Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

KIEN THUC HOI CHUNG TU KY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.35 KB, 3 trang )

KIẾN THỨC CƠ BẢN ĐỂ HIỂU HỘI CHỨNG TỰ KỶ
Rối loạn phổ tự kỷ là một tổ hợp những khuyết tật phát triển có thể dẫn đến những khó khăn
đáng kể về mặt giao tiếp, xã hội và hành vi.
Người tự kỷ xử lý thông tin trong não theo một cách khác với những người khác. Khuyết tật phát
triển là một tổ hợp đa dạng những tình trạng mãn tính nghiêm trọng do khiếm khuyết về thần
kinh và/hoặc thể chất gây ra.
Người bị khuyết tật phát triển gặp phải khó khăn lớn trong sinh hoạt hàng ngày như ngôn ngữ,
khả năng vận động, học hỏi, tự chăm sóc bản thân, và sống độc lập. Khuyết tật phát triển bắt đầu
trong khoảng giai đoạn phát triển từ 0 đến 22 tuổi và thường tồn tại suốt cả cuộc đời của người
đó. Rối loạn phổ tự kỷ (TK) là “rối loạn phổ”.
Có nghĩa là TK sẽ có ảnh hưởng đến mỗi người một khác nhau, và có thể từ nhẹ cho đến nặng.
Người TK đều có chung một số triệu chứng giống nhau, ví dụ vấn đề về giao tiếp xã hội. Nhưng
sẽ khác nhau về thời điểm triệu chứng thể hiện ra, mức độ nặng nhẹ, và bản chất thực sự của
triệu chứng. “
Dấu hiệu nhận biết Hội chứng này thường được phát hiện vào lúc trẻ 3 tuổi, và trong nhiều
trường hợp thì sớm hơn: lúc trẻ 18 tháng. Cha mẹ thường là người đầu tiên nhận thấy các hành vi
không bình thường ở trẻ.
Trong nhiều trường hợp, trẻ đã có vẻ “rất khác” từ khi sinh ra, không tương tác với mọi người
hoặc nhìn chăm chú vào một vật gì đó rất lâu. Các dấu hiệu đầu tiên của HCTK cũng có thể xuất
hiện ở những đứa trẻ có vẻ như đã phát triển bình thường.
Tất cả các trẻ em mắc phải HCTK đều thiếu hụt các mặt:
– 1, tương tác xã hội.
– 2, giao tiếp bằng lời hoặc phi lời nó.
– 3, các hành vi hoặc quan tâm lặp đi lặp lại.
Các mức độ của HCTK Những quan niệm ban đầu về tự kỉ thường chỉ tập trung nói về những trẻ
có mức độ tổn thương nặng các chức năng.
Dần dần, các nhà khoa học phát hiện ra rằng: các mức độ kỹ năng của những trẻ tự kỉ ở phạm vi
rộng hơn như người ta từng nghĩ. Một số trẻ có thể phát triển các chức năng tương đối tốt, với trí
thông minh bình thường hoặc gần như bình thường. Điều này dẫn đến việc thay đổi thuật ngữ
thành HCTK, ngụ ý có 1 phạm vi hoạt động ở một số mặt kỹ năng.



HCTK bao gồm các rối loạn khác nhau với những mức độ khác nhau. – Từ mức độ trung bình –
rối loạn Asperger – Đến mức độ nặng như chứng tự kỉ hay còn gọi là rối loạn tự kỉ (autistic
disorder) (được biết đến nhiều nhất và có tỉ lệ cao trong số những người mắc HCTK). – Hội
chứng Rett và rối loạn tan rã tuổi ấu thơ (childhood disintegrative dissorder) cũng nằm trong
HCTK, là những bệnh hiếm gặp và rất nặng.
Rối loạn (RL) Asperger (mức độ trung bình): RL Asperger được lấy tên của Hans Asperger. Năm
1944, trong quá trình làm việc, ông chú ý và mô tả những đứa trẻ có trí thông mình bình thường
nhưng thiếu những kĩ năng giao tiếp bằng lời, khó chia sẻ, hòa nhập với bạn bè và thường có
biểu hiện bên ngoài vụng về, kì cục.
Tuy nhiên, chỉ đến năm 1994, RL Asperger mới được công nhận như một bệnh và được ghi vào
bảng phân loại bệnh quốc tê. RL Asperger được đặc trưng bởi sự thiếu hụt nghiêm trọng các
tương tác xã hội, cùng với sự xuất hiện các mẫu hành vi không điển hình, đặc biệt là không có sự
chậm phát triển ngôn ngữ và nhận thức.
Tuy nhiên, ngôn ngữ của trẻ mắc rối loạn Asperger thường khác biệt với ngôn ngữ của người
khoẻ mạnh ở chỗ: Rất thông thái một cách không bình thường, dài dòng. Ví dụ như khi bất cứ ai
cho 1 đứa trẻ 3 tuổi kẹo, trẻ trả lời “con không ăn kẹo. Cảm ơn. Kẹo không phải là thứ mà con ưa
thích”. Sử dụng các ẩn dụ có vẻ như chỉ trẻ mới hiểu được, kì quặc về âm lượng, ngữ điệu,
cường độ, trọng âm, …
Ban đầu, rất nhiều cha mẹ có con mắc rối loạn Asperger nhầm tưởng con mình thông minh đặc
biệt. Các nhà khoa học hiện nay sau khi nghiên cứu tiểu sử của Einstein và Newton cũng cho
rằng Einstein và Newton có thể mắc rối loạn Asperger. Người ta cũng quan sát thấy những người
lớn mắc RL Asperger thương thành công ở các lĩnh vực toán, lý hoặc máy tính.
Dấu hiệu chẩn đoán Sau đây là những dấu hiệu giúp chẩn đoán rối loạn Asperger và phân biệt
với tự kỉ. Những dấu hiệu chẩn đoán và phân biệt giữa chứng tự kỉ và rối loạn Asperger (theo
Hiệp hội Tâm thần Hoa Kì)
Chú thích: **: yêu cầu ít nhất 2 trong số các biểu hiện. *: yêu cầu ít nhất 1trong số các biểu hiện.
X: có biểu hiện.
Chẩn đoán tự kỉ cần có 6 (hoặc hơn) các hành vi đặc trưng thuộc các nhóm tương tác xã hội,
hành vi dập khuôn và ngôn ngữ trong đó có ít nhất 2 hành vi về tương tác xã hội, 1 hành vi thuộc

nhóm hành vi dập khuôn và 1 thuộc nhóm ngôn ngữ.
Chẩn đoán rối loạn Asperger yêu cầu 5 điều kiện trong đó: Có ít nhất 2 biểu hiện thuộc nhóm
tương tác xã hôi;Ít nhất 1 biểu hiện thuộc nhóm hành vi dập khuôn; Về ngôn ngữ: không có dấu


hiệu lâm sàng về chậm ngôn ngư; Về nhận thức: không có dấu hiệu về chậm phát triển nhận thức
hoặc các kỹ năng tự phục vụ; Các rối nhiễu gây ra sự thiếu hụt các chức năng, hoạt động xã hôi,
nghề nghiệp và các hoạt động khác;
Hiện nay, vẫn còn nhiều tranh cãi về quan hệ RL tự kỉ và RL Asperger: liệu RL Asperger là hoàn
toàn khác biệt với RL tự kỉ hay đó chính là một dạng RL tự kỉ ở mức độ, chức năng cao? Nguyên
nhân của rối loạn Asperger Cũng như đối với rối loạn tự kỉ, hiện nay, cũng có nhiều giả thuyết về
nguyên nhân rối loạn Asperger nhưng chưa có kết luận cuối cùng. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu
cho thấy những người mắc bệnh này có vấn đề về gen.
Ngoài ra, các kỹ thuật chụp não cũng nhận thấy có những khác biệt về cấu trúc chức năng ở một
số vùng chuyên biệt của não bộ. Tỉ lệ mắc bệnh Hiện nay, chưa có con số chính xác về tỉ lệ
người mắc bệnh do bệnh mới được công nhận và những tranh cãi về việc phân chia giữa RL tự kỉ
giữa RL Asperger. Người ta chỉ ghi nhận tỉ lệ nam nữ mắc bệnh là 5 nam, 1 nữ.
Tiến sĩ Đặng Hoàng Minh, bộ môn Tâm lý-Giáo dục, khoa Sư phạm, ĐH quốc gia Hà Nội



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×