Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN dạy hoc tich cưc toán 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.79 KB, 26 trang )

PHẦN I.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
a. Cơ sở lí luận
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn
vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của
nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết
về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và bồi
dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh, đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc
học mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn.
Việc đổi mới dạy học theo chuẩn kiến thức- kĩ năng ở bậc tiểu học, việc
đổi mới phương pháp dạy học ở các môn học nói chung trong đó có môn Toán
nói riêng là một yêu cầu tất yếu không thể thiếu được.
Trong quá trình dạy học, giáo viên là người tổ chức và hướng dẫn hoạt
động của học sinh, mọi học sinh đều được tham gia hoạt động học tập để phát
triển năng lực cá nhân.Với quan điểm“ lấy học sinh làm trung tâm”, thầy thiết
kế - trò thi công..., Nhiều giáo viên đã cố gắng đầu tư suy nghĩ để tổ chức tốt các
hoạt động dạy học trên lớp nhằm phát huy cao độ khả năng tự học, tự nghiên
cứu để chiếm lĩnh kiến thức góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung,
chất lượng học tập môn Toán nói riêng một cách vững chắc.
Môn toán không chỉ giúp học sinh có những kiến thức cơ bản, hình thành
những kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải các bài toán có những ứng dụng
thiết thực trong cuộc sống,… mà còn góp phần bước đầu phát triển năng lực tư
duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và
cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí
tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần bước đầu hình thành phương
pháp học tập và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
Với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất
1



lượng dạy học môn Toán ở trường PTDTBT Tiểu học Na Phát , tôi đã chọn đề
tài: “ Một số giải pháp dạy học sinh tích cực môn toán lớp 5 ở trường PTDTBT
Tiểu học Na Phát” làm đề tài nghiên cứu.
b. Cơ sở thực tiễn
Với nhu cầu của một xã hội hoá GD đòi hỏi ngành GD phải đổi mới
phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết
tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc học của con em ở địa
phương, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn
luyện rất ít, điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn.
Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không ham
học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn khoăn là làm thế
nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học sinh trong học tập. Đây là
một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện nhanh và đúng cách để những thế hệ do
chúng ta đào tạo là những người làm chủ tương lai, đất nước, biết xây dựng quê
hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn dân đi lên sánh được với các nước phát
triển trên thế giới. Đặc biệt là giáo dục ở các vùng miền nông thôn và miền núi.
Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các em học sinh nông thôn, dân tộc
mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá việc học của mình cũng
như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn khác. Từ đó các em có tính chủ động
hơn trong học tập và biết phấn đấu thi đua nhau để việc học có kết quả cao hơn.
Đó cũng chính là lí do tôi chọn sáng kiến “Một số giải pháp dạy học sinh tích
cực môn toán lớp 5 ở trường PTDTBT Tiểu học Na Phát”
c . Mục đích của sáng kiến
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề; tìm hiểu thực trạng chất lượng
giải toán tại trường PTDTBT Tiểu học Na Phát tôi thấy chất lượng còn thấp. Vì
vậy, tôi thực hiện sáng kiến “Một số giải pháp dạy học sinh tích cực môn toán
lớp 5 ở trường PTDTBT Tiểu học Na Phát” với mục đích là:
+ Khơi dậy khả năng tư duy sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh, trang
bị, cung cấp cho học sinh những biện pháp, kĩ năng học tốt môn Toán để các em
hiểu và yêu thích môn học này.

2


+ Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp 5.
2.Giới hạn đề tài
- Học sinh lớp 5A2 - trường PTDTBT Tiểu học Na Phát.
- Giáo viên dạy khối lớp 5 - trường PTDTBT Tiểu học Na Phát.
PHẦN II.
NỘI DUNG
1. Thực trạng vấn đề
Thực trạng của việc dạy và học toán ở trường PTDTBT Tiểu học Na
Phát – xã Na Son - huyện Điện Biên Đông
a Thuận lợi
* Đối với giáo viên
- Nhà trường thường xuyên kiểm tra, dự giờ, có kế hoạch lên chuyên đề
để giáo viên được học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, đưa ra những biện pháp dạy
học hay nhất giúp các em học sinh tiếp thu bài được tốt nhất.
- Giáo viên đã quen dần với việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy
học theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh.
- Bản thân là giáo viên nhiều năm liền giảng dạy lớp 5, yêu nghề, nhiệt
tình, tâm huyết với nghề mà mình đã chọn.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, ham học hỏi nắm vững các
bước cơ bản và quy trình dạy một toán.
* Đối với học sinh
- Đa số học sinh trong lớp có ý thức ham học hỏi, ngoan, biết vâng lời, có ý
thức tìm tòi, nghiên cứu.
- Đa số học sinh có ý thức học tập tốt, nhà trường trang bị tương đối đầy
đủ đồ dùng cho dạy học. Học sinh có đầy đủ phương tiện học tập.
b. Khó khăn:
* Đối với giáo viên

- Tuy đến lớp giáo viên vẫn trang bị cho mình giáo án đầy đủ nhưng chỉ
giảng bài dựa theo sách giáo khoa mà không tìm ra một phương pháp dạy thích
hợp cho học sinh mình.
3


- Bên cạnh đó một số giáo viên áp dụng các phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học môn Toán còn khá máy móc, đơn điệu chủ yếu hướng tới việc
hoàn thành mục tiêu bài học, môn học chứ chưa chú ý đến việc học sinh có hứng
thú học hay không.
- Việc chấm, chữa bài đôi khi còn chưa tỉ mỉ.
* Đối với học sinh
- Phần lớn học sinh chưa hứng thú với bài toán có nhiều phép tính, bài
toán có lời văn, nó đòi hỏi sự sáng tạo và kĩ năng của các em.
- Vốn từ của các em còn nghèo nên khi xác định dạng toán, yêu cầu bài
toán hay bị nhầm lẫn.
- Vẫn còn một số phụ huynh chưa thực sự quan tân đến việc học của con
mình. Một phần vì cuộc sống khó khăn phải lo bươn chải kiếm sống, mặt khác
họ xem nhẹ việc học vì các em còn ở lớp nhỏ chưa cần thực sự quan tâm sâu sắc.
c. Thực trạng
- Năm học này cũng là năm thứ tư trường PTDTBT TH Na Phát thực hiện
chương trình VNEN. Với mô hình dạy học này cả giáo viên và học sinh
phải chuyển đổi từ lối truyền thụ một chiều của giáo viên thầy giải trò nghe
sang thầy đọc trò chép sang dạy học hợp tác học sinh học tập chủ động khám
phá kiến thức. Bên cạnh đó giáo viên vẫn sử dụng phương pháp chủ yếu là giảng
giải, vấn đáp chính vì thế giờ học trở nên khô khan, nhàm trán với những con số
vô hồn ít đọng lại kiến thức trong tâm trí các em.
-Học sinh ít tìm tòi tài liệu về môn toán mà chỉ dùng đơn thuần là cuốn
sách giáo khoa dẫn đến tâm lí một số em sợ học môn này vì cho rằng nó khô và
khó. Khô vì giờ học tẻ nhạt, đơn điệu và nhàm chán. Khó vì phải nhớ quá nhiều

ghi nhớ, công thức. Từ đó học sinh không hướng thú, học vẹt, học chỉ để trả bài,
để qua các lần kiểm tra chứ không hiểu và yêu thích môn Toán thì rất ít.
-Năm học 2018-2019 tôi được Nhà trường phân công chủ nhiệm và dạy
lớp 5A2, lớp có 24 em là người dân tộc Thái, Hmông, nhiều em gia đình rất khó
khăn, bố mẹ đi làm ăn xa không quan tâm được đến việc học hành của con cái.
Ở lớp 5, khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, khái quát các vấn
4


đề còn yếu, khả năng ghi nhớ còn chậm nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách
máy móc. Kĩ năng đọc và phân tích đề toán chưa nhanh do đó ảnh hưởng đến
thời gian và tiến trình chung của môn học; Tinh thần hợp tác chưa cao, nhiều em
chưa tự tin hợp tác trong nhóm, một số em còn học tập thụ động. Chính những
điều đó tạo nên những khó khăn trong quá trình dạy và học.
- Qua thực trạng nói trên cho thấy việc giải toán của học sinh lớp 5 nói
riêng và học sinh cấp Tiểu học nói chung là vô cùng cần thiết vì đây là một môn
học liên quan đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh giúp học sinh
phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập đó là “Học mà chơi – chơi mà
học” và đem lại chất lượng rất cao. Đối với tôi đây chính là việc “Tự học – Tự
rèn” cho bản thân để nâng cao cả về kiến thức cũng như chuyên môn nghiệp vụ,
cách sử dụng công nghệ thông tin.
- Từ những vấn đề trên, tôi cũng như mọi giáo viên khác cần có sự thống
nhất cao đó là luôn quan tâm, theo dõi giúp đỡ các em trong quá trình học của
học sinh.
d. Nguyên nhân của thực trạng
* Về phía giáo viên
- Giáo viên chưa linh hoạt, chủ động, sáng tạo khi tổ chức dạy trên lớp, một
số giáo viên áp dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn Toán còn
khá máy móc, đơn điệu chủ yếu hướng tới việc hoàn thành mục tiêu bài học,
môn học chứ chưa chú ý đến việc học sinh có hứng thú học hay không.

* Về phía học sinh
- Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, khái quát các vấn đề còn
yếu, khả năng ghi nhớ còn chậm nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy
móc. Kĩ năng đọc và phân tích đề toán chưa nhanh do đó ảnh hưởng đến thời
gian và tiến trình chung của môn học; Tinh thần hợp tác chưa cao, nhiều em
chưa tự tin hợp tác trong nhóm, một số em còn học tập thụ động. Chính những
điều đó tạo nên những khó khăn trong quá trình dạy và học.
- Vốn từ của các em còn nghèo nên khi xác định dạng toán, yêu cầu bài
toán hay bị nhầm lẫn.
5


Để giải quyết được vấn đề này, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình học
sinh lớp 5 ngay từ đầu năm học. Tôi tìm hiểu chất lượng học sinh năm học trước
đồng thời tiến hành khảo sát chất lượng môn toán của học sinh ngay đầu năm
học 2018- 2019 qua hai bài toán như sau:
* Bài toán 1: Người ta dùng gỗ để lát sàn một căn phòng hình chữ nhật có
chiều dài 6m, chiều rộng 4m. Hỏi phải tốn bao nhiêu tiền mua gỗ để lát sàn cả
căn phòng đó, biết giá tiền 1m2 gỗ sàn là 280.000 đồng?
* Bài toán 2: Theo dự định, một xưởng mộc phải làm trong 30 ngày, mỗi
ngày đóng được 12 bộ bàn nghế thì mới hoàn thành kế hoạch. Do cải tiến kĩ
thuật nên mỗi ngày xưởng đó đóng được 18 bộ bàn nghế. Hỏi xưởng mộc làm
trong bao nhiêu ngày thì hoàn thành kế hoạch?
Sau khi chấm bài, tôi thu được kết quả như sau:

Lớp

5A2

Tổng


Mức độ đánh giá
Số học Tỷ
Số học Tỷ

số

sinh

học

đạt

đạt

đạt

đạt

sinh

điểm

điểm

điểm

điểm

25


9 - 10
5

7-8
20% 10

5-6
40% 10

lệ % sinh

Số học Tỷ lệ Số học Tỷ lệ

lệ % sinh

%

40%

sinh

dưới 5
0

%

0%

2. Những giải pháp thực hiện

-Trong hệ thống giáo dục cấp tiểu học, nếu người dạy học không được
phép coi nhẹ môn học nào và đặc biệt là môn Toán. Qua bao nhiêu năm công
tác, không hẳn đã có học sinh yếu toàn diện, cái quan trọng là do người dạy khai
thác tư duy học sinh như thế nào để các em tiếp nhận thông tin mà thôi. Vậy mới
thấy được luôn đổi mới phương pháp dạy học là cực kì quan trọng. Với những
biện pháp tích cực mà người viết đưa ra sẽ giải quyết mâu thuẫn đó, giúp người
học chiếm lĩnh một cách trọn vẹn.
* Trước hết ta hiểu phương pháp dạy học tích cực là gì ?
- Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp dạy học nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cá nhân học sinh trong quá trình học
tập để tiếp thu kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
6


- Với quan niệm trên phương pháp dạy học có ba đặc điểm:
Hoạt động: Hình thức tổ chức, đánh giá, kích thích học sinh xử lí tình
huống giao tiếp.
Khoa học: Chính xác, hệ thống.
Nghệ thuật: Tính sáng tạo, năng lực kinh nghiệm.
- Tính tích cực thể hiện:
Hứng thú: Hăng hái tham gia vào quá trình học tập. Có phương pháp tự
học, tự phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề của giáo viên đưa ra.
Mạnh dạn nêu thắc mắc của bản thân. Tính tích cực của học sinh đối lập
với sự thụ động.
- Dấu hiệu nhận biết phương pháp dạy học tích cực:
Kích thích nhu cầu hứng thú học tập của học sinh, tạo cho học sinh tự
giác học tập. Việc cùng hoạt động cá thể với nhóm nhỏ.
Kết hợp với đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của học sinh cho hợp lí.
Giáo viên có hệ thống câu hỏi phỏng vấn, có nghệ thuật ứng xử sư phạm
thích hợp, biết tạo tình huống có vấn đề và tạo cho học sinh giải quyết vấn đề.

Tiết học diễn ra nhẹ nhàng hiệu quả, học sinh tiếp thu được những yêu
cầu của bài.
-Trong quá trình dạy học có rất nhiều phương pháp như: phương pháp
trực quan, phương pháp gợi mở vấn đáp, . . . Nhưng hiện nay các phương pháp
dạy học tích cực đang được khuyến khích sử dụng rộng rãi là phương pháp dạy
học phát hiện và giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm
(nhóm tương tác); phương pháp vận dụng lý thuyết kiến tạo trong dạy học,
phương pháp luyện tập một số dạng bài tập để có kĩ năng.
2.1. Phương pháp luyện tập một số dạng bài tập để có kĩ năng.
Như chúng ta đã biết, thời gian lên lớp cho mỗi tiết dạy tại ở lớp có giới
hạn do đó để tránh mất nhiều thời gian, tùy theo mục tiêu kiến thức, kĩ năng cần
đạt cho mỗi tiết học, cho mỗi đơn vị kiến thức mà giáo viên dự kiến đề ra bài tập
để rèn kĩ năng cho học sinh sao cho phù hợp. Vấn đề này đòi hỏi giáo viên phải
nghiên cứu kĩ bài dạy, chuẩn bị sẵn bài tập rèn kĩ năng và nên chọn bài nào làm
tại lớp, bài nào nên cho về nhà; phần nào của bài tập thì cho học sinh trả lời
ngay tại lớp, phần nào của bài tập thì cho học sinh luyện làm ở nhà... Có làm
7


được như vậy thì hiệu quả tiết học mới cao, học sinh không bị dồn ép bởi lượng
bài tập giáo viên đề ra. Cụ thể tôi xin nêu ra một số dạng bài tập để rèn kĩ năng
cho học sinh như sau:
* Tìm chỗ sai lầm trong cách giải của các bài toán sau .
Để tiến hành việc giúp học sinh nhận xét và phát hiện chỗ sai lầm trong bài
giải (bài giải có chỗ sai lầm mà GV đã chuẩn bị) có thể thực hiện các bước sau:
+ GV nêu nội dung bài toán và đính lên bảng lớp bài giải (bài giải có chỗ
sai lầm nhưng giáo viên không báo cho học sinh biết có sai lầm – trường hợp
cần thiết giáo viên mới báo trước để học sinh tìm lỗi sai ) đã chuẩn bị ở bảng
phụ - một số bài giải có chỗ sai lầm nêu dưới đây là các bài tôi thu thập được từ
bài làm học sinh.

+ Yêu cầu học sinh đọc kĩ nội dung đề toán và nhận xét bài giải đã trình bày
(bài giải có chỗ sai lầm) ở bảng phụ – do giáo viên vừa đính lên trên bảng.
+ GV hướng dẫn học sinh phân tích, rút ra kết luận và hướng giải đúng của
bài toán, đồng thời kết hợp đính lên bảng lớp bài giải đúng đã chuẩn bị để học
sinh quan sát, đối chiếu với bài giải có chỗ sai lầm từ đó các em rút ra được bài
học kinh nghiệm trong việc phân tích đề toán để giải đúng hướng.
Bài 1 : Bài toán : Một tấm bìa hình chữ nhật có chiều dài

1
m; chiều rộng
2

1
m. Chia tấm bìa đó thành 3 phần bằng nhau. Tính diện tích mỗi phần.
3

Bài giải có chỗ sai lầm
Bài giải 1a
Diện tích của miếng bìa đó là :

Bài giải đúng
Bài giải 1b
Diện tích của miếng bìa đã cho là :

1
1
1
x = (m)
2
3

6

1
1
1
x = (m2)
2
3
6

Khi chia miếng bìa đó thành 3 phần Khi chia miếng bìa đó thành 3 phần
bằng nhau thì mỗi phần là :
bằng nhau thì diện tích mỗi phần là :
1
1
: 3=
(m)
6
18

Đáp số :

1
1
: 3=
(m2)
6
18
1
m

18

Đáp số :

1 2
m
18

Bài giải 2a
Bài giải 2b
Khi chia tấm bìa đó thành 3 phần thì Khi chia tấm bìa đó thành 3 phần bằng
chiều dài mới là :
nhau thì chiều rộng mỗi phần là :
1
1
: 3 = (m)
2
6

1
1
: 3 = (m)
3
9

Chiều rộng mới nhất là :

Diện tích của một phần miếng bìa là :

1

1
: 3 = (m)
3
9

1
1
1
x =
(m2)
2
9
18
1
Đáp số :
m2
18

Diện tích của một phần miếng bìa là :
1
1
1
x =
(m2)
6
9
54

8



Đáp số :

1
m2
54

Trả lời:
Trong bài giải 1a có lỗi sai ở chỗ : đơn vị kèm theo kết quả tính diện tích
phải là mét vuông, trong bài giải chỉ ghi là mét.
Trong bài giải 2a có lỗi sai ở chỗ: người làm bài không hình dung được
cách chia. Vì vậy đã cho rằng khi chia miếng bìa thành 3 phần thì tức là cả chiều
dài và chiều rộng bị chia thành 3 phần( như vậy thực sự người làm bài đã chia
miếng bìa thành 9 phần bằng nhau).
Ta có thể có các cách chia phù hợp như sau:
+ Chỉ quan tâm chia số đo diện tích, không cần hình dung về hình học.
Vậy ta đi tính diện tích rồi chia ( như cách trình bày bài giải đúng 1b nêu trên).
+ Hình dung ra cách chia trong thực tế, ta vẽ thêm hình để minh họa cách
chia:
S =?
Cách 1

Cách 2

Cách 3

Bài 2 : Cho bài toán: Một mảnh đất có hình vẽ trên bản đồ tỉ lệ 1 : 1000 là
hình chữ nhật với chiều dài 5cm, chiều rộng 3cm. Tính diện tích mảnh đất đó
ngoài thực tế với đơn vị đo là mét vuông.
Bài giải có chỗ sai lầm

Bài giải đúng
Bài giải
Bài giải
Diện tích của mảnh đất đó ở trên bản
Theo tỉ lệ 1: 1000 nên chiều dài
của mảnh đất đó ở trên thực tế là:
đồ có là : 5 x 3 = 15 (cm)
5 X 1000 = 5000 (cm)
Theo tỉ lệ 1 : 1000 vì vậy diện
5000cm = 50m
tích của mảnh đất đó trên thực tế là
Theo tỉ lệ 1:1000 nên chiều rộng
15 x 1000 = 15000 (cm2)
của mảnh đất đó ở trên thực tế là:
15000 cm2 = 150 m2
3 x 1000 = 3000(cm)
Đáp số : 150 m2
3000cm = 30m
Vậy diện tích của mảnh đất đó trên
thực tế là: 50 x 30 = 1500 (m2)
Đáp số: 1500 m2
Trả lời:
Trong bài giải có 3 lỗi sai:

9


+ Lỗi sai thứ nhất là: Tính diện tích của mảnh đất trên bản đồ đã ghi đơn
vị kèm theo số đo là xăng-ti-mét. Ghi đúng phải là xăng-ti-mét vuông,
+ Lỗi sai thứ hai là: Đã coi tỉ lệ về diện tích trên bản đồ với diện tích

ngoài thực tế cũng bằng tỉ lệ độ dài. Thực chất tỉ lệ về diện tích trên bản đồ với
diện tích ngoài thực tế là rất khác với tỉ lệ độ dài.
+ Lỗi sai thứ ba là: Sai lầm khi đổi đơn vị đo 15000 cm 2 = 150m2 , ở đây
nhầm lẫn ở chỗ đổi đơn vị đo diện tích lại nhớ sang quan hệ đo độ dài.
Bài 3: Bài toán: Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài là a và chiều
rộng là b ( a > b ; a và b cùng đơn vị đo ). Hỏi nếu giảm chiều dài đi 20% và
tăng chiều rộng lên 20% thì diện tích của thửa ruộng đó lớn hơn hay nhỏ hơn
hay bằng diện tích ban đầu ? ( Bài toán dành cho học sinh khá, giỏi)
Bài giải có chỗ sai lầm
Bài giải đúng
Bài giải
Bài giải
Diện tích thửa ruộng lúc đầu là :
Diện tích thửa ruộng lúc đầu là :
S1 = a x b
(1)
S1 = a x b
(1)
Khi giảm chiều dài đi 20% ta có chiều Khi giảm chiều dài đi 20% ta có chiều
dài mới là

a
20%

dài mới là

Khi tăng chiều rộng thêm 20% ta có
chiều rộng mới là : b x 20%
Vậy diện tích của thửa ruộng sau khi
giảm chiều dài và tăng chiều rộng ta

có :
S2 =

a
20%
x b x 20% = a x b x
20%
20%

80
xa
100

Khi tăng chiều rộng thêm 20% ta có
chiều rộng mới là :

120
xb
100

Vậy diện tích của thửa ruộng sau khi
giảm chiều dài 20% và tăng chiều rộng
20% ta có :
80
120
xa x
xb
100
100
96

=axbx
(2)
100

S2 =

=axb
(2)
Từ (1) và (2) ta thấy sau khi giảm chiều
dài 20%, và tăng chiều rộng 20% thì
diện tích của thửa ruộng không thay Từ (1) và (2) ta thấy sau khi giảm
chiều dài 20%, và tăng chiều rộng 20%
đổi.
thì diện tích mới nhỏ hơn diện tích của
Trả lời : Diện tích không đổi.
thửa ruộng lúc ban đầu.
Trả lời : Diện tích nhỏ hơn lúc đầu
Trả lời:
Trong bài giải trên đã có sai lầm ở chỗ: coi việc giảm chiều dài đi 20% là
lấy chiều dài chia cho 20%, và tăng chiều rộng lên 20% là nhân chiều rộng với
20%. Vì vậy đã đi tới kết luận diện tích không đổi là sai. Làm đúng thì phải trừ
đi 20% chiều dài và cộng thêm 20% chiều rộng để có chiều dài và chiều rộng
mới rồi nhận xét.
( Tham khảo bài giải đúng đã trình bày ở trên)
* Hãy vẽ hình và tóm tắt các bài toán nêu dưới đây rồi giải
10


Đối với dạng bài tập này nhằm củng cố kĩ năng vẽ hình và giúp học sinh
nhớ các yếu tố, các đặc điểm cơ bản của các hình đã học, đồng thời thông qua

giải bài toán rèn kĩ năng nhớ công thức, kĩ năng trừu tượng, tư duy suy luận,
phân tích, tổng hợp hoặc liên hệ thực tiễn…
Bài 7 : Vẽ hình và tóm tắt bài 1 ; 2 ( đã cho ở trên mục 2.1) rồi trình bày
cách giải đúng.
a)Vẽ hình và tóm tắt bài 1
1/2m
1/2m
1/2m
1/3m

1/3m
1/3 x S=?

1/3m
1/3x S=?

1/3 x S=?

Cách 1
Cách 2
Cách 3
* Phần trình bày cách giải đúng đã thể hiện ở mục 2.1 nêu trên.
(Lưu ý: cách 3 dựa vào hình vẽ, học sinh tự làm .)
b) Vẽ hình và tóm tắt bài 2 như sau:
Tỉ lệ 1:1000
S = .... m2

3cm

5cm

Phần trình bày cách giải đúng đã thể hiện ở mục 4.1 nêu trên.
2.6.3. Trình bày bài giải của các bài toán sau.
Dạng bài tập này giáo viên có thể cho học sinh làm ở nhà và kiểm tra vào
những tiết học sau hoặc vào thời gian thích hợp. Mục đích của việc giao một số bài
tập dạng này là nhằm giúp học sinh vận dụng kiến thức đã học để luyện tập , thông
qua đó các em biết liên hệ một số tình huống thực tiễn để giải quyết được bài tập,
hoặc các em có điều kiện, thời gian tìm được nhiều cách giải của một bài toán...
Bài 4 : Một vườn rau hình chữ nhật có chiều dài 18m và chiều rộng bằng

2
3

chiều dài. Người ta dự tính sẽ cắm cọc rào cách đều nhau 1,5m để đựng các tấm
phên cọc rào cho đủ, biết rằng để cổng vào vườn rộng 3m, các góc vườn đều có cọc.
Bài giải
Chiều rộng của mảnh vườn đó là:
18x

2
=12 (m)
3

Chu vi mảnh vườn đó là.
( 18 + 12) x 2 = 60(m).
11


Nếu không để cổng mà cứ cắm cọc cách đều 1,5m thì cần tất cả số cọc rào là:
60 : 1,5 = 40 ( cọc).
Vì phải để cổng ra vào 3m nên ta phải bớt một cọc rào ( ở giữa), vậy số cọc là:

40 – 1 = 39( cọc).
Đáp số: 39 cọc.
( Người đọc có thể chọn cách giải khác, chẳng hạn: vận dụng dạng toán trồng
cây 2 đầu và không trồng cây 2 đầu để giải,...)
Bài 5 : Cho tam giác ABC có AC = 35 cm, AB = 28cm. Trên cạnh BC
người ta lấy điểm M. Nối AM ta có 2 tam giác ABM và ACM. Chu vi của tam
giác ABC là 105cm. Hiệu giữa chu vi của tam giác ACM và ABM là 13cm.
a) Vẽ hình tóm tắt bài toán.
b) Tính tỉ số độ dài của 2 đoạn MC và MB .
Bài giải:
A
a)Ta có hình vẽ tóm tắt bài toán như hình bên.
Chu vi kí hiệu là C.
CABC = 105m. 28cm
35cm
CACM – CABM = 13m, MC :MB = ?
b) Độ dài cạnh BC là:
105 - (35+28) = 42(cm)
B ?cm
M
?cm
C
Vì hai tam giác ACM và ABM có
chung cạnh AM nên hiệu giữa hai chu vi
của tam giác ACM và ABM chính bằng hiệu sau.
( 35 +CM) – ( 28+BM)= 13(cm)
Suy ra ta có : CM – BM = 6(cm).
Theo cách tìm hai số khi biết tổng (42) và hiệu (6), ta tìm được độ dài đoạn BM
và CM là :
CM = (42+6) : 2 =24(cm)

BM = 42 – 24 = 18 (cm)
Tỉ số độ dài hai đoạn CM và BM là :
24 :18 =

24
4
=
18
3

Đáp số :

4
3

2.2 phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Muốn nâng cao chất lượng dạy học thì cần thiết phải quan tâm nhiều tới
mặt bên trong của phương pháp, tới hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo của
người học với tư cách là chủ thể trong quá trình học tập. Đòi hỏi này xuất phát
12


từ yêu cầu xã hội đối với sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Từ những đặc
điểm của nội dung mới và bản chất của quá trình học tập. Vì vậy, phải giúp học
sinh phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học.
Vấn đề: Là một yêu cầu đặt ra cho học sinh những khó khăn về mặt lí
luận hay thực tiễn mà họ thấy cần thiết và có khả năng vượt qua nhưng không
phải là ngay tức khắc nhờ một quy tắc có tính thuật toán mà phải trải qua một
quá trình trực tiếp suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc
điều chỉnh kiến thức sẵn có. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn

đề là phương pháp dạy học trong đó giáo viên là người đưa ra các tình huống sư
phạm có vấn đề và tổ chức cho học sinh các hoạt động khám phá, phát hiện và
tìm cách giải quyết vấn đề trên cơ sở những kiến thức và những kinh nghiệm đã
biết. “Vấn đề” được chứa đựng trong “tình huống” mà học sinh mong muốn
được giải quyết.
Nhưng để giải quyết phải vượt qua những khó khăn bằng sự cố gắng
tự lực của bản thân một cách tự giác và hi vọng sẽ giải quyết được vấn đề đó.
Quá trình dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề có thể mô tả như sau:
-Tình huống có vấn đề
-Định hướng giải quyết vấn đề. Giải quyết vấn đề
-Phát hiện vấn đề, tìm hiểu vấn đề
-Phân tích vấn đề, mở rộng vấn đề
Trong dạy học phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, giáo viên là người
tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, triển khai tình huống, gợi cho học sinh
hướng đi, giúp đỡ học sinh thực hiện phương pháp để đạt mục đích học tập đặt
ra. Học sinh là người tìm cách học, biết cách huy động kiến thức, kĩ năng và
kinh nghiệm đã có bằng nỗ lực của chính mình, tự phát hiện và giải quyết vấn
đề, tự chiếm lĩnh tri thức và sắp xếp nó vào hệ thống kiến thức sẵn có.
Dạy học toán phát hiện và giải quyết vấn đề là một định hướng xuyên
suốt quá trình dạy học toán ở tiểu học. Do đặc điểm và nhận thức của học sinh
tiểu học trong học tập toán, vấn đề được hướng tới thường đơn giản, việc phát
hiện và giải quyết vấn đề không cần một quá trình suy luận dài.
13


Ví dụ 1: Khi dạy bài: “So sánh hai số thập phân” Toán 5. Giáo viên có
thể hướng dẫn như sau:
Nêu ví dụ: So sánh 6,1m và 5,9m.
Các em có nhận xét gì về hai số thập phân này? (Hai số thập phân khác nhau,
cùng đơn vị đo).

Giáo viên : So sánh 6,1m và 5,9m là so sánh hai số thập phân không bằng
nhau. Vậy muốn so sánh hai số thập phân đó ta làm gì ? Các em có thể nói lên
cách giải quyết của mình ? (Giáo viên gợi ý vấn đề cần giải quyết).
Giáo viên tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề:
Học sinh tự nhận thấy cần phải chuyển đổi 6,1m và 5,9m về đơn vị đo là dm.
So sánh hai số vừa tìm được (Giải thích).
Từ cách so sánh trên, suy ra 6,1m > 5,9m (Phần nguyên có 6 > 5).
Giáo viên tổ chức cho học sinh mở rộng vấn đề: Trường hợp khi so sánh
hai số thập mà các số thập phân có các chữ số không bằng nhau, không có đơn
vị đo (Phần nguyên khác nhau) thì ta so sánh như thế nào?
Giáo viên gợi mở học sinh tự nêu lên nhận xét để khắc sâu kiến thức: Khi
so sánh hai số thập phân có phần nguyên khác nhau, số thập phân nào có phần
nguyên lớn hơn thì số đó lớn hơn.
Tóm lại, khi so sánh hai số thập phân thì đòi hỏi học sinh phải biết liên hệ
các kiến thức đã học: nắm chắc cấu tạo của một số thập phân (Phần nguyên,
phần thập phân). Từ đó, học sinh vận dụng so sánh hai số thập phân trong mọi
trường hợp.
Như vậy, quá trình học sinh huy động các kiến thức đã học, có liên quan
đến vấn đề cần giải quyết không chỉ tập dợt cho học sinh cách giải quyết một
vấn đề của bài học mà còn giúp học sinh nhận ra sự cần thiết phải chuẩn bị kiến
thức trước đó.
Ví dụ 2: Dạy bài “Diện tích hình tam giác” Toán 5
Trước khi học bài này học sinh đã nắm được:
Biểu tượng về hình tam giác, nhận biết chúng dựa vào các đặc điểm “có
ba cạnh, ba đỉnh, ba góc”.
14


Biết vẽ đường cao của một tam giác tương ứng với cạnh đáy.
Biết tính diện tích hình chữ nhật.

Mục tiêu của bài học này là: Học sinh tự hình thành công thức tính diện
tích hình tam giác. Biết vận dụng để giải các bài toán có liên quan.
Hoạt động 1: Hình thành công thức tính diện tích hình tam giác
Bước 1: Tạo tình huống có vấn đề
Giáo viên tổ chức cho học sinh học tập bằng phiếu.
PHIẾU HỌC TẬP
Họ và tên:…………………………………………………………
Tính diện tích hình tam giác (Hình 1)

Hình 1

1

2

Hình 2
A

E
1

D

B
2

H

C


Hình 3
15


Hình 3 (H.2 và H.1 cắt, ghép )
Bước 2: Tổ chức cho học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề (Thảo luận
cặp đôi). Học sinh tự đặt và tự trả lời câu hỏi, giáo viên hướng dẫn, gợi ý (nếu cần).
Hãy nêu tên các hình?
Hình nào đã biết cách tính diện tích? (Hình 3).
Vấn đề được đặt ra là gì? (Tính diện tích hình tam giác bằng cách nào?)
Bước 3: Tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề
Học sinh phân tích vấn đề (Khuyến khích học sinh tự đặt câu hỏi). Giáo
viên có thể hướng dẫn: quan sát hình vẽ, hãy thiết lập mối quan hệ giữa hình tam
giác với hình chữ nhật?
Học sinh đề xuất hướng giải quyết và cách thực hiện:
Tính diện tích hình chữ nhật và nêu công thức tính.
Tính diện tích hình tam giác dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật.
Học sinh nêu lên được diện tích hình chữ nhật (Hình 3) gấp hai lần diện tích
hình tam giác. (Hình 1)
Bước 4: Tổ chức cho học sinh phân tích vấn đề và mở rộng vấn đề
Hướng dẫn học sinh phân tích vấn đề: Diện tích hình tam giác là tích độ dài
của hia cạnh nào trong hình tam giác?
Mở rộng vấn đề: Có thể tìm được công thức tính diện tích hình tam giác
bất kì hay không?
Giáo viên gợi mở, học sinh chính xác hoá công thức tính diện tích hình
tam giác. Công thức: S =

a×h
2


hay S= a x h : 2

(S là diện tích, a là độ dài đáy, h là chiều cao)
Hoạt động 2: Thực hành
Bài 1: Học sinh tự làm bài và nêu kết quả
Học sinh khác nhận xét (cách tính và kết quả).
Giáo viên nhận xét và nêu thêm vấn đề: Diện tích hình tam giác có phụ thuộc
vào vị trí của đường cao hay không?
16


Bài 2: Học sinh tự làm bài, đổi bài cho nhau, nêu ý kiến và nhận xét bài
làm của bạn.
Phát hiện thêm vấn đề: Số đo độ dài đáy và chiều cao không cùng đơn vị
đo (Phải đổi về cùng đơn vị đo).
Tóm lại, với cách dạy học như trên, từ những hiểu biết về“Diện tích hình
chữ nhật”, bằng sự nỗ lực của bản thân (Sự hỗ trợ của giáo viên), sự hỗ trợ của hình
ảnh trực quan, học sinh đã giải quyết được vấn đề mà trước đó được đặt ra và
chưa được giải quyết đó là tính “Diện tích hình tam giác”.
Trên cơ sở tính diện tích hình chữ nhật, học sinh được mở rộng, khái quát
thành công thức tính diện tích hình tam giác. Bây giờ trong kho tàng tri thức
của các em có thêm kiến thức mới, nhưng điều quan trọng hơn là các em biết
cách xây dựng công thức tính dịên tích hình tam giác dựa vào những kiến thức
và kinh nghiệm đã có từ trước.
Đặc trưng của nghề dạy học được xác định không phải bằng hoạt động
dạy mà là hoạt động học của người học. Giáo viên là người tạo điều kiện thuận
lợi cho việc học của học sinh, giúp học sinh phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề
và tự chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, năng lực của người thầy là năng lực của người
tạo tình huống có vấn đề.
2.3 Dạy học theo nhóm tương tác

Thế nào là dạy học theo nhóm tương tác?
Dạy học theo nhóm tương tác là một hình thức tổ chức dạy học mà người
giáo viên chia lớp ra thành những nhóm nhỏ để thảo luận, bàn bạc những vấn đề
được giáo viên đưa ra và mọi thành viên trong nhóm đều có hoạt động tương tác
với nhau, các nhóm tương tác với nhau nhằm đạt được mục tiêu học tập.
Hoạt động nhóm là một hoạt động tích cực, đem lại cho học sinh cơ hội
được sử dụng các kiến thức, kĩ năng mà các em được lĩnh hội và rèn luyện. Qua
hoạt động nhóm các em được diễn đạt những ý tưởng, nêu lên những khám phá
của mình, nhờ vậy mà các em mở rộng suy nghĩ và thực hành các kĩ năng tư duy.
Hoạt động nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ
năng giao tiếp, tạo điều kiện cho các em học hỏi lẫn nhau, phát huy hết vai trò,
17


trách nhiệm trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có
thể cùng làm những công việc mà một mình các em không thể tự làm được trong
một thời gian nhất định. Hình thức hoạt động theo nhóm góp phần hình thành và
phát triển các mối quan hệ qua lại giữa học sinh, đem lại bầu không khí đoàn
kết, giúp đỡ tin tưởng lẫn nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống. Trong
dạy học theo nhóm giúp các em nhút nhát, khả năng diễn đạt hạn chế, có điều
kiện rèn luyện, học tập. Từ đó tự khẳng định bản thân trong sự hấp dẫn của hoạt
động nhóm. Khi dạy học theo nhóm, giáo viên có dịp tận dụng các kinh nghiệm
và sự sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập.
Như vậy, qua phân tích ở trên chúng ta thấy được ích lợi của dạy học
theo nhóm. Vì vậy, trong dạy học Toán 5 (Giai đoạn học tập sâu). Giáo viên
thường áp dụng hình thức dạy học này vào một vài hoạt động như sau:
Ví dụ: Khi dạy bài “Luyện tập về tính diện tích” - Toán 5. Bài tập 2: Tính
diện tích của khu đất có kích thước theo hình vẽ dưới đây.
50m
40,5m


40,5m

50m

30m
100,5m

Giáo viên nêu yêu cầu của bài.
- Hướng dẫn học sinh phân tích dữ liệu từ trừ tượng đến cụ thể hoặc ngược lại.
* Gợi mở: Để tính diện tích hình trên trước hết ta cần có thao tác nào? ( chia
hình hay cắt hình)
- Theo em cắt hình ( chia hình) như thế nào cho khoa học?
Giáo viên: Khoa học là dựa vào các kích thước cho trước sau khi chia không bắt
buộc phải đi chia ra quá nhiều kích thước.
- Xác định kích thước sau khi chia cắt hình.
Ví dụ:
Cách chia 1- Hình 1

18


Hình 1
Cách chia 2-Hình 2

Hình 2
- Đi tìm diện tích hình nhỏ sau đó đến diện tích hình lớn.
Vậy trong 2 cách chia cách nào khoa học hơn. Cách nào giúp ta tránh
được việc đi tìm nhiều kích thước.
Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm: Từ hình vẽ ban đầu, hãy tìm cách

chia hình và trình bày nhiều cách giải khác nhau, tìm ra cách giải thuận tiện.
Tổ chức thành lập các nhóm (Mỗi nhóm 5 – 6 học sinh, bầu nhóm trưởng,
thư ký).
Các nhóm thực hiện nhiệm vụ (Vào phiếu khổ lớn A2).
* Học sinh tự lựa chọn cách giải và giải bài toán
* Học sinh nói lên cách giải bài toán
Hoạt động chung cả lớp; giáo viên chốt lại các cách làm đúng, giúp học
sinh nhận ra cách làm nhanh nhất. Dự kiến:
Cách 1: Cách chia 1- Hình 1
Bài giải
Diện tích hình chữ nhật lớn là:
(100,5 + 40,5) x (50 + 30) = 11280 (m2)
Diện tích hai hình chữ nhật nhỏ là:
(50 x 40,5) x 2 = 4050 (m2)
19


Diện tích khu đất là:
11280 – 4050 = 7230 (m2)
Đáp số: 7230 m2.
Cách 2: Cách chia 2- Hình 2
Bài giải
Diện tích hai hình chữ nhật lớn là:
(100,5 x 30) x 2 = 6030 (m2)
Diện tích hình chữ nhật nhỏ là:
(100,5 – 40,5) x (50 – 30) = 1200 (m2)
Diện tích khu đất là:
6030 + 1200 = 7230 (m2)
Đáp số: 7230 m2.
Như vậy, qua ví dụ trên với việc tổ chức dạy học theo nhóm cùng nhiệm

vụ đã tạo ra sự thi đua giữa các nhóm. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy,
ngay từ khi lập kế hoạch bài dạy thì giáo viên đã dự kiến những kết quả và
những khó khăn của học sinh có thể gặp phải qua hoạt động này.
Ví dụ: Tất cả các nhóm học sinh đều tìm được cách giải khác nhau
không?
Các nhóm học sinh đều biết từ hình vẽ ban đầu sẽ vẽ thành một hình mới
(Hình 1) để tìm ra cách giải nhanh nhất, thuận tiện nhất hay không?
Vì vậy, người giáo viên có vai trò rất quan trọng, là người tổ chức, hướng
dẫn, cố vấn và gợi mở để học sinh tìm được nhiều cách giải, từ đó lựa chọn
được cách giải nhanh và thuận tiện. (Cách 1)
2.4 Vận dụng lí thuyết kiến tạo trong dạy học môn Toán
Để vận dụng lí thuyết kiến tạo trong dạy học toán giai đoạn này, trước hết
giáo viên phải hiểu kiến tạo gì?
Kiến tạo: Trên cơ sở dựa vào những kiến thức sẵn có của mình, học sinh
xây dựng kiến thức mới.
Theo quan điểm của lí thuyết kiến tạo thì mục đích của dạy học không chỉ
là truyền thụ kiến thức mà chủ yếu làm thay đổi hoặc phát triển các quan niệm
20


của học sinh, qua đó học sinh kiến tạo kiến thức mới đồng thời phát triển trí tuệ
và nhân cách của mình. Dạy học kiến tạo là cách thức giáo viên tổ chức các hoạt
động cho học sinh, trong đó học sinh là chủ thể tích cực trong việc tiếp thu kiến
thức cho bản thân mình dựa trên kiến thức và kinh nghiệm đã có từ trước.
Mô hình dạy học theo lối kiến tạo:
Ôn tập: Hệ thống kiến thức và kinh nghiệm cần thiết để chuẩn bị cho việc
tiếp thu kiến thức mới.
Nêu vấn đề: Xác định mục tiêu cần đạt tới.
Tập hợp các ý tưởng: Đưa ra các giả thiết có thể hướng tới mục tiêu.
Dự đoán: Lựa chọn trong số các giả thiết để tiến hành kiểm tra.

Kiểm tra giả thiết: Trong số các giả thiết vừa lựa chọn ở bước trước ta
kiểm tra để xác định tính chính xác, khoa học đã có và cần bổ sung.
Điều chỉnh, loại bỏ giả thiết không có tính khoa học, những điều kiện, giả
thiết còn thiếu.
Rút ra kết luận.
Một số hoạt động về giải toán.
Một số hoạt động về ôn tập.
Phù hợp với dạy kiến thức mới trên cơ sở đảm bảo tính vừa sức của học sinh.
Ví dụ: Dạy bài “Hình thang” Toán 5.
Bước 1: Nêu vấn đề
+ Trong các hình dưới đây, hình nào là hình thang?

+ Nêu nhận xét về đặc điểm các cạnh của hình thang?
Bước 2: Tập hợp các ý tưởng của học sinh và đề xuất một ý tưởng chung
của cả lớp.
+ Để nhận biết đặc điểm các cạnh của hình thang, cần quan sát xem hình
thang có bao nhiêu cạnh.
21


+ Để nhận biết đặc điểm về các căp cạnh của hình thang cần dùng thước kéo
dài các cạnh xem những cặp cạnh nào song song với nhau, những cặp cạnh nào
không song song với nhau hoặc dùng ê ke để dựng đường thẳng vuông góc.
+ Đề xuất ý tưởng chung:
Dùng thước thẳng kéo dài các cặp cạnh đối diện để kiểm tra xem các cặp cạnh
này có song song với nhau hay không?
Bước 3: Dự đoán (Đề xuất giả thiết)
Trong hình thang dưới đây :

A


D

B

C

+ Cặp cạnh đối diện song song với nhau, cụ thể là: . .
+ Cặp cạnh đối diện không song song với nhau, cụ thể là : ...
Bước 4: Kiểm tra giả thiết (Dự đoán)
Bước 5: Phát biểu các đặc điểm về cạnh của hình thang. Học sinh phát
biểu, giáo viên ghi bảng: “ Hình thang có một cặp cạnh đối diện song song”.
Bước 6: Vận dụng
Học sinh làm các bài tập 1, 2, 3, 4 Sách giáo khoa.
Như vậy, qua ví dụ trên từ những kiến thức đã có về hình bình hành, hình chữ nhật,…
đã nhận biết được hình thang. Trên cơ sở đó học sinh thực hành vận dụng (Thông qua hình
ảnh trực quan) và rút ra được nhận xét về đặc điểm các cạnh của hình thang.
Tóm lại, dạy học vận dụng lí thuyết kiến tạo học sinh là chủ thể tích cực
xây dựng nên kiến thức cho bản thân mình dựa trên những kiến thức và kinh
nghiệm đã có từ trước. Giáo viên chỉ là những người cố vấn, tổ chức, hỗ trợ khi
cần thiết. Dạy học vận dụng lí thiết kiến tạo đã phát triển kĩ năng tự học, tự
khám phá của học sinh, tạo cơ hội cho học sinh tự đánh giá kết quả học tập của
mình. Điều đó rất phù hợp với yêu cầu đổi mới như hiện nay.
3. Những kết quả đạt được
Tôi đã mạnh dạn áp dụng các giải pháp trên vào quá trình giảng dạy, tôi thấy
22


học sinh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Hiệu quả giờ dạy được nâng lên
rõ rệt. Học sinh chủ động hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, mạnh dạn, tự

tin hơn trong giờ học.
Sau quá trình rèn luyện và kiểm tra học sinh về giải toán theo các bước
mà tôi đề xuất như trên, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng giải bài toán có lời
văn đối với học sinh lớp 5A2 với 4 bài toán như sau:
* Bài toán 1: Một thửa ruộng hình thang có đáy lớn 52 m, đáy bé bằng
75% đáy lớn. Nếu tăng đáy bé thêm 10m, tăng đáy lớn thêm 6m thì diện tích
thửa ruộng sẽ tăng thêm 80 m2. Tính diện tích thửa ruộng.
* Bài toán 2: Một mảnh vườn hình chữ nhật có chiều dài 30m, chiều dài
gấp đôi chiều rộng. Người ta dành 30% diện tích mảnh vườn để trồng rau
muống, 20% diện tích để trồng rau cải. Tính diện tích phần đất trồng rau muống,
diện tích đất trồng rau cải.
* Bài toán 3: Quãng đường AB dài 143km, một ô tô đi với vận tốc
52km/giờ từ A đến B lúc 11 giờ 30 phút. Hỏi ô tô xuất phát lúc mấy giờ ?
* Bài toán 4:Một ca nô đi từ A đến B với vận tốc 12km/giờ. Ca nô khởi
hành lúc 7 giờ 30 phút và đến B lúc 11 giờ 15 phút. Tính độ dài quãng đường
AB.
Tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng 4 bài toán trên với 25 học sinh lớp
5A2. Sau khi tiến hành chấm tôi thu được kết quả như sau (Kết quả tính đến
cuối tháng 4 năm 2019):

Lớp

Tổng

Mức độ đánh giá
Số học Tỷ
Số học Tỷ

số


sinh

học

đạt

đạt

đạt

sinh

điểm

điểm

điểm

lệ % sinh

Số học Tỷ lệ

lệ % sinh

%

Số

học


sinh đạt

Tỷ
lệ %

điểm

dưới 5
9 - 10
7-8
5-6
5A2 25
10
40%
12
48%
3
12%
0
0%
Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy thành tích học tập của các em học sinh có rất
nhiều tiến bộ.
+ Giáo viên thể hiện quá trình giảng dạy bằng cách định hướng đổi mới
phương pháp dạy học, đặc biệt là phương pháp dạy bài mới. Giáo viên giúp học
sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học. Qua đó, giáo viên tích lũy

23


được những kinh nghiệm giảng dạy, đồng thời rèn luyện cho học sinh phương

pháp học toán chủ động hơn.
+ Học sinh được giáo viên hướng dẫn đã chủ động nắm bắt kiến thức bài học một
cách khoa học. Từ đó, các em biết vận dụng vào các bài tập thực hành một cách linh hoạt
sáng tạo nhờ đó rèn luyện tốt kĩ năng thực hành hiệu quả bài làm tiến bộ vững chắc.
- Trong quá trình thực hiện đề tài đã có sự chuyển biến rõ rệt chất lượng học
tập của các em được nâng lên. Từ những học sinh chưa hoàn thành đã phấn đấu
hoàn thành, nhiều em đã phấn đấu lên hoàn thành tốt.
PHẦN III.
KẾT LUẬN
1. Hiệu quả khi thực hiện đề tài
Việc giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Toán là cả một quá trình thực hiện
lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác
giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp thích hợp để có thể tác
động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của bản thân
mình. Qua đó, các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học
tập đúng đắn. Từ những kinh nghiệm đúc kết nhiều năm sẽ giúp cho giáo viên
và học sinh có được một giờ dạy và học Toán trở nên nhẹ nhàng, hứng thú. Các
em sẽ không còn tâm lí căng thẳng, gò bó khi giải một bài tập toán. Việc học
Toán sẽ là niềm vui để động viên các em học tốt các môn học khác.
Để góp phần giúp học sinh lớp 5 thực hiện tốt các dạng toán giáo viên cần :
- Chuẩn bị kĩ bài dạy, xác định đúng trọng tâm bài.
- Trong từng tiết học cần khắc sâu kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh
đều hiểu và làm bài tập được ngay tại lớp.
- Đặc biệt chú trọng đến đối tượng học sinh chưa đạt chuẩn.
- Đối với từng bài toán, dạng toán giáo viên cần lựa chọn hình thức,
phương pháp phù hợp với các đối tượng học sinh.
- Đối với mỗi phép tính giáo viên cần xác định đối tượng học sinh chưa
đạt chuẩn và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài để có
biện pháp giúp đỡ kịp thời để các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài sau.
24



- Phối hợp sự giúp đỡ từ gia đình, nhà trường.
- Động viên khen thưởng kịp thời để các em có sự ham thích học Toán.
2. Ý nghĩa, dự đoán những vấn đề sẽ nảy sinh, những kiến nghị
- Cần tạo điều kiện để tất cả học sinh đều có đầy đủ SGK và đồ dùng học
tập (bút viết, thước, sách, bảng con…).
- Tổ chức dự giờ, học hỏi kinh nghiệm giáo viên cùng khối.
- Cung cấp tài liệu và sách tham khảo để giáo viên nghiên cứu tìm ra
phương pháp mới.
- Giáo viên cần nghiên cứu đối tượng học sinh chưa đạt hiệu quả ở điểm
nào để bồi dưỡng kịp thời .
- Cần được sự hỗ trợ của xã hội về mặt kinh tế để phụ huynh tạo điều cho
con em có thời gian học tốt hơn.
- Qua việc áp dụng sáng kiến này tôi thấy chất lượng học tập của học sinh
tăng lên rõ rệt. Từ đó tôi thấy nội dung đề tài này có thể áp dụng lâu dài và thường
xuyên cho tất cả học sinh khối 5 của trường PTDTBT Tiểu học Na Phát nói riêng và
học sinh lớp 5 bậc tiểu học nói chung. Cuối cùng tôi mong muốn đồng nghiệp cùng
quan tâm áp dụng và góp ý cho sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao hơn. Trong
quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót vì vậy tôi mong nhận
được các ý kiến đóng góp của các đồng chí đồng nghiệp để tôi hoàn thiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Na Son, ngày 25 tháng 4 năm 2019
NGƯỜI VIẾT

Lê Đức Hiếu

25



×