Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tài liệu tham khảo dùng cho h/s 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.59 KB, 29 trang )

T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
A. T liƯu tham kh¶o
Bµi phó s«ng B¹ch §»ng
... Từ trận thắng đầu tiên nổi tiếng của Ngô Quyền năm 938 đến nay, dòng sông Bạch
Đằng tuy đã đổi thay nhiều chỗ, nhưng hình ảnh những trận thủy chiến oanh liệt trên sông Bạch
Đằng vẫn in sâu trong tâm trí của nhân dân ta từ đời này qua đời khác. Và nhớ đến sông Bạch
Đằng là nhớ đến thơ văn ca ngợi sông Bạch Đằng, ca ngợi những trận thủy chiến, nhất là trận
thủy chiến đời Trần.
Trong số thơ văn đó, bài phú của Trương Hán Siêu, bài phú thứ nhất về sông Bạch Đằng,
nổi lên như một áng văn hay " không tiền khoáng hậu"? Đây là một bài phú cổ thể, có pha đối
thoại và liên ngân, nên rất sinh động. Tất nhiên, với những hạn chế của nhân sinh quan cũ thời
bấy giờ, Trương Hán Siêu mới giới thiệu sơ qua lời nói các bô lão ven sông, và hình ảnh bô lão
cũng còn mờ nhạt: Trương Hán Siêu chưa thể có điều kiện để thấy hết vai trò quan trọng của


quần chúng, cho nên khi nói đến nhân tố con người, tác giả chỉ nhấn mạnh đến lực lượng quần
chúng, hoặc mới chỉ nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của nhà vua mà chưa nhấn mạnh sức hậu thuẫn
vó đại của quần chúng. Tuy nhiên, mặt hạn chế tất yếu đó của lòch sử vẫn không làm giảm giá trò
to lớn của bài phú mẫu mực này, một bài phú đậm đà tính chất trữ tình, mà lại pha màu sắc anh
hùng ca; nó đã khắc họa một cảnh trí mỹ lệ của Tổ quốc với tất cả hình bóng chiến công oanh
liệt của quân dân ta thời trước, đồng thời gợi lên cho chúng ta, những con em đất Việt ngày nay,
trong thế hệ Hồ Chí Minh, một bài học sâu sắc về sự quyết tâm bảo vệ bằng bât cứ giá nào cho
trọn vẹn: "non sông gấn vóc" mà tổ tiên đã để lại cho mình.

Bùi Văn Nguyên

Th dơ V¬ng Th«ng


1. Quân trung từ mệnh tập là tác phẩm thể hiện rõ nhất chiến lược và sách lược "mưu
phạt tâm công" của nghóa quân mà cũng là của Nguyễn Trãi. Tác phẩm có những bức thư giao
thiệp với tướng Minh, có biểu tấu gửi vua Minh. ngoài ra còn có văn tấu cáo liệt thánh nhà Trần,
Chiếu khuyên dụ hào kiệt ... Thư, biểu, tấu có tính chất đối ngoại thì giương cao ngọn cờ chính
nghóa của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của quân xâm lược và kiên quyết đánh chúng, vừa thuyết
phục vua Minh, tranh biện với tướng giặc, nhằm giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh cứu nước
nhanh nhất, đỡ tổn thất nhất, đồng thời, sớm khôi phục bang giao bình thường với nhà Minh. Tấu
cáo, chiếu lệnh có tính chất đối nội thì cổ lệ tướng hiệu quân nhân nỗ lực giết giặc, lập công,
kêu gọi hào kiệt ra giúp nước, cầu nguyện tổ tiên âm phù con cháu diệt quân Minh, đem phúc
thái bình muôn thû cho sinh dân.
Bùi Duy Tân

2. Trong một bức thư gửi Vương Thông, người chỉ huy quân xâm lược, Nguyễn Trãi đem
hết tài hùng biện của mình, để chỉ rõ thế tất bại của đòch. Nguyễn Trãi kể rõ sáu điều tất bại ấy
như sau: điều 1: quân đòch ngày càng suy yếu; điều 2" viện binh sẽ bò tiêu diệt; điều 3" quân
mạnh của vua Minh phải điều lên phương Bắc để phòng quân Nguyên; điều 4: người dân Trung
Quốc bò gánh nặng chiến tranh đè nén tỏ ra chán nản; điều 5: nội bộ nhà Minh không hòa, xương
thòt hại nhau; điều 6: (xin trích nguyên văn): "Nay ta dậy nghóa binh trên dưới cùng lòng, anh
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
1
T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
hùng hết sức, quân só trong thành thì đều mỏi mệt khốn khổ, tự chuốc lấy bại vong". Biết rằng
Vương Thông chỉ còn mong chờ viện binh nên bức thư lại nhấn mạnh: "Cổ ngữ có câu: "Nước xa
không cứu được lửa gần". Giá viện binh có đến cũng không ích gì cho sự bại vong". Cuối cùng

Nguyễn Trãi đưa vào cho Vương Thông: Như muốn kéo quân về nước, thì cầu đường sẽ sửa
xong, thuyền ghe sắm đủ, thủy lục hai đường, tùy theo ý muốn, quân ra khỏi cõi, yên ổn muôn
phần".
Phạm Văn Đồng
3. Sau thời gian phòng ngự và chuẩn bò được lực lượng, từ căn cứ vùng núi Thanh Hóa, nghóa
quân Lê Lợi tiến công theo hướng Nghệ An. Từ đầu năm 1425, nghóa quân bao vây thành Nghệ
An do Phương Chính và Lí An cầm quân đóng giữ. Quân giặc đóng cửa thành cố thủ, không dám
ra giao chiến. Nguyễn Trãi bèn viết bức thư " Lại thư cho Phương Chính":
Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính biết : Ta nghe nói người danh tướng trọng danh nghóa,
khinh quyền mưu . Bọn mày quyền mưu còn chưa đủ, huống là danh nghóa! Trước mày gửi thư cho
ta, cứ cười ta núp náu ở nơi rừng núi, thập thò như chuột, không dám ra nơi đồng bằng đất phẳng
để đánh nhau. Nay quân ta đã đến nay, ngoài thành Nghệ An đều là chiến trường cả. Mày cho đấy

là rừng núi chăng? Là bình nguyên chăng? Thế mà mày cứ đóng thành bền giữ như mụ già là làm
sao? Ta e rằng bọn mày không khỏi cái nhục khăn yếm vậy.

C¸o B×nh Ng«
Đặc trưng thể cáo và xuất xứ bài văn
Cũng như hòch, thể văn cáo là một thể văn chính trò, mang mệnh lệnh của vua, thay mặt
triều đình ban xuống, do đó cũng có tên gọi là mệnh hoặc lệnh, hoặc là chiếu sách nói chung.
Trong sách Thượng thư của Trung Quốc có chép việc vua Thang nhà Thương, khi xuất quân
đánh vua Kiệt nhà Hạ, thì có ban xuống quân đội lời thề, gọi là Thang thệ, và khi đánh thắng
Kiệt, thì ban lời cáo lúc trở về đất Bằng, gọi là Trang cáo. Trong bài cáo của vua Thang đó, đại
ý là: “Ta vốn là kẻ bình thường. Vì vua Kiệt nhà Hạ có tội với trăm họ, nên trời sai ta đánh dẹp,
nay đã dẹp xong, …v…v… Thể cáo vốn ban đầu viết theo thể văn xuôi cổ, nặng nề về luận tuyết

hơn là tự sự, dần dần về sau, mới theo thể biền ngẫu, tiến một bước nữa mới theo thể tứ lục. Thể
tư lục là thể văn biền ngẫu, gồm hai câu đối nhau, mỗi câu mười từ (chữ), chia làm hai vế, vế
trên bốn từ, vế dưới sáu từ. Thí dụ hai câu dòch trong bài cáo của Nguyễn Trãi:
Đau lòng nhức óc / chốc đã mười mấy năm trời/
Nếm mật nằm gai / há phải một hai sớm tối/
Thể tứ lục này không buộc phải có vần, và ở đời Đường cũng không buộc phải có niêm,
nhưng đến đời Tống thì buộc phải có niêm và đưa vào làm thể văn trường thi.
Cần phân biệt loại văn cáo thường ngày như chiếu sách của vua truyền thống về một vấn đề
gì đó, với loại văn đại cáo nói trên kia, mang ý nghóa một sự kiện trọng đại như một bản tuyên
ngôn. Cũng như hòch, cáo là thể văn hùng hiện, do đó lời lẽ phải đanh thép, lí luận phải sắc bén,
nội dung phải chắc nòch, bố cục phải rõ ràng. Bố cục đoa phảo nêu rõ : luận đề chính nghóa, từ
đó, xác đònh tội trạng của giặc và đặc tả quá trình chinh phạt thắng lợi”

Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
2
T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
Bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, viết thay cho Lê Lợi, có ý nghóa trọng đại như
một bản tuyên ngôn độc lập, công bố ngày 17 tháng chạp năm Đinh Mùi ( tức đầu năm 1428),
sau khi quân ta đại thắng ở trận Chi Lăng, diệt 15 vạn viện binh của giặc, buộc Vương Thông
phải mở cửa thành Đông Quan, chấp nhận phải rút quân về nước, tôn trọng nền độc lập và toàn
vẹn lãnh thổ của nước Đại Việt ta. Cần lưu ý rằng: nếu tính từ ngày 12 tháng chạp năm Bính
Tuất (đầu năm 1407), lúc quân Minh chiếm thành đa Bang, rồi vượt sông Hồng, tiến vào Đông
Quan, cho đến ngày 12 tháng chạp năm Đinh Mùi (đầu năm 1428), lúc Lê Li chính thức làm lễ
tống tiễn Vương Thông ở dinh Bồ đề (phía Gia Lâm, Hà Nội hiện nay) thì đúng là mất 21 năm
như bài báo đã nói :“gây binh kết oán trải 20 năm” , 21 năm trường kì kháng chiến của nhân dân

ta từ khi Hồ Quý Li để mất nước, cho đến khi Lê Lợi khởi nghóa thành công. Chính Lê Lợi chọn
ngày 12 tháng chạp để làm lễ tốn tiễn Vương Thông, trước khi công bố bài Bình Ngô đại cáo là
đã có dụng ý chọn một ngày lòch sử có ý nghóa sâu sắc về mặt chính trò đối với toàn thể nhân
dân ta : cái ngày vẻ vang rửa vết nhục đời đời!
Tùa TrÝch diƠm thi tËp
Bài Tựa của Hoàng Đức Lương vừa khẳng đònh được tầm quan trọng của việc sưu tầm thơ
văn của người xưa, vừa đánh thức ý thức của mọi người đối với việc bảo tồn nến văn học dân
tộc, đồng thời vẫn đảm bảo được nội dung giới thiệu về cuốn sách. Tác giả đã thể hiện được
nhiều mục đích trong một bài Tựa không dài. Thành công của bài Tựa được tạo nên bởi ngôn
ngữ sắc sảo, lối hành văn chân thực, logic và những tình cảm chân thành của người viết. Đây là
một bài văn tiêu biểu cho thể Tựa, vừa đảm bảo tính khoa học, vừa rất văn học.


T« HiÕn Thµnh
Tô Hiến Thành (?- 1179) là vò đại thần nổi tiếng nhà Lý. Ông quê ở làng Hạ Mỗ, huyện Đan
Phượng (Hà Tây), làm quan đời Lí Anh Tông đến chức Thái phó, trông coi việc binh. Năm 1142,
Thân Lợi khởi nghóa vùng Thái Nguyen, rồi tiến đánh các nơi. Ông được cử cầm quân đi đánh,
bắt được Thân Lợi ở lạng Châu. Năm 1159, các tộc người ở miền tây Nam nổi dậy, ông đã đem
quân dẹp yên. Năm 1160, ông được giao việc tuyển chọn tướng só. Năm 1167, quân Chăm-pa
xâm lấn biên giới phía nam, ông được cử cầm quân đi đánh. Vua Champa xin rút quân và tiếp
tục giữ lệ phiên thần như cũ. Sau đó, ông được giao trách nhiệm đảm đương việc nước, rèn luyện
quân só, mọi việc nhất nhất đều dược chán chỉnh.
Năm 1175, Lí Anh Tông lập Long Trát làm Thái tử, vua đx di chiếu giáo cho ông giúp việc vua
mới với mong muốn “công việc nhà nước nhất thiết tuân theo phép cũ”. Bà Thai hậu muốn làm
việc phế lập, đã cho người đem vàng bạc đút lót cho vợ ông. Ông nói với vợ :

“Ta là đại thần nhận mệnh tiên đế dặn lại giúp đỡ vua bé, nay lấy của đút lót mà bỏ vua nọ, lập
vua kia thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng!”. Bà Thái hậu lại cho người
gặp ông dỗ dành, ông trả lời:“ Làm việc bất nghóa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghóa só làm
sao dám vui được! … Thần không dám vâng lời”. Bà Thái hậu đành thôi. Năm 1177, vua mới ba
tuổi lên ngôi, một mình ông phải lo việc nghiêm chỉnh, mọi người đều quy phục.
TrÇn Thđ §é
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
3
T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
Trần Thủ Độ (1194 – 1264) là nhà chính trò lỗi lạc có công thành lập nhà Trần. Ông sinh ra trong
một gia đình khá giả họ Trần, sớm tham gia vào quân đội Trần Tự Khánh, giúp vua Lí dẹp loạn
trở lại kinh đô. Năm 1224, ông được Lí Huệ Tông phong chức Điện tiền chỉ huy sứ, Tri thành thò

nội ngoại chủ quản sự. Năm 1225, Lí Huệ Tông bò bệnh nặng, ông quyết đònh tổ chức cuộc thay
đổi triều đại bằng việc đưa công chúa Chiêu Thánh mới 6 tuổi lên làm vua. Đầu năm 1226, ông
lại tổ chức Đại hội ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ Lí Chiêu Hoàng nhường ngôi cho
chồng là Trần Cảnh. Nhà Trần thành lập (1226), ông được giữ chức Thái sư, trông coi mọi việc
triều chính giúp vua. Ông đã làm việc hết sức mình, như sử cũ nhận đònh: “ Tuy không có học
vấn nhưng tài lược hơn người”, trong thì hòa giải mọi xích mích trong dòng họ mình, ngoài thì
dẹp yên các lực lượng chống đối, chấn chỉnh bộ máy nhà nước, củng cố quan hệ với các thủ lónh
dân tộc miền núi. Đầu năm 1258. quân Mông Cổ kéo sang xâm lược. Mặc dù đã hơn 60 tuổi,
ông vẫn tích cực tham gia cùng vua lãnh đạo cuộc kháng chiến. Tình thế hết sức căng thẳng, vua
trần đi thuyền nhỏ đến hỏi ý kiến ông. Ông khẳng khái đáp:“ Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ
hạ dừng lo”. Không lâu sau, theo đúng kế hoạch, quân ta phản công quyết liệt điệt được giặc
Mông – Nguyên. Năm 1263, ông vẫn theo lệnh vua đi tuần nguồn sông ở Lạng Sơn. Tuổi già,

sức yếu, năm 1264 , ông mất. Vua truy tặng ông chức Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại Vương
và tự tay viết bài văn ở sinh từ của ông để tỏ lòng thương tiếc.
Trong cuộc đời hoạt động hết sức mình vì sự nghiệp xây dựng và củng cố triều đại Trần,
Trần Thủ Độ đã thể hiện sâu sắc lòng trung thành tuyệt đối của mình, nhưng cũng vì vậy mà
không tránh khỏi một số việc khiến người đời lên án.
Đinh Xuân Lâm- Trương Hữu Quýnh.

Chun chøc ph¸n sù..
1. Truyện đã diễn tiến theo trình tiết của một cuộc xung đột, nổ ra ngay từ đầu, tiếp tục
gay gắt thêm mãi cho đến đỉnh điểm mới từ đó mở nút và giải quyết. Hành động kòch với kòch
tính ở chi tiết, với kòch biến những chỗ bản lề, rõ nét, khiến cho truyện, qua từng màn từng cảnh,
không ngừng gây được hứng thú cho người đọc. Cho đến hình tượng bay bổng cuối cùng cũng là

một lời ca ngợi lí tưởng, đẹp đẽ và thấm thía. Đức cương trực, lòng nghóa khí, gan chiến đấu
trong truyện đến nay vẫn là một bài học nhân sinh quý báu.
2. Chủ đề nổi bật của truyện vẫn là là ca ngợi sự chính trực ngay thẳng. Ngô Tử Văn là
tấm gương tiêu biểu cho những người tri thức nước Việt khảng khái, cương trực, dũng cảm chống
lại cái ác để trừ hại cho dân. Sự chiến thắng của Tử Văn là sự chiến thắng của lẽ phải, của công
lí , thể hiện niềm tin của nhân dân lao động vào lẽ phải. Ngô Tử Văn tuy không được sống lâu
nhưng đã bất tử cùng với câu chuyện, đã để lại tiếng thơm muôn đời và trở thành quan phán sự
ngự ở đền Tản Viên. Chủ đề ấy còn được thể hiện rõ ở lời bình cuối truyện. Người kể muốn
khẳng đònh rằng, người chính trực như Ngô Tử Văn mới xứng đáng là người cầm cân nảy mực.
Đó cũng là ướcmuốn chung của nhân dân trong thời buổi xã hội đầy những chuyện ngang tai trái
mắt. Bên cạnh đó, tác phẩm còn chóa mũi nhọn phê phán vào bọn xâm lược và vạch trần mặt
trái của xã hội

Giá trò của “Truyền kì mạn lục” là ở nội dung hiện thực sâu sắc và cảm hứng ca ngợi
những giá trò đạo đức truyền thống. Những con người có bản tính tốt đẹp như Vũ Thò Thiết, như
Ngô Tử Văn đều được trở về sống ở thế giới thần thánh, họ đã được thưởng xứng đáng cho phẩm
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
4
T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
cách tốt đẹp của mình. Tập truyện đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động
xưa, niềm tin vào chân lí bất diệt của sự sống “ở hiền gặp lành”
Håi trèng Cỉ Thµnh
Lời bình hồi 28 Tam quốc diễn nghóa của Mao Luân (cha) Ma Tôn Cương(con) :
Người đời chỉ biết Vân Trường hàng Hán, không hàng Tào, thì khen là tiết tháo, nhưng
không biết Dực Đức còn tiết tháo hơn… Bởi vì vua tôi rồi mới có anh em, nghóa vua tôi đã đơn sơ

thì tình anh em cũng đoạn tuyêt. Đã lấy lại sự công phẫn ghi trong tờ phiếu gài ở đai áo làm
trọng, thì cũng phải lấy lời thề ở chỗ vườn đào làm khinh. Suy cái nghóa ấy mà xem, nếu Dực
Đức ở vào cảnh bò vây ở núi Thổ Sơn thì quyết đán mình vào lưỡi gươm giáo mà chết chứ không
nào chòu tòng quyền cơ biến mà ăn cạnh nằm kề với tên giặc họ Tào
Dực Đức bình sinh rất ghét Lã Bố, coi kẻ diệt luân tuyệt lí, cho nên hễ trông thấy mặt là
chửi thằng đi ở ba họ. Đối với Tào Tháo cũng ghét và giận như vậy. Ghét Lã Bố vì không biết
đạo cha con, ghét Tào Tháo vì không trọng đạo vua tôi. Coi vậy , Dực Đức thật đáng khen là bậc
hiếu tử và trung thần
Dực Đức đánh mất Từ Châu mà bò Vân Trường trách mắng. Vân Trường ở nhờ Hứa Đô
mà bò Dực Đức trách mắng, có đem nghóa lớn trách mắng nhau như vậy mới là anh em thật tình.
Ý nghóa Hồi trống CT (Giá trò đoạn trích)
a. Là vở kòch ngắn, sôi nổi, sinh động mang ý vò chiến trận, khí phách anh hùng.

- Thể hiện đặc điểm nội dung và tư tưởng đoạn trích: hồi trống ra quân cũng là hồi trống
thu quân, hồi trống giải oan, hồi trống đoàn tụ.
- Biểu dương tính cương trực của Trương Phi, khẳng đònh lòng trung nghóa của Quan
Công, ca ngợi tình nghóa “ vườn đào” của 3 anh em Lưu- Quan- Trương.
- HTCT là cửa quan thứ sáu- cửa quan tình cảm- được dựng lên do sự nghi ngờ hiểu
lầm,được giải quyết bằng gươm giáo và cái đầu của tướng giặc  Là ý vò của Tam Quốc
diễn nghóa.
T×nh c¶nh lỴ loi....
Dòch Chinh phụ ngâm, dòch giả đã chọn thẻ thơ song thất bát lục, một thể thơ dân tộc có
khả năng lớn trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật, nhất là tâm trạng buồn đau, sầu muộn.
Nữ só họ đoàn đã dòch rất thanh thoát nội dung của nguyên tác, thể hiện chân thực nỗi buồn của
người thiếu phụ phương Đông, mãnh liệt, da diết, nhưng kín đáo. Chinh phụ ngâm đã đánh dấu

một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc. Với tác phẩm này, tiếng Việt đã chứng
minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một cách sâu săc, tinh tế. Với tấm lòng thương yêu và
sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, tác giả
và dòch giả cất lên tiếng kêu nhân đạo, tiếng kêu phản đối chién tranh phi nghóa. Thái độ phản
chiến tuy không bộc lộ trực tiếp song lại rất mạnh mẽ. Chiến tranh đã cướp đi của con người
hạnh phúc và tuổi trẻ, thậm chí cả mạng sống. Vì một cuộc chiến, có biết bao người vợ phải xa
chồng, phải giam mình trong nỗi cô đơn, buồn tủi như ngưồi chinh phụ kia. Có người đón chồng
trở về khi tóc đã pha sương, nhưng đó là còn may mắn. Có người đau xót khi đón tin chồng
không trở về sau những ngày mỏi mòn trông đợi
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
5
T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n

“ Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” là lời oán thán nặng nề nhất trong Chinh phụ ngâm, lời
ai oán không mạnh mẽ nhưng uất ưc và oán trách. Đó là một trong những giá trò của Chinh phụ
ngâm . Nhưng cao hơn cả, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học
dân tộc, một lần nữa, những khao khát hạnh phúc chúnh đáng của người phụ nữ dưới chế độ
phong kiến lại được ủng hộ. Đề tài thân phận người phụ nữ lại được góp thêm một tiếng nói mới
đầy sức mạnh nhân văn.
Nguyễn Trọng Hoàn
Nçi sÇu o¸n cđa ngêi cung n÷
Nếu Chinh phụ ngâm khúc có nguyên tác bằng chữ Hán và bản dòch Nôm là tiếng nói độc
thoại của người chinh phụ về mối “sầu vạn cổ” day dứt triền miên nhưng còn có mức triền miên
nhưng còn có mức độ thì Cung oán ngâm khúc là tiếng nói độc thoại khác lên đầy ai oán, réo rắt
và uất hận của người cung nữ tài sắc bò bỏ rơi giữa tuổi hoa niên. Nàng có thời được sủng ái

nhưng nhanh chóng bò lãng quên và mối tủi cứ theo ngày tháng mà dâng lên, mà tràn ngập dày
vò khôn xiết! Cảm hứng chủ đạo của khúc ngâm là sự đày đọa thên thảm, đúng như Nguyễn Gia
Thiều đã có lần nhấn mạnh “Bỗng không mà hóa ra người vò vong”. Người trong cuộc ý thức
được một cách sâu sắc rằng: lẽ ra đời mình không đáng khổ mà phải chòu đựng mọi mất mát
thiệt thòi quá lớn.
Trên nền cái tâm trạng đó, nỗi buồn tủi diễn ra rất nhiều màu, lắm vẻ làm xúc động lòng
người của nhiều thế hệ
Đoạn trích trên đây là một khoảng khắc của đời người cung nữ.
Đoạn thơ chủ yếu nói về một cảnh đêm. Là tâm trạng cung nữ diễn ra trọn cả đêm”Đêm
năm canh lầu sương vách quế”. Ta cần biết thêm: Không phải là lần duy nhất tác giả viết về
cảnh đêm. Xuyên suốt tác phẩm, lúc được sủng ái cũng như khi đã là “cái thân câu chõ”, người
cung nữ thường mượn đêm để kí thác tâm sự và cảnh ngộ vui buồn của mình. Nào là “Cái đêm

hôm ấy đêm gì; Bóng dương lồng bóng đồ mi ngập trùng”; “Thừa ân một giấc canh tà”… thỏa
mãn khát vọng về hạnh phúc ái ân của thời vàng son. Tiếp theo là vô số cảnh đêm trong cung
lạnh. “Trong cung quế âm thầm chiếc bóng – Đêm năm canh trông ngóng lần lần”; “Lầu dãi
nguyệt đứng ngồi dạ vũ”;” Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền”; “ Đêm năm canh lần nương
vách quế”; “ Khi bóng nguyệt chông chênh trước ốc”; “ Đêm phong vũ lạnh lùng có một” …là
những đêm cô đơn và ảo não.
Chúng ta từng thấy những đêm dài mong nhớ:” Thức mây đôi lúc nhạt nồng – Chuôi sao
Bắc Đẩu thôi đông lại đoài” (Chinh phụ ngâm khúc); bao nhiêu đêm trằn trọc thao thức “Tiếng
gà văng vẳng gáy trên bom – Oán hận trông ra khắp mọi chòm” (Thơ Hồ Xuân Hương). Thậm
chí thảng thốt vật vã “Khi tỉnh rượu , lúc tàn canh- Giật mình mình lại thương mình xót xa”
(Truyện kiều)… Hẳn là các nhà thơ cổ điển thường chọn thời điểm này để cho nhân vật trữ tình
dễ bộc lộ tâm sự.

Bút pháp tả tình của Ôn Như “Thiên đoàn bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân” (Lí Văn Phức)
(Trăm nghìn lần tôi luyện, mỗi câu đọc lên nghe đến ghê người) tạo nên một ấn tượng hết sức
réo rắt, bức xúc về một đòi hỏi gay gắt quyền sống, quyến được hưởng hạnh phúc lứa đôi.
Giảng văn văn học Việt Nam, NXB GD, 1997)
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
6
T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
Bình luận về Kiều
Những tay bình luận tồi
mới cho người anh hùng trong Truyện Kiều là Từ Hải
âu hùm đâu có phải
cuối cùng chỉ chết đứng mà thôi

Người anh hùng trong Truyện Kiều là Kiều
một cô gái chòu bao nhiêu đau khổ
bò vùi dập trong đống bùn chế độ
suốt cả đời giữ trọn mối tình yêu
Kiều cô đơn giữa một lũ yêu ma:
Hoạn Thư, Sở Khanh, Khuyển Ửng, Khuyển Phệ…
miếng mồi ngon cho những tên đồ tể
Mã Giám Sinh, Tú bà
Kiều cao hơn những người đàn ông mình đx gặp
hơn Kim Trọng trong đắng cay yêu thương
hơn Thúc Sinh bởi bao phen chà đạp
hơn Từ Hải về nỗi niềm cố quốc tha hương

Lời nói Kiều còn xúc động chúng ta
dẫu ta sống trong một thời đại khác
khi nụ cười có thể sinh ra từ nước mắt
khi nỗi đau có thể hóa bài ca.
Tế Hanh
Trao duyªn
Trong bài thơ “Tâm sự nàng Thúy Vân” nhà thơ Trương Nam Hương bày tỏ cảm xúc:
Xót thương lời chò dặn dò
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chò yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu đành chàng Kim
Ô kìa sao chò ngồi im

Máu còn biết chảy về tim để hồng
Lấy người yêu chồng làm chông
Đời em thế thắt một vòng oan khiên
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
7
T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
Bài thơ kết luận:
Em thành vợ của chàng Kim
Ngồi ru giọt máu tượng hình chò trao
Giấu đầy đêm nỗi khát khao
Kiều ơi! Em biết khi nào được yêu.
Đó là lời tâm sự của Thúy Vân, còn Kiều biểu hiện tâm trạng gì và xử sự như thế nào,

chúng ta tìm hiểu “Trao duyên”, phần trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
E. TƯ LIỆU
Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thúy Kiều từ cõi hư không. Thời gian không còn là
thời gian tâm trạng, đó là thời gian khách thể. Trở về với hiện thực, Thúy Kiều xót xa chấp nhận
sự phũ phàng của đònh mệnh, chấp nhận “trâm gãy bình tan”, ‘tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc
như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều thành ngữ để nói tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay
đổi, chuyển dời, ý thức về hiện tại, Kiều chỉ còn biết thương mình, oán hờn số phận mình. Ngay
trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xuôi, thì suy nghó của nhân vật lại rẽ sang hướng khác:
Ôi ! Kim lang hỡi Kim lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !
Câu thơ thực chất là tiếng kêu thảng thốt, là tiếng nấc nghẹn ngào của người con gái đã
hoàn toàn tuyệt vọng.

Thúy Kiều sau đó cách xa Kim trọng mười lăm năm nhưng trong mười lăm năm ấy,
không lúc nào nàng nguôi nhớ đến mối tình đầu. Song có lẽ không cần phải đợi đến mười lăm
năm. Ngay trong ngày phải đau đớn « trao duyên » người đọc có thể thấy tình yêu trong lòng
người con gái ấy không có gì có thể chia cắt nổi. Ở Trao duyên , còn phải ghi nhận một thành
công, đó là bút lực sắc sảo tuyệt vời của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.
E. TƯ LIỆU : Nçi th¬ng m×nh
Khó khăn lớn nhất đối với Nguyễn Du là đã bắt lòng thuỷ chung của
Kiều phải trải qua một thử thách bi đát: Kiều phải làm đó. Nói gì giữ gìn
danh tiết với Kim Trọng, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà
trong xã hội cũ Kiều làm sao giữ cho khỏi bò mai một được? Giản đơn nhất
là để cho Kiều chết. Nhưng chết là hết chuyện. Nguyễn Du lại để cho
Kiều sống lại. Nhưng sống lại, có nghóa là chấp nhận lấy số phận nhục nhã

của mình. Trong các truyện thơ đương thời, dễ có Kiều làm việc đó.
Nguyễn Du không nhằm nặn ra một Thuý Kiều để làm rạng danh cho một
nguyên lí đạo đức trừu tượng nào đó. Kiều vốn là con người bình thường.
Nhưng chính con người bình thường này đã có lúc hành động như một liệt
nữ, đã nêu tấm gương cao cả và sự hi sinh không bờ bến. Không phải cái
tà dâm đã dắt Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, mà chính là cái đạo lí làm
người, chính tấm lòng hiếu nghóa đã biến Kiều thành miếng mồi ngon của
bọn bán thòt buôn người. Khó khăn đối với Nguyễn Du là để Kiều phải
“sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn giữ được nhân phẩm của mình. Kiều
rất có ý thức về sự sa đoạ mà mình đã rơi vào:
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
8

T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
Mặt sao dày dạn gió sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Đối với lễ giáo phong kiến, giản đơn nhất là buộc tội Kiều, cho những kẻ làm đó như
Kiều là mất nết, là tà dâm, là vô loại. Nhưng không có lời lẽ nào để biện hộ cho Kiều hùng hồn
hơn là những nỗi đau đớn, dằn vặt của Kiều:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Vơi nỗi xót xa dường ấy, với ý thức như thế và thân phận của mình, Kiều cũng đủ để cho
không ai có quyền gạt mình ra khỏi vòng nhân loại. Kiều không thôi mơ ước trở lại cuộc sống
trong sạch, được trở lại với quê hương, với gia đình, với người yêu. Những lần “nhớ nhà” của
Kiều đều có sức vang dội sâu xa và người đọc không ai có thể khinh bỉ được Kiều.

Lê Đình Kò
Trun KiỊu
Qua bài học về “Truyện Kiều” và tác giả Nguyễn Du hãy nêu đặc điểm về chủ nghóa nhân
đạo.
- Chủ nghóa nhân đạo là tư tưởng lấy con người làm gốc ở Việt Nam đã có từ xưa. Thế kỉ
XVIII do chiến tranh liên miên, sưu thuế nặng nề, kỉ cương xã hội bò đói nát, con người bò chà
đạp, một luồng tư tưởng đã xuất hiện trong giới trí thức. Họ tiếp thu truyền thống nhân đạo của
văn chương đó và sáng tạo những tác phẩm thể hiện tư tưởng nhân đạo chủ nghóa. Đó là những
tác phẩm “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm”, “Truyện Kiều”, “ Văn chiêu hồn”, thơ Hồ
Xuân Hương
- Chủ nghóa nhân đạo Việt Nam thời trung đại không đi sâu và nhấn mạnh nhiều ở khía cạnh
giải phóng cá tính mà nhấn mạnh ở lòng thương người, thương thân, ai oán số phận, phản kháng

áp bức con người, Nguyễn Du với Truyện Kiều, đã thể hiện rõ nội dung ấy.
a) Từ cuộc sống của bản thân, chứng kiến những cảnh đời bất hạnh, cộng cới cái nhìn thấu
cõi, Nguyễn Du đã viết những tác phẩm thể hiện sự cảm thông, chia sẻ với mọi đau khổ của
kiếp người.
a1. Người nông dân:
* “Sở kiến hành” (Những điều trông thấy) đối lập với cuộc sống của vua , quan ở trạm Tây

a2. Người nghệ só
* “Thái Bình mại giả ca”, “Người đàn bà gảy đàn ở thnàh Thăng Long”
a3. Người hồng nhạn bạc phận đã khái quát thành “phận đàn bà”
* “Độc Tiểu Thanh kí” ( đọc kí của Tiểu Thanh)
* Thúy Kiều (“Truyện Kiều”)

a 4. Hàng viên lữ trung thành
* Khuất Nguyên (Phản chiêu hồn)
a 5. Thương mọi kiếp người.
* Văn chiêu hồn
b) Nguyễn Du đã khẳng đònh quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc, đồng cảm với ước mơ
công lí (báo oán , trả ân)
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
9
T liƯu dµnh cho líp chuyªn v¨n
b 1. Truyện Kiều
* Ca ngợi tình yêu tự do Kiều – Trọng
* Đòi quyền sống cho con người bằng cách miêu tả thân phận con người bò vùi dập, ý thức

con người trước nhân phẩm bò hủy hoại
* Dựng lên giữa thanh thiên bạch nhật phiên tòa xét xử, báo oán trả ân.
b 2. “Độc Tiểu Thanh kí”, “Sở kiến hành”
* Bất công ngang trái, cũng là kiếp người sao họ không có quyền được hưởng cuộc sống
hạnh phúc no đủ
c. Nguyễn Du đã lên án những thế lực tàn bạo
c 1. Bọn quan tham, lại nhũng, những kẻ nònh hót
* Từ tổng trọng thần trở xuống đến quan xử hiện “Có ba trăm lạng việc này mới xong” trở
xuống đến bọn sai nha bắng nhắng đều tàn ác, đểu cáng.
* “Tần cối tượng” (Tượng Tần Cối) – kẻ nònh thần
* Bọn buôn thòt bán người (Truyện Kiều)
B. Mét sè bµi viÕt

Trao duyªn
Trao dun, em hỏi, chị thưa...
“Lạy thưa”, “gửi lạy”...tình chưa đoạn tình!
Sao đã “trao”, đã “gửi” mà “tình chưa đoạn tình”?Cảm xúc này có thể lý giải qua việc phân tích tâm
trạng bi kịch của Kiều trong đêm “trao dun”.
Trước tiên, hãy hiểu Vân đơi chút, bởi lẽ Vân trực tiếp đối thoại, khơi gợi và chuẩn bị cho Kiều bộc
lộ tâm sự của mình.
Người ta hay nói rằng nàng Vân “vơ tư”(?) có lẽ là ở chỗ này: cả nhà vừa mắc oan, mới “thong
dong” một chút, trong khi chị Kiều một mình một ngọn đèn khuya: “Dầu chong thấm đĩa, lệ tràn
thấm khăn” thì em Vân hình như khơng chống nổi các quy luật sinh lý cho nên đã có một “giấc
xn” êm đềm!Song đến cuộc trao dun, bắt đầu ta nghe Vân “ân cần hỏi han” chị, ta lại nghĩ Vân
chưa hẳn vơ tình, những điều cơ hỏi chứng tỏ cơ hiểu đời, cái đời “dâu bể đa đoan”, biến động khơn

lường...Cơ biết nỗi oan của mình, oan “một nhà” mà cơ nghĩ “để chị riêng oan”, cơ ngủ mà cơ vẫn
biết chị “ngồi nhẫn tàn canh, nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?”.Nguyễn Du quả đã khéo sắp đặt:
để cho Vân hỏi chị trước, hỏi vừa đủ mà “trúng đích”, hỏi thể tất “nhân tình”!Và trong suốt cuộc
trao dun, Vân chỉ hỏi mỗi một lần, rồi lẳng lặng mà nghe...
Vậy ra Vân cũng hay đấy chứ, cơ đã tỏ ra “biết chuyện” và đã khơi gợi, tạo cơ hội cho chị Kiều bày
tỏ, nhưng bày tỏ sao đây trong khi chị Kiều:
Hở mơi ra cũng thẹn thùng
Chị buộc phải trao dun – cái dun vợ chồng với Kim Trọng cho em! Chuyện ấy, “hở mơi ra” đã
thẹn.Biết thẹn mà phải nói, nói để mà trao, sự tình đã đến thế thì chị phải thổ lộ thật, thổ lộ hết cùng
em.Thật lòng là chị “đương thổn thức đầy”, “còn vương vấn mối này chưa xong”, thật lòng là chị
ngượng, vì vậy mà điều băn khoăn day dứt trắng đêm nay, chị gửi trong mấy lời thành thật:
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai

Ấy chính là cái gút của tâm trạng bi kịch trao dun vừa là vấn đề “ức xúc” đặt ra cho chị, và cho cả
em giải quyết.Vân thương chị, hẳn là cảm nhận được cái tâm, cái tình trong đó, và hẳn cơ đã lờ mờ
thấy chị đang có u cầu gì với mình đây...Thúy Kiều thật khó nói, mà lại khó nói hơn khi phải nói
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
10
T liÖu dµnh cho líp chuyªn v¨n
một chuyện mà mình không muốn nói – mà vẫn “phải” nói cho em nghe, thật rối rắm, thật khó xử,
thật là “đau đầu” cho cả em lẫn chị...Đến nước này thì chị phải nhờ vả em thôi, em có hiểu không
Vân?Tâm trạng Kiều thật sự bối rối, cách giải quyết của Kiều là sự họat động về tình cảm chị em
mà thôi, chứ không phải là lí trí:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Đến nước này thì chị phải cậy em thôi, chị tin rằng em sẽ bằng lòng giúp chị mà, “em có chịu lời”
của chị không?Câu thơ như van xin, như cầu khẩn, câu thơ đặt ra vấn đề cho Vân, và Kiều thăm dò
ý của em mình, ở đây Kiều không ép, mà Vân cũng chẳng phật lòng, càng dễ cảm thông cùng chị,
Kiều mới yêu cầu em:
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Sao lại thế nhỉ?Theo tôi, có lẽ Vân cảm thấy đột ngột trước yêu cầu này.Người đọc thì cảm thấy như
có sự “thay bậc đổi ngôi”, có sự “hóan vị”, em bỗng như là chị, chị bỗng như là em (cúi mình
“lạy”).Thì ra chính cái yêu cầu kia là xuất phát từ tình thế, tâm trạng chị: vì chuyện tình riêng, chị
phải “lạy thưa” em, “cậy” nhờ em, đương nhiên em sẽ là ân nhân của chị!Thúy Kiều lạy thưa là tỏ
trước tấm lòng biết ơn của mình, và cũng là xuất phát từ sự trân trọng của mình trước chuyện “trao
duyên” thiêng liêng, hệ trọng này.Câu thơ trên gợi ý có tình, câu thơ dưới cầu khiến có tình, quả
nhiên hai câu thơ có sức thuyết phục đặc biệt!

Kiều bắt đầu kể cho em nghe chuyện tình của mình với Kim Trọng:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Phải rồi, kể từ đó – từ khi gặp chàng Kim, chị đã có tình yêu và tình yêu đó ngày càng sâu đậm
hơn.Kiểu thổ lộ với em thật thà, không giấu giếm, thật trong sáng, tình yêu của Kiều là do thiên tính
– là do trời chỉ định, Kiều “quan niệm” tình yêu của mình khác với “quan niệm” phong kiến, đó là
sự cảm nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không là sự thức ép.Phải chăng, Nguyễn Du đã cho
Kiều ít nhiều nói lên sự tự do yêu thương của con người trong xã hội lúc đó?
Sau mấy câu kể vắn tắt chuyện tình riêng của Kim Trọng, Kiều tiếp tục thuyết phục em bằng cả lí,
cả tình:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vạn hai?

Từ tình cảm của mình, Kiều nói đến cái lí, cái lí phải chọn một trong hai điều để trọn vẹn một điều
nào, hi sinh điều nào.Kiều nghĩ Vân sẽ ắt hiểu và hiểu thêm tâm trạng bi kịch của mình nữa.
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Em còn trẻ, em hãy thương chị mà thay chị lấy chàng Kim.Ấy chính là tình.Chỉ cần nói mấy tiếng
“xót tình máu mủ” là đủ xóay tận vào đáy lòng em rồi.Mà em đã “xót tình máu mủ” thì làm sao có
thể từ chối “thay lời nước non”?Câu thơ nghe não lòng, nghe như có tiếng kêu thương thống thiết
khiến Vân phải nghĩ đến bổn phận mình phải làm thế nào cho phải...
Kiều mới nói tiếp:
Cho dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Đó là những lời gan ruột của Kiều – một người chị bất hạnh.Lí, tình mà Kiều giãi bày thật tình như

vậy, Thúy Vân chỉ còn biết lẳng lặng mà nghe, lẳng lặng mà chấp nhận!
Đây là nỗi đau lớn nhất và đầu tiên trong suốt cuộc đời của Kiều, cho nên khi nhắc đến chàng Kim,
Kiều vô tình chạm vào nỗi đau sâu thẳm nhất của mình, khiến cô tỏ ra bần thần, rối trí, không điều
khiển được mình:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Đọc câu thơ, ta nghe như có một giọng khang khác.Phải chăng, nội tâm của Kiều lúc này phức tạp
Su tÇm ,biªn so¹n: Lª ngäc Mai
11

×