậy trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho học
sinh tiểu học, vai trò của người thầy là rất quan trọng. Người dạy cần hướng dẫn,
tổ chức để học sinh xác định được động cơ học tập một cách đúng đắn. Tăng
cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi, thảo luận, nêu lên chứng kiến của
mình… Điều này buộc học sinh phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các
vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp, tranh luận
để bảo vệ ý kiến của mình.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.

- Đối với giáo viên:
Chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhưng vẫn còn
giáo viên còn gặp nhiều lúng túng, chủ yếu là giảng giải thuyết trình, chưa phát
huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một lớp, năng lực nhận
thức của học sinh không đồng đều nhưng giáo viên thường chỉ thiết kế giáo án
theo đường thẳng, chung cho mọi đối tượng học sinh. Trên lớp giáo viên chủ
động thực hiện một mạch theo các bước đã chuẩn bị, giáo viên chưa vận dụng
linh hoạt phương pháp dạy học mới bằng hình thức giao việc cụ thể cho từng
học sinh. Qua dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy một số tiết dạy còn nặng nề, gò bó
không lôi cuốn được tất cả học sinh cùng tham gia. Phần đánh giá kết quả học
tập giáo viên thường là người độc quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Không ít giáo viên chưa chú trọng đúng mức tới việc kích thích trí tò mò, lòng
ham hiểu biết của lứa tuổi tiểu học trong giờ học toán.
- Đối với học sinh:
Ở cấp Tiểu học một bộ phận các em còn ngại khó, còn thụ động, chủ yếu là
nghe giảng, ghi nhớ và làm theo bài mẫu. Chính vì vậy mà kiến thức của các em
còn mang tính hời hợt, nhớ không lâu, thiếu sự linh hoạt, sáng tạo và khả năng
phân tích của các em còn hạn chế.
Năm học 2018-2019, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5A,
kết quả khảo sát chất lượng đầu năm như sau:
5


Tổng
số
học
sinh

Điểm 9 -10


Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

25

4

16

7


28

8

40

6

24

Kết quả trên cho thấy: chất lượng môn Toán của lớp 5A còn thấp, thấp
hơn rất nhiều so với yêu cầu của trường chuẩn quốc gia. Tỉ lệ học sinh điểm
dưới 5 còn nhiều. Tôi tiến hành điều tra, tìm hiểu nguyên nhân thì nhận thấy:
phần lớn học sinh có tâm lí ngại học toán vì các em cảm thấy khó và nặng nề, sợ
mỗi khi gặp dạng toán mới, lúng túng khi gặp bài toán khó, không đủ niềm tin
để khẳng định bài toán mình làm đúng hay sai,…
Trước thực trạng trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu và mạnh dạn tổ chức
thực hiện các giải pháp sau đây.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
Qua thực tế giảng dạy và kinh nghiệm của bản thân, tôi rút ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5 cụ thể như sau:
2.3.1. Giải pháp 1: Phân hóa đối tượng, khơi dậy lòng say mê và thích
học toán ở học sinh.
a. Phân nhóm đối tượng học sinh.
Ngay từ đầu năm học, dựa vào kết quả khảo sát và kết hợp dạy học hàng
ngày trên lớp, tôi phân loại số học sinh trong lớp thành các nhóm đối tượng như
sau:
- Nhóm gồm các học sinh có khả năng hoàn thành tốt nội dung học tập:
Nguyễn Hà Thảo Ly, Nguyễn Đình Phú, Mai Văn Chính, Hoàng Thị Thúy Nhi,
Lê Xuân Hùng, Nguyễn Khắc Sáng.

- Nhóm gồm các học sinh hoàn thành nội dung học tập: Lê Thị Ngọc Ánh,
Lê Đình Việt Anh, Lê Thị Thủy, Lê Đình Văn, Vũ Thị Hà Vi, Nguyễn Thị Thùy
Linh, Lê Thị Thùy Linh, Nguyễn Thị Anh Đào, Nguyễn Đình Đạt, Nguyễn Văn
Hùng Dương, Nguyễn Viết Nhật, Lê Văn Sơn, Trịnh Đình Thanh.
- Nhóm gồm các học sinh chưa hoàn thành: Lê Đình Đức, Lê Thế Hoàng,
Lê Đình Trường Sơn, Ngô Tiến Thành, Vũ Đình Tùng, Lê Đình Hùng.
b. Khơi dậy lòng say mê và thích học toán của học sinh:
- Trong quá trình giảng dạy tôi đã thực hiện các giải pháp sau để giúp các
em say mê và thích học môn Toán:
Xem kỹ nội dung chương trình môn Toán, nội dung từng bài dạy và mục
tiêu của mỗi bài để tránh việc truyền đạt quá tải cho học sinh; phối hợp nhịp
nhàng giữa phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phát huy tính tích
cực, chủ động, kích thích sự hứng thú của học sinh, tránh sự đơn điệu và tẻ nhạt
ở mỗi tiết học.
6


Tổ chức các hoạt động trong từng bài để giúp các em tự mình tìm tòi, chủ
động phát hiện kiến thức mới, rèn thêm kỹ năng mới dựa trên các kiến thức và
kỹ năng các em đã có.
Luôn thay đổi không khí giờ học toán để tạo ra sự thoải mái, giảm bớt
căng thẳng cho học sinh. Nhờ thế, các em sẽ tập trung sự chú ý, tiếp thu bài tốt
hơn. Để thực hiện điều này, tôi tổ chức cho các em giải các câu đố vui toán học
mà mình đã sưu tầm được. Hoạt động này sẽ kích thích sự tò mò và bồi dưỡng
tính hài hước cho các em vì các câu đố thường được viết dưới dạng các câu thơ,
các bài văn vần, các câu hò, vè quen thuộc… rất dí dỏm, vui tươi, ngộ nghĩnh.
Ví dụ: Khi dạy phần ôn tập phân số, số tự nhiên, dấu hiệu chia hết, tôi đã
đưa ra các câu đố:
Câu 1: Thân em gồm có hai phần.
Càng thêm vào dưới, lại càng bé đi”.

(là gi?)
Câu 2: Đố em viết tiếp
Vào dãy số sau: 0; 15; 30; …
5 số nối nhau
Tìm mau kẻo lỡ
Xong sau bạn cười.
Câu 3: 2325; 3446; 4590; 1000.
Những số đã viết
Số nào chia hết
Cho cả ba, năm?
Số nào chia thêm
Cho hai và chín?
Các câu đố này sẽ biến những bài toán với các con số khô khan thành
những bài toán vui, hóm hỉnh, gần gũi với học sinh giúp củng cố kiến thức và kỹ
năng thực hành, góp phần rèn luyện tư duy sáng tạo, óc nhanh nhạy trước các
tình huống toán học chứa đựng trong câu đố.
- Ngoài ra trong các buổi ngoại khoá, trong những giờ ra chơi hay những
buổi sinh hoạt tập thể, tôi luôn tìm cách khơi dậy tinh thần hăng say học tập,
kích thích chí hướng phấn đấu vươn lên thành học sinh xuất sắc bằng những câu
chuyện bổ ích, những tấm gương học tốt, những bài học về phương pháp học
được rút ra từ các nhà khoa học hay đơn giản chỉ là những câu nói thể hiện niềm
tin về sự cố gắng của một học sinh nào đó.
Ví dụ: Kể về các gương học sinh trước đây có hoàn cảnh khó khăn nhưng
nhờ chăm chỉ, chịu khó đã trở thành học sinh xuất sắc, đỗ đạt vào các trường đại
học. Cụ thể như : Em Lê Hữu Hùng ở thôn 5, nhà nghèo, bố mẹ khuyết tật,
ngoài giờ học em phải đi quấn kẹo thuê để kiếm thêm tiền đỡ cho bố mẹ. Nhưng
nhờ sự kiên trì, cố gắng, say mê học tập đến nay Hùng đã thi đỗ vào Trường Học
7



viện Kĩ thuật Quân sự… Ngoài những câu chuyện thực tế trong trường, lớp, địa
phương tôi còn sưu tầm các câu chuyện khác trên báo trí, mạng internet…
Những việc đơn giản đó đã giúp tôi hiểu rõ và tìm được phương pháp kích
thích hứng thú học tập cho từng học sinh. Hầu hết các em luôn tin tưởng và gần
gũi giáo viên. Sẵn sàng tham gia vào các hoạt động do giáo viên tổ chức trong
giờ học toán.
2.3.2. Giải pháp 2: Thiết kế bài và dạy học theo đối tượng để phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh.
Trong quá trình chuẩn bị kế hoạch bài dạy, tôi thường chuẩn bị bài dựa
vào thực tế năng lực và khả năng tiếp thu của học sinh mình phụ trách. Kế hoạch
bài dạy được thiết kế bằng nhiều phương án theo kiểu phương án nhánh. Giáo
viên linh hoạt điều chỉnh theo diễn biến của tiết học với sự tham gia tích cực của
học sinh. Dù ở loại bài nào thì việc lựa chọn câu hỏi, các bài tập có vai trò quan
trọng nhất vì các câu hỏi, bài tập đưa ra phải phù hợp với các đối tượng để ba
đối tượng đều được phát huy khả năng tích cực của mình mà không bị nhàm
chán, không bị thừa thời gian cho học sinh hoàn thành tốt.
Ở mỗi dạng bài tập, mỗi câu hỏi thì mỗi đối tượng học sinh có các yêu
cầu khác nhau:
Ví dụ 1: So sánh A và B biết:
A = 3,54 + 2,17 + 6,46
B = 2,54 + 6,17 + 3,46
- Đối với đối tượng chưa hoàn thành chỉ yêu cầu học sinh tính kết quả
theo thứ tự thực hiện phép tính, sau đó so sánh. (A = 12,17 ; B = 12,17. Vậy A =
B)
- Đối tượng học sinh hoàn thành, ngoài cách tính kết quả để so sánh, các
em có thể sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp đã học để tính nhanh kết quả
rồi so sánh.
A = (3,54 + 6,46) + 2,17
B = (2,54 + 3,46) + 6,17
= 10 + 2,17

= 6 + 6,17
= 12,17
= 12,17
Vậy A = B
- Nhưng với đối tượng học sinh hoàn thành tốt, ngoài cách tính kết quả để
so sánh, sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp để tính nhanh kết quả rồi so
sánh, các em còn phải suy nghĩ để tìm cách so sánh nhanh nhất (xét các chữ số
hàng đơn vị, hàng phần mười, hàng phần trăm của A và B).
Ví dụ 2: So sánh hai phân số

4
3
và .
7
8

- Đối với học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành các em chỉ việc quy
đồng mẫu số hai phân số để so sánh như sau:
Ta có:

4 4 × 8 32 3 3 × 7
32 21
4
3
=
= ; =
>

nên > .
7 7 × 8 56 8 8 × 7

56 56
7
8

8


- Đối với học sinh hoàn thành tốt khuyến khích học sinh tìm ra cách so
sánh nhanh hơn bằng cách so sánh với phân số trung gian như sau:


4 4 3
4
3
4 3 3
4
3
> >
nên > . Hoặc Vì > > nên > .
7 8 8
7
8
7 7 8
7
8

Ví dụ 3: Phần củng cố tính chất kết hợp của phép nhân sau khi học nhân
số thập phân.
Hãy nêu tính chất kết hợp của phép nhân, hãy lấy ví dụ và thực hiện.
- Với học sinh chưa hoàn thành: chỉ cần nêu được tính chất.

- Với học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt: nêu được tính chất, lấy được
ví dụ minh họa.
Ví dụ 4: Phần bài tập 3,5 x 0,4 x 25
- Với học sinh chưa hoàn thành và hoàn thành chỉ cần tính được giá trị
biểu thức ví dụ như sau:
3,5 x 0,4 x 25 = 1,4 x 25 = 35
- Với học sinh hoàn thành tốt: Sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp tính
giá trị biểu thức theo các cách khác nhau như sau:
Cách 1:
3,5 x 0,4 x 25
= 1,4 x 25
= 35

Cách 2;
3,5 x 0,4 x 25
= 3,5 x (0,4 x 25)
= 3,5 x 10
= 35

Cách 3:
3,5 x 0,4 x 25
= 3,5 x 25 x 0,4
= 87,5 x 0,4
= 35

Cuối cùng cả ba đối tượng đều phát huy được khả năng chủ động của
mình trong việc thực hiện phép tính. Học sinh chưa hoàn thành sẽ không cảm
thấy quá sức. Học sinh hoàn thành tốt không thấy nhàm chán.
Ví dụ 5: Khi dạy bài ôn tập và bổ sung giải toán, phần “Bài toán về hai đại
lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần (tỉ lệ thuận). Phần củng cố giáo viên

hỏi: Nêu cách giải bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số
lần.
- Với học sinh chưa hoàn thành và hoàn thành: Học sinh chỉ cần nêu cách
giải bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần là giải bằng
phương pháp rút về đơn vị hoặc tìm tỉ số.
- Với học sinh hoàn thành tốt: Ngoài câu hỏi chung ở trên giáo viên còn
hỏi thêm: Khi nào bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số
lần giải được bằng phương pháp tìm tỉ số, khi nào giải được bằng phương pháp
rút về đơn vị ?
+ Như bài toán sau đây ta chỉ có cách giải là tìm tỉ số:
Bài 3 (trang19). Số dân của một xã hiện nay có 4000 người.
a, Với mức tăng hằng năm là cứ 1000 người thì tăng thêm 21 người, hãy
tính xem một năm sau số dân của xã đó tăng thêm bao nhiêu người.
b, Nếu hạ mức tăng hằng năm là cứ 1000 người chỉ tăng thêm 15 người,
9


thì sau một năm sau số dân của xã đó tăng thêm bao nhiêu người ?
Đối với bài này chúng ta chỉ có cách giải là tìm tỉ số như sau:
a, 4000 người gấp 1000 người số lần là:
4000 : 1000 = 4 (lần)
Số dân của xã đó tăng thêm sau một năm là:
21 x 4 = 84 (người)
b, Nếu hạ mức tăng hằng năm là cứ 1000 người chỉ tăng thêm 15 người,
thì sau một năm sau số dân của xã đó tăng thêm số người là:
15 x 4 = 60 (người)
Đáp số: a, 84 người
b, 60 người
- Bài toán này không thể giải theo cách rút về đơn vị. Vì nếu giải cách rút
về đơn vị thì bước rút về đơn vị ta sẽ có số người là phân số điều này không phù

hợp với thực tiễn.
(1 người tăng thêm thì tương ứng với số dân là 1000 : 21 =

1000
người).
21

- Ngoài ra ở các bài học giáo viên sử dụng cả các bài tập nâng cao thêm
cho học sinh hoàn thành tốt. Giáo viên còn chuẩn bị một hệ thống bài tập mở
rộng có liên quan đến dạng đang học.
Ví dụ : Nếu có 4 người mỗi ngày làm việc 5 giờ thì đắp xong đoạn đường
trong 12 ngày. Hỏi nếu có 6 người mỗi ngày làm việc 10 giờ thì đắp xong đoạn
đường ấy trong bao nhiêu ngày (năng suất lao động của mỗi người như nhau).
Qua việc chuẩn bị thiết kế bài dạy theo hướng phân nhánh này không
những phát huy tính tích cực chủ động cho các đối tượng học sinh trong giờ học
mà còn giúp cho các em óc sáng tạo, có lòng say mê học toán, ham hiểu biết
chuẩn bị cho phương pháp tự học khi lên lớp trên.
2.3.3. Giải pháp 3: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức
dạy học theo hướng đổi mới để phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh.
Vấn đề đổi mới phương pháp là vấn đề đang được quan tâm nhiều nhất
trong giai đoạn hiện nay. Thế nhưng phương pháp dạy học không phải là vấn đề
kĩ thuật. Mỗi phương pháp chịu sự chỉ đạo của lý thuyết xác định. Việc vận dụng
phương pháp phải phù hợp với mục tiêu, đối tượng, điều kiện dạy học, không
nên lý tưởng hóa, tuyệt đối hóa tác dụng với phương pháp nào đó mà phải phối
hợp sử dụng hợp lý các phương pháp. Mỗi đối tượng học sinh có thể sử dụng
một phương pháp khác nhau.
Ví dụ 1: Khi giải các bài toán dạng “Tìm hai số biết tổng và hiệu của hai
số đó” hoặc dạng toán “Tính chu vi (diện tích) của hình chữ nhật (hình
vuông)”… Đối với học chưa hoàn thành, giáo viên cần nêu câu hỏi gợi mở

(phương pháp vấn đáp) để giúp học sinh tìm ra cách làm. Nhưng đối với học
sinh hoàn thành và hoàn thành tốt, có thể để học sinh tự phát hiện dạng toán, tự
10


trao đổi với nhau để tìm cách giải (phương pháp nêu vấn đề hoặc trò hỏi, trò trả
lời,…)
Trong quá trình học sinh tham gia vấn đáp hoặc nêu vấn đề, giáo viên
phải là người định hướng và dẫn dắt học sinh đi đúng hướng. Khi học sinh nêu
câu hỏi sẽ rất đa dạng, lẫn lộn, có câu phù hợp, có câu không, giáo viên là trọng
tài cùng các em lựa chọn để giữ lại câu hỏi phù hợp yêu cầu bài học và quỹ thời
gian cho phép. Trong trường hợp có câu hỏi cần giải quyết thì cho các em trả lời
ngay, câu hỏi có ý hay nhưng chưa phù hợp trọng tâm để các em trao đổi ngoài
giờ. Một lớp có nhiều học sinh nên khả năng nhận thức khác nhau. Vấn đề là
phải tạo tình huống có vấn đề phù hợp với từng học sinh.
Ví dụ 2: Nhân một số thập phân với 10; 100; 1000;...
0,12 x 400
- Với học sinh chưa hoàn thành: Giáo viên có thể hướng các em vận dụng
tính chất kết hợp của phép nhân để chuyển thành phép tính như sau.
0,12 x 400 = 0,12 x 100 x 4 = 12 x 4 = 48
- Với học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt: Yêu cầu các em nêu cách
làm.
Ví dụ 3: Nhân với số có ba chữ số có chữ số 0 ở giữa.
x

138
203
414

2760

2801
4 phép nhân này chỉ cần ghi hai tích riêng.
- Vấn đề nêu ra tại sao
- Học sinh chưa hoàn thành: Do hàng chục của thừa số thứ hai là 0 nên
tích riêng thứ hai là 0 nên ta viết gọn lại.
- Với học hoàn thành và hoàn thành tốt yêu cầu cao hơn. Ta có thể viết
gọn như thế nào? Học sinh nêu cách viết:
x

138
203
414

276
2801
4 là 0 nên ta bỏ đi. Và: 276 “ở phép nhân trên thực ra
(Vì tích riêng thứ hai
là” 276 “trăm”, là kết quả khi nhân 2 “trăm” với 138, vậy 6 phải viết thẳng cột
với hàng trăm.
- Từ đó học sinh hình thành cách viết khác: bỏ qua tích riêng thứ hai, tích
riêng thứ ba lùi vào hai hàng so với tích riêng thứ nhất. Từ đó mở rộng ra trường
hợp phép nhân với số có nhiều chữ số 0 ở giữa.
11


Ví dụ 4: Khi dạy bài “Chia một số thập phân cho 10; 100; 1000;…”
Phần hình thành kiến thức mới.
- Đối với học hoàn thành và chưa hoàn thành giáo viên có thể cho học
sinh thực hiện phép chia số thập phân cho 10; 100 như các bước sách giáo khoa
để rút ra cách chia nhẩm một số thập phân cho 10; 100; 1000;…

- Còn đối với học sinh hoàn thành tốt có thể hướng dẫn các em chuyển
các phép chia đó thành phép nhân một số thập phân với 0,1; 0,01 rồi từ đó rút ra
cách chia nhẩm một số thập phân với 10; 100; 1000;…
Cụ thể như: 213,8 : 10 = 213,8 x

1
= 213,8 x 0,1 = 21,38
10

Các bước này học sinh đã học
89,13 : 100 = 213,8 x

1
= 213,8 x 0,01 = 0,813
100

Các bước này học sinh đã học
Như vậy trong quá trình giảng dạy dựa vào phân loại học sinh để phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh thì giáo viên cần căn cứ vào khả năng của
học sinh để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, để phát huy năng lực
sở trường của học sinh bằng phương pháp và mức độ phù hợp, tạo cho các em
có niềm tin, niềm vui trong học tập. Từ đó các em sẽ lĩnh hội kiến thức.
2.3.4. Giải pháp 4: Lồng ghép tổ chức trò chơi trong giờ học toán.
- Cách tổ chức trò chơi trong môn Toán lớp 5:
Để trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức và
thiết kế trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
+ Thiết kế trò chơi toán học sao cho phù hợp với nội dung từng bài học:
Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn Toán nói chung và môn Toán lớp 5
nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi
tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp. Song muốn tổ chức được trò

chơi trong dạy toán có hiệu quả cao thì đòi hỏi người giáo viên phải có kế hoạch
chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.
+ Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
+ Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lí học sinh, phù hợp với khả năng
người hướng dẫn, sự chuẩn bị của giáo viên và cơ sở vật chất của nhà trường.
+ Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
+ Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo.
+ Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh.
- Cấu trúc của trò chơi học tập:
+ Tên trò chơi.
12


+ Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến
thức, kỹ năng nào. Mục đích trò chơi sẽ quy định hành động trò chơi được thiết
kế trong trò chơi.
+ Đồ dùng, trò chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong Trò chơi
học tập.
+ Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ quy tắc của hành động chơi quy định đối với
người chơi, quy định thắng thua của trò chơi.
+ Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.
+ Nêu lên cách chơi.
+ Nếu cần thiết cho học sinh chơi thử.
+ Phần thưởng cho đội thắng, phạt đội thua như thế nào?...
- Cách tổ chức trò chơi.
+ Thời gian tiến hành: thường từ 3 - 5 phút.
Đầu tiên là giới thiệu trò chơi:
* Nêu tên trò chơi.
* Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ luật

chơi.
+ Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu
thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
+ Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp
nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học
sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui
(như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò...tuyệt đối giáo viên
không được phê bình hoặc nói nặng lời mà phải luôn động viên các em.
- Một số trò chơi nhằm gây hứng thú học tập trong môn Toán lớp 5:
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng
trong quá trình dạy toán cho học sinh lớp 5.
Trò chơi 1: Xếp hàng thứ tự (Áp dụng cho các tiết học: So sánh phân số;
So sánh số thập phân,...)
Mục đích: Giúp học sinh củng cố cách so sánh và sắp xếp các số thập
phân, phân số theo thứ tự từ bé đến lớn và ngược lại.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 2 lá cờ hiệu (cờ giấy nhỏ, 2 lá có màu khác
nhau); học sinh mỗi đội 5 mảnh bìa (có kích thước 10 x 15 cm) trong mỗi mảnh
bìa có ghi các số thập phân, phân số lớn bé khác nhau. (mỗi đội 5 em)
Thời gian chơi: 3 phút
Cách chơi: Hai đội trưởng lên nhận bìa của tổ và phát bìa cho mỗi bạn ở
đội mình. Giáo viên yêu cầu hai đội quan sát, tự so sánh các số vừa nhận trong
nhóm với nhau (trong 1, 2 phút). Khi giáo viên hô hiệu lệnh và giơ hai lá cờ trên
hai tay về hai phía (sang ngang) yêu cầu các em nghe, giơ biển lên cao và xếp
mỗi đội một hàng ngang, bắt đầu từ giáo viên. Khi thầy đưa hai lá cờ song song
13


về phía trước các em tập hợp hàng dọc.
Giáo viên bắt đầu hô các cách khác nhau như: “Tập hợp theo thứ tự từ bé
đến lớn”; “Tập hợp theo thứ tự từ lớn đến bé” sau hai ba lần thi thay đổi các biển

giữa hai đội.
Ban thư ký ghi kết quả và tổng hợp điểm. Mỗi lần xếp hàng đúng thứ tự,
nhanh, không ồn ào, xô lấn, làm lộn xộn, ghi 10 điểm. Xếp chậm, không thẳng
hàng, mất trật tự trừ 2 điểm. Đội nào xếp sai không ghi điểm. Sau 3 phút kết
thúc trò chơi đội nào nhiều điểm sẽ thắng cuộc.
Trò chơi 2: Ai đúng?- Ai sai? (Áp dụng cho các tiết học: Số thập phân;
Đọc, viết số thập phân)
Mục đích: Nắm vững cách đọc, cách viết, cấu tạo số thập phân.
Chuẩn bị: giáo viên chuẩn bị cho mỗi đội 10 tờ giấy khổ A4 để trắng, 5
bút dạ. giáo viên phát cho mỗi em 2 tờ giấy và 1 bút dạ (chuẩn bị vào 1 tờ, ghi
cách đọc của đội bạn vào 1 tờ). Mỗi đội 5 em học sinh lên bảng đứng thành 1
hàng. Hai đội “bốc thăm” giành quyền đọc trước.
Thời gian chơi: 3 - 5 phút
Cách chơi: Giáo viên cho hai đội chuẩn bị 2 phút, 5 em sẽ bàn nhau và
mỗi em viết sẵn một số thập phân bất kỳ vào một mặt của tờ giấy (viết to để ở
dưới lớp cũng nhìn thấy rõ; ghi cách đọc ở trên bằng chữ nhỏ, khi cầm giơ lên
đối phương không nhìn thấy). Mặt còn lại ghi cách đọc một số nào đó, cũng ghi
cách viết ở góc trên bằng cỡ chữ nhỏ. Hết thời gian 2 phút, giáo viên hô: “Lần
thứ nhất bắt đầu” thì đội được đi trước sẽ nêu cách đọc số của mình chuẩn bị
(mỗi số đọc to 2 lần), đội kia phải viết lại được. Sau khi đọc đủ 5 số, thì đổi vai
trò ngược lại. Lần thứ 2 thì đội đi trước phải nhìn các số của đội kia viết rồi đọc
to cho cả lớp nghe và đổi vai trò ngược lại. Sau khi 2 đội kết thúc đọc và viết,
giáo viên và cả lớp sẽ làm trọng tài để kiểm tra kết quả. Đội đọc phải giơ đáp án
lên, đội viết phải giơ kết quả. Cứ mỗi ý (đọc, viết) đúng 10 điểm, đọc chậm, vấp
sửa lỗi trừ đi 2 điểm. Nếu làm đáp án sai trừ 5 điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ
thắng cuộc và được tuyên dương trước lớp.
Trò chơi 3: Kết bạn (Áp dụng cho các tiết học: Nhân một số thập phân
với 10, 100, 1000,... Chia một số thập cho 10, 100, 1000,...).
Mục đích: Rèn luyện, củng cố kỹ năng tính nhẩm nhanh các phép tính
nhân, chia các số thập phân với 10, 100, 1000... Luyện cho học sinh tác phong

nhanh nhẹn, tinh mắt.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 10 đến 15 tấm bìa hình chữ nhật kích thước
10x15 cm, có dây đeo. Mỗi tấm đều ghi một phép tính hoặc kết quả tương ứng.
Ví dụ nội dung thẻ như sau:
15,5 x 10
2,571 x 1000
155
4,329
14


13,96 : 1000

2,37

90

2571

23,7 : 10

0,9 x 100

432,9 : 100

0,01396

Thời gian chơi: 3 - 5 phút.
Cách chơi: Học sinh xung phong lên rút thẻ của mình, sau đó tất cả đội
tập hợp thành vòng tròn, các em đeo thẻ trước ngực, mỗi em tự quan sát số thẻ

của mình và số thẻ của bạn. Tự tính nhẩm kết quả hoặc phép tính tương ứng với
kết quả hoặc phép tính ghi trên thẻ của mình.
Yêu cầu cả đội nhảy lò cò, vừa hát vừa vỗ tay cùng cả lớp: “Nhảy lò cò
cho cái giò nó khoẻ, đi xen kẽ cho nó khoẻ cái giò”. Khi giáo viên hô “Tìm bạn!
tìm bạn!” các em phải nhanh chóng tìm và chạy về với bạn đeo thẻ có kết quả
hoặc phép tính tương ứng với thẻ của mình. Những ai tìm đúng, tìm nhanh bạn
mình nhất thì ghi được 10 điểm. Bạn nào tìm sai thì phải tự nhẩm lại để tìm
đúng bạn mình. Sau một lượt giáo viên đổi thẻ lẫn lộn, sau đó cho các em tiếp
tục chơi hoặc nhóm khác chơi.
Trò chơi 4: Gà mẹ tìm con (Áp dụng cho các tiết học: cộng trừ, nhân,
chia phân số, số thập phân).
Mục đích: Củng cố các phép tính phân số, số thập phân.
Chuẩn bị: 5 con gà mẹ làm bằng bìa cứng có ghi phép tính. 5 con gà con
làm bằng bìa cứng có ghi kết quả tính.
Thời gian chơi: 3-5 phút
Cách chơi: Tổ chức cho học sinh chơi cá nhân. Gọi 10 học sinh xung
phong lên chơi: 5 em cầm 5 con gà mẹ, 5 em cầm 5 con gà con. Yêu cầu học
sinh cầm gà mẹ tìm đúng gà con của mình (sao cho phép tính trên mình gà mẹ
tương ứng với kết quả tính trên mình gà con). Cặp nào tìm đúng, nhanh nhất sẽ
thắng cuộc. Cặp nào tìm sai sẽ bị phạt và nhảy lò cò.
Trò chơi 5: “Ai nhanh, ai đúng” (Áp dụng cho các tiết học: Bảng đơn vị
đo độ dài, Bảng đơn vị đo khối lượng, Bảng đơn vị đo diện tích, Xăng - ti- mét
khối, Đề- xi-mét khối).
Mục đích: Giúp HS nắm vững mạch kiến thức về đo đại lượng
Chuẩn bị: 2 bút dạ, 2 tờ giấy khổ lớn (ví dụ ghi nội dung như sau):
Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống
a. 6090 kg = 6 tấn 9 kg
b. 2kg 326g = 2326g
c. 354dm = 3m 54 dm
d. 2010m2 = 20dm2 10m2

e. 29dm2 = 2m2 9dm2
g. 154000cm3 = 154dm3
Thời gian chơi: 3 phút
15


Cách chơi: Mỗi nhóm cử 6 bạn, xếp thành 2 hàng dọc. Sau khi giáo viên
hô: “Trò chơi bắt đầu” thì bạn số 1 sẽ chạy lên và điền Đ, S vào ô thứ nhất. Điền
xong thì bạn số 1 chạy về đưa bút cho bạn số 2 và cứ thế tiếp tục đến bạn số 6.
Nếu chạy trước khi bạn chưa chạy xuống đến nơi thì sẽ bị phạm luật. Mỗi đáp
án đúng được 2 điểm, phạm lỗi trừ 1 điểm. Đội nào nhiều điểm hơn đội đó sẽ
thắng cuộc.
Trò chơi 6: Hái hoa toán học (Áp dụng cho các tiết học: Diện tích tam
giác; Diện tích hình thang; Diện tích xung quang, diện tích toàn phần của hình
hộp chữ nhật; Diện tích xung quang, diện tích toàn phần của hình lập phương;
Ôn tập về tính chu vi diện tích một số hình).
Mục đích: Giúp học sinh nhớ lâu các công thức tính chu vi, diện tích các
hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành, hình thoi...Từ đó vận dụng linh hoạt,
kết hợp với kỹ năng tính nhẩm để tính chu vi, diện tích của hình với số đo cho
trước … Phát triển khả năng diễn đạt rõ ràng, mạch lạc.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một cây cảnh đặt lên bàn giáo viên làm cây
hoa. Treo sẵn trên cây các bông hoa được cắt bằng giấy màu trong có ghi nội
dung câu hỏi. (Tuỳ theo nội dung bài học để giáo viên chọn nội dung ghi trong
hoa)
Ví dụ1: Khi dạy bài: “Ôn tập hình học” giáo viên có thể chọn nội dung:
Muốn tìm diện tích hình vuông
Một cạnh nhân bốn ra ngay khó gì?
Bạn hãy cho biết hai câu thơ trên đúng hay sai? Hãy tính nhẩm nhanh diện
tích hình vuông mà cạnh bằng 30cm?
Ví dụ 2: Nêu quy tắc tính diện tích hình bình hành?

Ví dụ 3: Đố bạn điền tiếp những từ thích hợp và chỗ trống trong bài thơ
sau :
Diện tích chữ nhật là gì ?
Lấy dài…………..tức thì ra ngay.
Chu vi chữ nhật dễ thay.
Lấy ……………nhân hai là thành.
Ví dụ 4: Muốn tính diện tích hình thang
Đáy lớn, đáy bé ta mang......vào
Rồi đem ....với chiều cao
......lấy nửa thế nào cũng ra.
Ví dụ 5: Một hình lập phương có độ dài cạnh 5cm .
Bạn A nói: Diện tích xung quanh hình lập phương bằng 125 cm2
Bạn B nói: 125 cm2 là diện tích toàn phần của hình lập phương.
Theo bạn, ai nói đúng? Ai nói sai ? Vì sao ?
Ví dụ 6: Em hãy điền những từ thích hợp vào chỗ chấm của các câu thơ
sau:
Nói về công thức tính Vận tốc
16


Trên đường kẻ chậm với người mau.
Hai kẻ đồng chiều muốn gặp nhau.
Vận tốc đôi bên ………………….
………………chia với khó chi đâu.
9cm
Ví dụ 7:

Hình bên tên gọi là gì ?
Chu vi, diện tích em thì tính mau?


6cm

Thời gian chơi: 3 - 5 phút
Cách chơi: Chơi thi đua giữa cá nhân. Học sinh xung phong lên hái hoa
và đọc to, rõ ràng nội dung câu hỏi cho cả lớp cùng nghe sau đó mới trả lời kết
quả. Nếu bạn hái hoa trả lời chính xác, diễn đạt trôi chảy, gọn gàng, các bạn ở
dưới lớp vỗ tay thật to để cổ vũ cho bạn. Nếu bạn trả lời đúng kết quả nhưng
diễn đạt chưa mạch lạc, thì lớp vẫn vỗ tay khuyến khích bạn song nhỏ và ngắn
hơn. Nếu bạn trả lời sai giáo viên gợi ý vẫn không trả lời được thì phải nhảy cò
cò về chỗ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Từ thực áp dung các giải pháp đã nêu trên trong việc giảng dạy môn Toán
ở lớp 5A đã mang lại hiệu quả thiết thực trong quá trình dạy học. Các em nắm
vững kiến thức, nắm vững mục tiêu của bài, năng lực tư duy phát triển. Xây
dựng được ở các em lòng say mê học toán, phát triển khả năng tự học, tự sáng
tạo, đặc biệt làm trổi dậy năng lực còn tiềm tàng trong mỗi học sinh.
*Kết quả môn Toán của lớp 5A qua các kì đã kiểm tra:
Các kì kiểm
tra
Khảo sát đầu
năm
Kiểm tra định
kì giữa kì I
Kiểm tra định
kì cuối kì I
Kiểm tra định
kì giữa kì II

Tổng số

học sinh

Điểm
9 -10
SL
%

Điểm
7-8
SL
%

Điểm
5-6
SL %

Điểm
dưới 5
SL
%

25

4

16

7

28


8

40

6

24

25

9

36

8

32

5

20

3

12

25

13


52

5

20

7

28

0

0

25

13

52

6

24

6

24

0


0

3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu, triển khai và áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu
quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5, tôi thấy rằng:
17


Để đáp ứng với yêu cầu trình độ của người giáo viên trong thời đại mới,
thực hiện cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng
tạo”, mỗi thầy cô giáo cần phải vận động không ngừng, luôn tự học hỏi, tự
nghiên cứu sáng tạo để vốn kiến thức luôn được bổ sung, luôn được làm mới.
Đặc biệt trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, vấn đề này lại càng hết sức
quan trọng. Tài năng của học sinh được ví như nguồn tài nguyên còn nằm trong
lòng đất, cần được thầy cô giáo phát hiện, khai thác và sử dụng. Muốn vậy năng
lực và trình độ chuyên môn của người thầy phải thật vững vàng để thực sự đáp
ứng nhu cầu học tập của các em.
Có thể khẳng định để khơi dạy lòng say mê và thích học toán, phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học toán lớp 5 bằng những biện
pháp như đã trình bày ở trên là một hướng đi đúng đắn mang lại hiệu quả thiết
thực trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, để đảm bảo
mọi học sinh đều được hoạt động vừa sức, trước hết giáo viên cần phân loại đối
tượng ngay từ đầu năm. Căn cứ vào đó để ra biện pháp cụ thể.
Khi thiết kế bài dạy, giáo viên cần lưa ý chuẩn bị nhiều tình huống khác
nhau với hệ thống câu hỏi, hoặc bài tập đa dạng tương ứng với khả năng nhận
thức của các đối tượng học sinh. Từ đấy tạo được các tình huống có vấn đề và
các em quan tâm.
Trong quá trình lên lớp, giáo viên lưu ý phối hợp mềm dẻo các hình thức

dạy học, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học. Cần đưa trò chơi vào hệ
thống các phương pháp dạy học chủ đạo để góp phần kích thích hứng thú, nâng
cao khả năng tiếp thu. Khi sử dụng các phương pháp vấn đáp, giáo viên cần lưu
ý để học sinh được tham gia cả hai quá trình vấn đáp, giáo viên là người tổ chức
hoạt động tham gia khi cần thiết.
Khâu đánh giá kết quả học tập là khâu tương đối quan trọng, nó vừa là
động lực để học sinh học tập, phấn đấu, rèn luyện, vừa là công cụ để giáo viên
thu được thông tin ngược để điều chỉnh kế hoạch lên lớp. Nhưng cần lưu ý
không được để quá trình đánh giá trở nên đơn điệu, một chiều. Cần tạo điều kiện
để học sinh tự đánh giá bản thân, đánh giá lẫn nhau, tạo cho các em khả năng và
thói quen chủ động, linh hoạt, thận trọng khi giải toán.
Đặc biệt cần tổ chức linh hoạt các trò chơi trong mỗi tiết học để học sinh
tham gia học tập với tinh thần hăng say và hiệu quả.
3.2. Kiến nghị.
Với giáo viên:
- Cần bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên
trao đổi, rút kinh nghiệm, tìm tòi thêm nhiều cách giải phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
- Trong quá trình dạy cần hướng dẫn học sinh nắm chắc các kiến thức
chuẩn trong chương trình môn học, trên cơ sở các kiến thức chuẩn đó giáo viên
củng cố, mở rộng kiến thức; đưa các bài toán từ dạng lạ trở về các bài toán điển
18


hình quen thuộc. Nghiên cứu kĩ các phương pháp giải bài tập, sau đó phân dạng
để giải các bài tập theo mức độ từ dễ đến khó. So sánh các dạng bài tập để khắc
sâu kiến thức và cách giải cho học sinh.
Với tổ chuyên môn và nhà trường:
- Tổ chuyên môn, Ban giám hiệu cần quan tâm, tạo điều kiện cho giáo
viên đổi mới phương pháp dạy học. Tổ chức tốt các chuyên đề và nâng cao chất

lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn để bồi dưỡng năng lực cho giáo viên. Đặc
biệt cần có biện pháp thúc đẩy phong trào tự học, tự nghiên cứu để đổi mới
phương pháp dạy học.
- Nhà trường tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đầu tư các thiết bị
dạy học đáp ứng nhu cầu dạy học hiện nay.
Với các cấp quản li giáo dục:
- Các cấp quản lí giáo dục thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, các
đợt tập huấn về việc sử dụng các biện pháp dạy học giúp cho giáo viên tiểu học
có điều kiện trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, cập nhật được những thông
tin cần thiết giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học.
- Tiếp tục có các biện pháp động viên, khuyến khích các các cá nhân tập
thể đi đầu trong lĩnh vực đổi mới phương pháp dạy học bậc Tiểu học.
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ trong quá trình dạy học của bản thân. Do
thời gian nghiên cứu và thực nghiệm chưa nhiều nên không tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo để đề tài phát
huy tác dụng cao hơn.
Xin trân trọng cám ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Đình Nhất

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học ở Tiểu học (Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình Hoan,Vũ
Thuỵ Dương, Vũ Quốc Trung - NXB Giáo dục).
2. Sách giáo khoa Toán lớp 5 (Nhà xuất bản Giáo dục).
3. Sách giáo viên Toán lớp 5 (Nhà xuất bản Giáo dục).
4. Đặng Hữu Giang - Dạy học cá biệt - Một biện pháp nâng cao tính tích
cực học tập của học sinh.
5. Trần Bá Hoành (chủ biên) - Áp dụng dạy và học tích cực trong môn
toán học (Tài liệu tham khảo dùng cho giảng viên sư phạm, giáo viên trung học
cơ sở, giáo viên tiểu học, Dự án Việt Bỉ).
6. Trần Bá Hoành (TCGD) "Phát triển trí sáng tạo của học sinh và vai trò
của giáo viên "
7. Nguyễn Kỳ - Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung
tâm.
8. Tạp chí Giáo dục Tiểu học

20



×