Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Nghiên cứu, xác định một số vi khuẩn gây bệnh viêm vú bò sữa, phương pháp vắt sữa hợp vệ sinh, an toàn sữa tươi tại một số cơ sở chăn nuôi, nông hộ Thanh Hoá, Vĩnh Phóc, ngoại thành Hà Nội và biện pháp phòng chống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.31 KB, 66 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU

I. ĐẶT VẤN ĐỀ.

Trong những năm gần đây, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước,
nền kinh tế phát triển, cùng với việc mức sống của người dân ngày càng nâng
cao. Nhu cầu của người dân về lương thực, thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao
nh thịt, trứng, sữa bơ đã trở nên không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người.
Việt Nam hiện đang trên đà phát triển kinh tế, nhu cầu về các sản phẩm có
nguồn gốc từ chăn ni nói chung, các sản phẩm từ chăn ni bị sữa, các sản
phẩm được chế biến từ sữa nói riêng ngày càng đa dạng và phong phú. Sữa là
loại thực phẩm quan trọng với sức khoẻ của con người đặc biệt là đối với trẻ em,
người cao tuổi, người bệnh, phụ nữ đang nuôi con nho thiếu sữa. Sữa cung cấp
những thành phần hố học có giá trị dinh dưỡng cao như protein, glucid, lipid,
đặc biệt là sữa bị thì những giá trị này càng lớn.
Ngày nay nhu cầu sử dụng sữa tươi còng nh các sản phẩm của sữa mỗi lúc
một tăng. Ngồi các loại sữa thanh trùng, tiệt trùng cịn rất nhiều sản phẩm được
chế biến từ sữa nh sữa bột, sữa đặc có đường, sữa chua, pho mát, kem,
bơ( Nguyễn Đức Đoan( 1998 )[ 8 ].
Ở Việt Nam từ những năm 80 trở về trước sữa được coi là một loại thực
phẩm xa xỉ, quý hiếm.
Trong những năm gần đây do mức sống của người dân ngày càng được
cải thiện thì nhu cầu của sữa và các sản phẩm của sữa ngày càng tăng nhất là ở
các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh .v.v. Trước tình hình
ngày càng địi hỏi ngành sản xuất và chế biến sữa phải có những hướng phát
triển phù hợp với nhu cầu chung của xã hội không ngừng nâng cao năng suất,
chất lượng, mẫu mã ... nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, góp phần
đem lại lợi nhuận kinh tế cao cho ngành sản xuất và chế biến sữa.
Trong những năm gần đây, đàn bò sữa ở Việt Nam tăng ở hai hình thức
chăn ni tập chung và chăn ni cá thể hộ gia đình. theo số liệu dự án nhân




giống bò sữa giai đoạn 2002 - 2005, viện chăn ni(2001)[7] thì tổng đàn bị sữa
của nước ta đạt 4,16 triệu con trong đó 2,1 triệu con bị cái sinh sản được nuôi
rải rác ở 2 - 3 triệu hộ. Cũng theo số liệu của dự án nhân giống bò sữa giai đoạn
2002 - 2005, chương trình phát triển sữa Việt Nam thời kỳ 2001 - 2020[7], thì số
lượng bị sữa và tổng sản lượng sữa của một số năm gần đây ( từ 1985 - 2002 )
được trình bày ở bảng sau:
Năm
Tổng đàn bò
sữa (con)
Tổng
lượng
sữa

1985
3.910

4.923

( tấn )

1995
18.70

1997
25.00

1998
27.00


1999
29.00

2000
34.00

0

0

0

0

0

17.00

31.00

32.00

42.00

52.00

0

0


0

0

0

2002
45.600

80.000

Trong 17 năm ( 1985 - 2002 ) tổng đàn bò sữa đã tăng lên gấp 11 lần, tuy
vậy ngành chăn ni bị sữa vẫn còn là một nghề sản xuất rất mới mẻ, phần lớn
người chăn ni bị sữa chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như những kiến thức
cần thiết. Vì vậy người chăn ni bị sữa hiện đang gặp phải rất nhiều khó khăn
trong việc chọn giống, chăm sóc ni dưỡng, khai thác và bảo quản sữa đảm bảo
an toàn cho người tiêu dùng.
Đối với với việc phát triển đàn bò sữa chúng ta khơng thể khơng nói đến
bệnh tật mà điển hình nhất là bệnh viêm vú bị sữa. Đây là một bệnh khá phổ
biến, xảy ra trên toàn thế giới, ở khắp mọi nơi chăn ni bị sữa, gây thiệt hại
nặng nề cho ngành sản xuất và chế biến sữa. Hiện nay người ta cho rằng viêm
vú là bệnh nguy hại nhất đối với bò sữa chiếm khoảng 26% tổng các chi phí
bệnh tật của bị sữa.
Có 2 dạng viêm vú của bò sữa: viêm vú bò sữa truyền nhiễm do vi khuẩn
gây bệnh gồm: Tụ cầu vàng ( Staphylococus aureus ) và liên cầu khuẩn
(Streptococcus agalactiae ) Mycoplasma bovis, Corynebacterium bovis. Dạng
viêm vú nữa là dạng viêm vú khơng truyền nhiễm do các vi khuẩn gồm: Nhóm
vi khuẩn tồn tại trong môi trường ( các loại Staphylococus và Streptococcus môi



trường và vi khuẩn Coli ( Coliform ): Nhóm vi sinh vật cơ hội và nhóm vi sinh
vật khác.
Nguồn vi sinh vật gây bệnh viêm vú đặc hiệu lây lan từ bầu vú bệnh tới
bầu vú lành thông qua việc vắt sữa khơng đảm bảo vệ sinh, trong đó yếu tố con
người đóng vai trị quan trọng. Vì vậy vệ sinh vắt sữa là một làm hết sức cần
thiết trong phịng chống bệnh viêm vú bị sữa.
Tuy nhiên ngồi các yếu tố con người trong thực tế cịn có khơng Ýt
những yếu tố ảnh hưởng đến bệnh viêm vú bò sữa cũng như chất lượng vệ sinh
sữa tươi. Đứng trước thực trạng này, được sự đồng ý của ban giám hiệu hoa
chăn ni thó y, sưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Quang Tuyên, giảng
viên bộ môn truyền nhiễm và TS. Trần Thị Hạnh cán bộ bộ môn vệ sinh thó y viện thó quốc gia chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài: " Nghiên cứu, xác định
một số vi khuẩn gây bệnh viêm vú bò sữa, phương pháp vắt sữa hợp vệ sinh, an
toàn sữa tươi tại một số cơ sở chăn ni, nơng hộ Thanh Hố, Vĩnh Phóc, ngoại
thành Hà Nội và biện pháp phịng chống"
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.

- Điều tra tình hình chăn ni bị sữa ở Thọ Sơn - Thanh Hố, Lập Thạch
- Vĩnh Phóc và ngoại thành Hà Nội.
- Điều tra tình hình vệ sinh vắt sữa ở các cơ sở, hộ chăn ni bị sữa ở Thọ
Sơn - Thanh Hố, Lập Thạch - Vĩnh Phóc và ngoại thành Hà Nội.
- Phân lập, xá định vi khuẩn gây bệnh viêm vú bị sữa.
- Đề xuất biện pháp cải thiện tình hình vệ sinh vắt sữa và biện pháp phịng
trị bệnh.
III. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.

Việc hoàn thành đề tài đem lại những ý nghĩa sau:
- Giúp cho người chăn ni bị sữa hiểu biết vỊ những nguyên nhân gây
bệnh viêm vú bò sữa, tầm quan trọng của việc vệ sinh vắt sữa. Trong phòng



bệnh viêm vú, để khi tạo được sản phẩm ra thị trường có chất lượng tốt, đảm
bảo vệ sinh, tránh thiệt hại kinh tế và đảm bảo sức khoẻ cho người sử dụng.
- Bước đầu đưa ra những biện pháp đảm bảo vắt sữa vệ sinh, giúp cho
người chăn nuôi có ý thức nâng cao chất lượng sữa, giảm chi phí cho bệnh tật,
nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn ni.
- Đưa ra được một số biện pháp phịng chống bệnh viêm vú bị sữa có
hiệu quả đem lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi, nhằm phát triển ngành
chăn ni bị sữa trong tương lai ở Việt Nam.
PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.

Ngành chăn ni bị sữa nước ta vẫn cịn là một nghề hết sức mới mẻ.
Theo Nguyễn Văn Cát
( 1998)[2], hướng phát triển đàn bò sữa nước ta những năm tới nh sau:
Năm
2000
2010

Tổng đàn bò sữa ( con )
63.000
250.000

Sản lượng sữa( tấn )
84.000
500.000

Theo số lượng điều tra về dự án bò sữa Việt - Bỉ của Paul Pozy, Bùi Tuấn
Khải, Phùng Quốc Quảng (2000)[12] và chi cục thó y Hà Nội vào thời điểm

tháng 12 năm 1999, toàn Thành phố Hà Nội có 530 hé gia đình ni 1204 bị
sữa với sản lượng sữa 5000kg/ngày. Khoảng 960 bò sữa được nuôi tại các cơ sở
nhà nước là Cầu Diễn và Phù Đổng với sản lượng 1000 kg/ngày.
Hiện nay nhờ tăng biện pháp thụ tinh nhân tạo , sè bê lai sinh ra ngày
càng tăng , năng suất bình quân tăng cao , lên tới 11,9 kg /con /ngày. So với
những năm trước đây (10,5 kg/ con / ngày). Tính đến tháng 6 năm 2000 có hơn
32.000 con bị sữa, trong đó có khoảng 20.000 con bị cái hướng sữa đã sinh
sản , sè bò cái vắt sữa trên 13.000 con. Riêng TPHCM, số bò sữa chiếm 65%
trong tổng đầu bò sữa của cả nước, trong khi đó số bị sữa ni ở các tỉnh phía


Bắc chỉ chiếm 13 -14 % và số bò sữa nuôi ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên
chiếm 1 -2% . Mét thực tế là 65% tổng số đàn bị sữa thuộc khu vực tư nhân ,
ni chủ yếu ở nơng hộ với số lượng bình qn 3 -5 con / hé , cịn một số hộ
ni với số lượng lớn 50 con . Chỉ có khoảng 35% đàn bò sữa thuộc khu vực
nhà nước chủ yếu là để nhân giống . So với các nước trong khu vực, đàn bò sữa
của Việt Nam còn quá thấp (Trung Quốc có khoảng 3.6 triệu bị sữa , Nhật Bản
có khoảng 1,8 triệu con, Thái Lan > 300.000).
Theo báo cáo của dự án phát triển bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010
[ 1] của cục khuyến nông và khuyến lâm chỉ ra những thuận lợi và hạn chế
trong việc phát triển chăn ni bị sữa .
* Thuận lợi
- Nhu cầu tiêu dùng sữa ở thị trường trong nước đang và sẽ tiếp tục tăng
nhanh do mức sống của nhân dân được cải thiện .
- Sản xuất sữa trong nước mới đáp ứng được 10% nhu cầu tiêu dùng vẫn
còn một thị trường rộng lớn để phát triển sữa nội địa .
- Chăn ni bị sữa là một ngành nghề mới có triển vọng mang lại hiệu
quả kinh tế được nhân dân hưởng ứng .
- Nhà nước đã có chủ trương, chính sách đầu tư khuyến khích phát triển
sản xuất .

* Khó khăn
- Khí hậu Việt Nam nóng Èm khơng phù hợp với bị sữa nhiệt độ 37 - 38
C; độ Èm 85 - 90%.
- Nông dân thiếu vốn vì giá thành để mua mét con bị sữa rất cao, chưa kể
các chi phí khác, trình độ hiểu biết về chăn ni bị sữa cịn thấp.
1.1. Cấu tạo sinh lý tuyến sữa.
Tuyến sữa là cơ quan sản xuất đặc biệt của bị cái, nó hoạt động có tính
chất giai đoạn dưới sự điều tiết của hệ thống thần kinh - thể dịch, cấu tạo của
tuyến sữa bao gồm các tổ chức liên kết, tuyến thể, mạch máu lâm ba và hệ thần
kinh.


1.1.1. Tổ chức liên kết.
1.1.1.1. Da.
Da bao bọc bên ngoài bầu vú, nó là phần bảo vệ và hỗ trợ sự định hình
của tuyến. Da giữ cho bầu vú gắn chặt vào thành bụng của bị.
1.1.1.2. Mơ liên kết dày mỏng.
Nằm ở phần nông khắp bề mặt da.
1.1.1.3. Mô liên kết dầy.
Líp mơ này nằm sâu bên trong líp da mỏng, gắn phần da và tuyến thể
bằng sự tạo thành một líp liên kết đàn hồi.
1.1.2. Cấu tạo tổ chức tuyến.
Tổ chức tuyến gồm hai phần chính: hệ thống tuyến bào và hệ thống ống
dẫn. Đó là cơ quan tạo sữa duy nhất ở bò, sự phát triển của tuyến thể có quan hệ
trực tiếp đến năng suất sữa.
1.1.2.1. Hệ thống tuyến bào.
Tuyến bào là đơn vị chế tiết chủ yếu của tuyến sữa, nó tập hợp một tầng tế
bào thượng bì đơn. Hình dạng tế bào thay đổi theo chu kỳ phân tiết sữa, khi
phân tiết mạnh trong tế bào tích trữ nhiều dịch phân tiết. Tế bào có dạng hình trụ
cao đầu nhỏ hướng vào xoang tuyến bào. Tế bào chứa nhiều hạt mỡ, protit kích

thước khác nhau. Khi không phân tiết tế bào thu hẹp lại. Trong bầu vú, tuyến
bào tập hợp với nhau thành chùm người ta gọi là chùm tuyến bào hoặc tiểu thuỳ
(Lobular). Mỗi một phần tư bầu vú được tập hợp bởi nhiều chùm tuyến bào và
biệt lập lẫn nhau bới líp ngồi màng treo giữa và các mô liên kết khác.
1.1.2.2. Hệ thống dẫn sữa.
Bao gồm hệ thống ống. phân nhánh theo kiểu cành cây, bắt đầu là các ống
dẫn sữa nhỏ xuất phát từ các tuyến bào nên còn gọi là các ống dẫn tuyến bào.
Sữa được tạo thành ở tuyến bào di chuyển theo các ống dẫn sữa nhỏ trong chùm
tuyến bào, sau đó tập hợp vào ống dẫn chùm tuyến bào( còn gọi là ống dẫn sữa
nhỏ). Sữa trước khi vào bể thường được chảy qua ống tập hợp lớn ( Lobo ducts).
Ở chỗ phân nhánh ống dẫn sữa, thành ống hình thành các nếp nhăn hoa thị hạn
chế sự di chuyển của sữa. Bể sữa được phân ra làm hai phần, phần trên gọi là bể


tuyến, phần dưới gọi là bể bầu vú. Giới hạn dưới hai bĨ là nếp nhăn niêm mạc
vịng. Cuối cùng là ống dẫn đầu vú, giới hạn giữa bể đầu vú và ống đầu vú là tổ
chức Furstenlerge roselt, thành ống kết cấu nh những chiếc hoa.
1.1.3. Sự vận chuyển của máu.
- Hệ thống động mạch: Hầu hết máu cung cấp cho bầu vú do đơi động
mạch âm ngồi. Động mạch đi từ xoang bụng, thông qua rãnh bẹn, chui qua ống
bẹn, quanh co uốn khúc làm cho tốc độ dịng chảy của mẳ chậm lại. Động
mạch tuyến sữa là tiếp tục của động mạch âm ngoài. Khi đến tuyến sữa phân
thành hai nhánh lớn là động mạch tuyến sữa trước và động mạch tuyến sữa sau,
một phần nhánh nhỏ động mạch dưới da bụng bắt nguồn từ động mạch tuyến
sữa trước (trước khi dộng mạch này phân nhánh) cung cấp máu cho phần trước
tuyến sữa.
Động mạch đáy chậu bắt nguồn từ trong xương chậu cung cấp máu cho
phần rất nhỏ của phần sau bầu vó.
Động mạch tuyến sữa trước, động mạch tuyến sau, động mạch dưới da
bụng, động mạch đáy chậu phân nhánh theo chiều dọc và ngang nhiều lần, cuối

cùng thành các vị trí huyết quản bao quanh mỗi tế bào tuyến.
- Vịng tuần hồn tĩnh mạch vú:
Tĩnh mạch tuyến sữa từ hai nửa sau của bầu vú thu nhập máu vào tĩnh
mạch tuyến sữa sau. Hai tĩnh mạch tuyến sữa sau thông với nhau trên bề mặt của
tuyến thể. Tĩnh mạch đáy chậu cùng thu nhận máu từ phần sau tuyến sữa và
phần sau của cơ thể. Sau đó đổ vào tĩnh mạch sữa sau. Nh vậy máu ở tĩnh mạch
sau tuyến sữa đi ra không thể hiện đúng bản chất của máu đi từ tuyến sữa. Tĩnh
mạch tuyến sữa trước được tạo thành bằng sự thu nhận máu của phần trước bầu
vú. Chúng nhập với tĩnh mạch dưới da bơng, sau đó đi vào thành bụng tạo thành
tĩnh mạch sữa. Các tĩnh mạch tuyến sữa trước và sau được thơng với nhau bằng
tĩnh mạch nối có kết cấu van, những van này hoạt động linh động, cho nên máu
có thể chảy theo bất cứ chiều nào tuỳ vào vị trí của gia sóc.
1.1.4. Hệ thống lâm ba.
Hệ thống lâm ba trong tuyến sữa có chức năng vận chuyển dịch thể hay
dịch lâm ba từ bề mặt tế bào đến hạch lâm ba và trả lại dich thể đến tuần hoàn
tĩnh mạch, một chiếc van ở ngực ngăn chặn máu chảy vào hệ thống lâm ba.


Hệ thống van trong mạch lâm ba đảm bảo cho dịch lâm ba chảy theo
hướng dòng chảy của tĩnh mạch. Hạch lâm ba lọc dịch thể theo cách loại trừ vật
lạ và sản sinh lâm ba cầu, mỗi nửa của bầu vú có một hạch lâm lớn nằm ngay
sau ống bẹn và nhiều hạch lâm ba nhỏ hơn nằm rải rác trong tuyến sữa. Bạch
huyết sau khi chảy qua hạch lâm ba lớn, chúng rời khỏi bầu vú bằng một hoặc
hai mạch lâm ba sau đó theo ống bẹn hồ cùng với mạch lâm ba khác.
1.2. Một số giống bò sữa hiện ni tại Việt Nam.
1.2.1. Bị lang trắng đen Hà Lan ( Holstein Friesian - HF ): Đây là giống
bò sữa nổi tiếng nhất trên thế giới.Sản lượng sữa bình qn 5000 - 6000 lít/chu
kỳ vắt sữa 305 ngày/con kỷ lục đạt trên 18.000 lít, tỷ lệ bơ 3,2 - 3,7%. Bị Hà
Lan chỉ thích hợp với những vùng khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình < 21 C
(phù hợp nuôi tại Méc Châu - Sơn La; Đức Trọng - Lâm Đồng). Do đó muốn có

giống bị sữa nuôi ở nhiều vùng khác nhau của Việt Nam. Chương trình Nhà
nước về tạo giống bị sữa Việt Nam năm 1979 do Nguyễn Văn Thưởng làm chủ
nhiệm đề tài nghiên cứu tạo ra giống bò sữa Việt Nam bằng con đường lai giữa
bò Hà Lan với bò vàng Việt Nam đã có máu bị Zebu.
1.2.2. Bị Laisind: Bị cái Laisind tập trung được những đặc điểm quý của
bò vàng và bị Redsindhi. Tuy năng suất sữa khơng cao, nhưng do dễ nuôi, chịu
đựng được kham khổ, Ýt bệnh tật, nên phần lớn bà con đều bắt đầu vào nghề
ni bị sữa từ bò Laisind.
1.2.3. Bò lai F : (

HF ) . Lai giữa bò đực Hà Lan và bò cái Laisind, con

lai F có màu lơng đen, có vết loang trắng nhỏ ở dưới bụng, bốn chân, khấu đuôi
và trên trán. Con lai F có sản lượng sữa đạt 2500 - 3000kg/1 chu kỳ vắt sữa,
15- 20 lít sữa/ ngày, tỷ lệ bơ 3,6 - 4,2%. Thời gian vắt sữa kéo dài 300 ngày.
1.2.4. Bò lai Hà Lan F : (

HF ). Lai giưa bò đực Hà Lan và bò cái lai

Hà Lan F , con lai F có sản lượng sữa đạt 3000 - 3500kg/1chu kỳ vắt sữa, hoặc
cao hơn, tỷ lệ bơ 3,2 - 3,8%. chu kỳ khai thác 305 ngày.
1.3. Định hướng phát triển đàn bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001 2020.
Hướng phát triển đàn bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001 - 2020.


TT

Chỉ tiêu

1


Mức tiêu dùng bình
qn/đầu người/năm
Tổng đàn bị sữa (con)

2
3
4
5

6

Sản
lượng
sữa
tươi( tấn)
Số hộ chăn ni bị
sữa( hé )
Năng suất bình
qn/1bịcái/ngày
( kg/con/ngày)
Bị HF( Holstein Frisian)
Bị F ,F ,F ,F
Năng suất sữa bình
qn/1con bò cái vắt
sữa/chu kỳ 305
ngày(kg/con)
Bò Hà Lan
Bò Laisind


Năm
2005
9kg

2010
10kg

200.00
600.000
0
350.00 1.000.000
0
50.000
100.000

2000
6kg

2001
6,5kg

2020
12kg

35.00
0
55.00
0
5.000


40.00
0
62.00
0
10.00
0

100.00
0
160.00
0
20.000

13,5

13,8

16,0

18,0

19

11,6

11,8

12,1

13


13,5

4.200
3.500

4.300
3.500

4.900
3.700

5.500
4.000

5.800
4.300

1.3.1. Quy hoạch vùng chăn ni bị sữa.
- Có lợi thế so với các ngành kinh tế khác.
- Có đủ đất cho trồng cỏ và xây dựng chuồng trại.
- Xa khu vực dân cư nhưng phải thuận tiện giao thông.
- Gắn liền với việc bảo vệ môi trường và sinh thái.
+ Quy hoạch các vùng ni bị sữa.
- Vùng tốt nhất: Lâm Đồng, Méc Châu - Sơn La là vùng phù hợp với bị
thuần HF, Jersey.
- Vùng có thể ni bị thuần, bị lai >75% HF: Tun Quang, Hà Tây,
Thanh Hố, Vĩnh Phóc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai,
Đơng Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh.



- Vùng ni bị lai HF: Thái Ngun, Bắc Giang, Nghệ An, Quảng Ninh,
Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Bình Định, Phú Thọ, Phú Yên, Long An và Hà
Tây.
- Vùng khơng nên ni :
• Vùng ngập lụt ở Đồng Bằng Sơng Cửu Long.
• Vùng chiêm trũng và thiếu đất trồng cỏ.
• Vùng có nhiệt độ cao, độ Èm cao và thiên tai nh Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Ninh Thuận, Bình Thuận.
1.3.2. Giống bị sữa.
+ Bị lai giống sữa HF: F ,F ,F ,F .
- Giữa tinh bị HF với bị cái nền cải tiến.
- Ngồi ra còn lai giữa HF và Jersey.
- Jersey với bò cái nền cải tiến: Với bò lai F .
+ Bò thuần: Holstein Friesian ( HF ), Jersey.
1.3.3. Cơ cấu giống bò sữa.
- Bò lai HF: 70%.
- Bò lai khác: 10%.
- Bò thuần HF, Jersey: 20%.
1.3.4. Chiến lược phát triển thức ăn thô xanh.
- Chuyển đất canh tác kém sang trồng cỏ.
- Chó ý cây họ đậu trong q trình phát triển đồng cỏ.
- Sử dụng các phế phụ phẩm trong nông nghiệp và cơng nghiệp.
1.3.5. Cơng tác thó y cho bị sữa.
- Thực hiện đúng các quy trình kiểm dịch, kiểm tra định kỳ các bệnh: Lở
mồm long mãng, Lao, Sảy thai truyền nhiễm, Ký sinh trùng đường máu, Sán lá
gan, Viêm vú, chân móng.
- Tiêm phịng bắt buộc mố số bệnh truyền nhiễm.
- Thành lập các trạm thó y tại các vùng ni sữa.
- Củng cố hệ thống thó y viên cơ sở, cứ 50 - 100 bị sữa có 1 cán bộ kỹ

thuật hoặc bác sĩ thó y.


1.3.6. Chuồng trại bò sữa.
- Xây dựng chuồng trại đảm bảo thoáng mát.
- Thiết kế theo hướng cơ giới hoá.
- Có hệ thống sử lý chất thải.
1.3.7. Hệ thống thu mua sữa.
- Hình thành hệ thống thu mua sữa: Sản xuất - tiêu thụ.
- Hỗ trợ cho nơi mới bắt đầu chăn ni bị sữa.
- Khuyến khích cá nhân hoặc công ty xây dựng trạm thu mua sữa.
1.3.8. Nghiên cứu và đào tạo kỹ thuật.
+ Nghiên cứu:
- Dinh dưỡng bò sữa.
- Ảnh hưởng môi trường đến khả năng phát triển và cho sữa của các giống
bị sữa.
- Tập đồn cây cỏ nhiệt đới, chế biến bảo quản thước ăn thô xanh.
- Các bệnh về bò sữa ở Việt Nam và biện pháp phòng trị.
- Kiểm tra đánh giá giống đực qua đời sau.
+ Đào tạo:
- Chuyên gia về chăn nuôi bị sữa.
- Cơng nhân lành nghề.
1.3.9. Thơng tin tun truyền.
- Hiện nay ta mới sản xuất được 18% sữa tiêu dùng, 82% phải nhập khẩu,
vì vậy thị trường tiêu thụ sữa trong nước còn rất lớn.
- Bò sữa là loại gia súc ni khó nhất trong các loại vật ni
- Ni bị sữa là một nghề sản xuất hàng hố cao cấp và làm giàu, khơng
phải để xố đói giảm nghèo.
- Ni bị sữa phải có vốn, có cơ sở vật chất kỹ thuật, phải có kiến thức về
giống, thức ăn, thó y và quản lý đàn.

Những tư liệu trên được trích dẫn từ đề tài nghiên cứu" Tình hình chăn
ni bị sữa từ 2001 - 2004 và định hướng phát triển 2005- 2020". Do tác giả
Hồng Đạo Giao phó cục trưởng cục nông nghiệp làm đề tài.


1.4. Bệnh viêm vú bò sữa.
1.4.1. Khái niệm viêm vú.
Bệnh viêm vú bò rất phổ biến và gây tổn thất lớn, là bệnh phổ biến trên
phạm vi thế giới, nó tồn tại ở bất cứ nơi nào có chăn ni bò sữa.
Bệnh viêm vú bò sữa tồn tại từ khi người ta chăn ni bị sữa. Hàng nghìn
năm nay, mặc dù có sự tiến bộ trong khoa học, thì bệnh viêm vú bò sữa vẫn lưu
hành trong phần lớn các trang trại chăn ni bị sữa, có thể ước tính đến 1/3 bò
bị nhiễm bệnh này trong các dạng bệnh ở một hay nhiều nang sữa.
Theo Nelson Philpat W( 1991)[33]: Bệnh viêm vó là kết quả của sự
tương tác của nhiều yếu tè nh con người, vật nuôi, môi trường, vi khuẩn và quản
lý.
Theo Tolle( 1975 )[40]" Viêm vú bò là một bệnh phức tạp gây lên bởi sự
tương tác qua lại giữa bị - vi khuẩn và mơi trường.
Bệnh viêm vú bò sữa là một phản ứng của tuyến vú. Chữ Mastitis theo
nghĩa từ Hy Lạp là Mastor có nghĩa vú và Itis là viêm, viêm là sự đáp ứng các
mô sữa trong từng núm vú đối với sự tổn thương hoặc là sự có mặt của vi khuẩn
gây bệnh.
+ Viêm vú lâm sàng:
Thể viêm vú lâm sàng đặc trưng bởi những biến đổi rõ rệt ở tuyến sữa
hoặc sữa. Tuỳ thuộc vào quá trình diễn biến của bệnh mà những biến đổi này
khác nhau theo từng giai đoạn. Các trường hợp bệnh ở thể lâm sàng có thể được
coi là thể á cấp tính( thể lâm sàng nhẹ) khi các biểu hiện biến đổi nhẹ của sữa và
các núm vú bị nhiễm như tạo váng, lổn nhổn hoặc sữa biến màu, các núm vú này
có thể bị sưng nhẹ và nhạy cảm.
+ Viêm vú cấp tính:



Trong trường hợp viêm vú cấp tính thì các triẹu chứng xuất hiện đột ngột
nh sưng, nóng, đỏ, bầu vú đau, rắn và khơng bình thường, sản lượng sữa giảm
hẳn, con vật biểu hiện sốt và kém ăn.
+ Viêm vú q cấp tính:
Đây là thể bệnh Ýt thấy và có những biểu hiện nh trên nhưng cũng có thể
có những biểu hiện nh suy nhược, tăng nhịp tim và tần số hô hấp vận động kém,
chân lạnh, phản xạ mắt giảm, mất nước và tiêu chảy.
+ Viêm vú cận lâm sàng:
Ở thể bệnh này các biểu hiện lâm sàng ra bên ngồi khơng rõ, khơng thể
quan sát bằng mắt thường được, nó phải được nhận biết bằng các xét nghiệm,
định hướng như phát hiện các vi khuẩn, các tế bào thân. Chính vì những đặc
điểm chỉ hơi khác thường này mà người chăn ni khó có thể phát hiện được
dẫn đến coi nhẹ tầm quan trọng của nó, nhưng đây lại là thể bệnh rất quan trọng
bởi vì:
- Sù lưu hành cao gấp 15 - 40 lần so với thể lâm sàng.
- Luôn là nguy cơ của thể lâm sàng.
- Bệnh kéo dài.
- Khó phát hiện.
- Giảm q trình tiết sữa.
- Có nguy cơ ảnh hưởng tới chất lượng sữa.
Ngồi ra thể cận lâm sàng cịn quan trọng bởi vì nó là nguồn tàng trữ
mầm bệnh và gây nhiễm cho những con khác trong đàn.
+ Viêm vú mãn tính:
Thể viêm vú này xảy ra bởi sự kéo dài của thể viếm vú cận lâm sàng và
lâm sàng. Bệnh thể hiện ra các triệu chững lâm sàng gián đoạn. Thường có sự
hình thành sẹo và làm biến đổi hình dạng tuyến sữa bị nhiễm, cùng với giảm sản
lượng sữa. Thời gian từ cận lâm sàng đến lâm sàng có thể rất lâu tuỳ thuộc vào
vi khuẩn gây bệnh, những yếu tố bất lợi( Stress ) và các yếu tố khác.

- Các trường hợp viêm vú không đặc hiệu:


Đôi khi được xem xét như viêm vú không do vi khuẩn, dạng này xảy ra
khi vi khuẩn không phân lập được từ sữa. Trong qúa trình vú bị viêm một số
lượng lớn vi khuẩn sẽ xâm nhập vào trong sữa, chính vì thế mà một lượng lớn
các tế bào bạch cầu sẽ được huy động vào để đảm bảo nhiệm vụ thực bào các tế
bào vi khuẩn. Nếu không có sự tấn cơng bảo vệ của các tế bào bạch cầu các vi
khuẩn gây viêm vú đã có thể nhân lên và giết chết một số lượng lớn bò sữa khi
bò bị nhiễm bệnh. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng khi bò sữa bị tác động
bởi các hội chứng Stress mạnh, các tế bào bạch cầu ở vú sẽ có hiệu quả kém hơn
( yếu hơn trong cuộc chiến đấu chống lại bệnh viêm vú- nguyên nhân do các vi
khuẩn - do đó chúng ta phải hết sức cố gắng đảm bảo cho bò sữa khỏi các yếu tố
Stress).
1.4.2. Vi khuẩn gây bệnh viêm vú bò sữa.
Theo Jeffrey L.Watts( 1993)[30]: Có tới hơn 135 lồi vi sinh vật khác
nhau được phân lập từ bò sữa bi viêm vú. Vi khuẩn gây bệnh viêm vú bò sữa
được chia ra các nhóm sau:
- Nhóm vi khuẩn gây bệnh đặc hiệu.
- Nhóm vi khuẩn mơi trường.
- Nhóm vi khuẩn cơ hội.
- Nhóm vi khuẩn khác.
Nguồn vi khuẩn gây bệnh chính là những vi khuẩn phân lập được trong
sữa của bò bị mắc bệnh. Các vi khuẩn này có thể truyền từ bị bị bệnh tới các bị
khác chưa bị bệnh thơng qua q trình vắt sữa.
Nguồn vi khuẩn mơi trường tồn tại xung quanh bò sữa. Các vi khuẩn này
xâm nhập vào bầu vú thường qua các lần vắt sữa. Các vi khuẩn cơ hội thường có
mặt trong sữa nhưng thường chỉ gây viêm vó nhẹ, với một số lượng lớn thường
xuyên có mặt trên bầu vú và núm vú chúng là nguồn gây nhiễm thường xuyên.
Các vi khuẩn khác cũng có khẳ năng gây bệnh viêm vú.

1.4.2.1. Vi khuẩn gây bệnh.


Vi khuẩn gây bệnh viêm vú chính là Staphylococcus, S.aureus và
Streptococcus agalactiae, các vi khuẩn khác bao gồm Mycoplasma bovis và
Corynebacterium bovis.
* Tô cầu vàng Staphylococcus aureus ( S.aureus).
Tụ cầu vàng (Staphylococcus) là những vi khuẩn Gram(+), hình cầu
(cocci), đứng xếp đơi hoặc nhóm nhỏ hình chùm nho vì vậy có tên là Staphylo
nghĩa là đám (Clusters) và hình cầu (coccus spheres) tức là đám hình cầu
(Clusters of Spheres); đường kính 0,7 - 1μm, khơng di động, khơng có vỏ,
khơng có lơng và khơng hình thành nha bào, phản ứng Catalaz dương tính.
Theo cách phân loại của Bergey( 1984).

Chủng vi khuẩn
S. aureus
S. epidermidis
S. hyicus

Phản ứng coagulase

Khả năng chuyển hố

(đơng vón huyết tương)
(+)
(-)
(-)

đường mannit.
(+)

(-)
(-)

S. aureus là loại gây bệnh thường xuyên hay gặp nhất, nó có ý nghĩa rất
quan trọng đối với y học và thó y học, khoảng 80% ngươi khoẻ mạnh mang S.
aureus ở trên da và trên niêm mạc, khi trên bề mặt da và niêm mạc bị tổn
thương, sức đề kháng của cơ thể giảm vi khuẩn sẽ xâm nhập và gây bệnh.
Các chất do tụ cầu gây bệnh(Staphylococcus aureus) tiết ra:
- Độc tố:
* Haemalyzin ( độc tố dung huyết ):
+ Dung huyết tè α (anpha): gây dung giải hồng cầu thá ở 37 C, gây hoại
tử da và gây chết: đây là một ngoại độc tố, có bản chất là protein, bền với nhiệt.
Là một kháng ngun hồn tồn, hình thành kháng thể kết tủa và kháng thể
trung hoà dưới tác động của formon và nhiệt độ nó biến thành giải độc tố có thể
dùng làm vacxin.
+ Dung huyết tè β(beta): Dung giải hồng cầu cừu ở 4 C, dung huyết tố
này kém độc hơn dung huyết tè α .


+ Dung huyết tè δ(đenta): Gây dung giải hồng cầu người, thá, cừu, ngựa
và gây hoại tử da.
+ Dung huyết tè γ(gamma): không tác dụng lên hồng cầu.
* Nhân tố diệt hồng cầu( Leucocidin): Là bạch cầu mất tính di động, mất
hạt và nhân bị phân huỷ, giữ vai trò quan trong trong cơ chế sinh bệnh của thụ
cầu.
* Độc tố ruột( Enterotoxin): Gây viêm ruột cấp tính nhiễm độc do thức
ăn.
- Các enzym:
* Men đông huyết tương( coagulase): Men này làm đơng huyết tương của
người, thá, nó tác động lên globulin trong huyết tương. Coagulaz là một yếu tố

cần thiết của cac chủng tụ cầu gây bệnh, nó gây lên các huyết cục trong tĩnh
mạch và gây lên nhiễm khuẩn huyết.
Coagulase có hai loại: Một loại tiết ra mơi trường gọi là coagulase tù do
và một loại bám vào vách tế bào gọi là coagulase cố định, chúng có tác dụng tạo
ra các cục máu đông xung quanh tế bào vi khuẩn, do vậy S. aureus tránh được
kháng thể và thực bào.
* Men catalase: Men này xúc tác gây phân giải H O

O + H O.

Catalase có ở tất cả các tụ cầu mà khơng có ở liên cầu.
* Men Desoxyribonuclease: Men phân giải DNA và gây các tổn thương
tổ chức.
Tính kháng kháng sinh của tụ cầu vàng( S. aureus) : Tơ cầu vàng
Staphylococcus aureus có khả năng sản sinh ra men Penicillinase có thể kháng
lại kháng sinh Penicillin nhóm G.
* Liên cầu khuẩn Streptococcus agalactiae( S. agalactiae).
S. agalactiae là những vi khuẩn bắt màu Gram(+), hình cầu nhỏ, xếp thành
chuỗi, uốn khúc dài - ngắn khác nhau, đường kính khoảng 1μm, đơi khi có vỏ,
khơng di động, sống hiếu khí hoặc yếm khí tuỳ tiện. Một số có khẳ năng gây
bệnh, số khác lại không.
+ Nuôi cấy trên mơi trường thạch máu: Vi khuẩn có 3 dạng dung huyết.


- Dung huyết dạng α : Khuẩn lạc được bao quanh một vịng hồng cầu cịn
ngun hình những màu xanh, xa khuẩn lạc một chút có một vịng tan máu, độc
lực không cao.
- Dung huyết dạng β: Bao quanh khuẩn lạc là một vịng tan máu hồn tồn
trong suốt có bờ rõ ràng, độc lực của vi khuẩn nhóm này cao.
- Dung huyết γ: Là những vi khuẩn không gây bệnh, khơng có khẳ năng

làm dung huyết hồng cầu.
* Đặc tính sinh hố:
- Liên cầu có khẳ năng lên men đường: Glucoz, Saccaro, Lactoz, Salixin,
không lên men đường: Mannit, Inulin.
- Các phản ứng khác: Indole(-); Catalase(-); H S(-); Coagulase(-), không
làm đơng vón huyết tương.
* Mycoplasma bovis(M.bovis).
Có rất nhiều lồi Mycoplasma tồn tại, song loài gây bệnh chủ yếu là
Mycoplasma bovis. Vi khuẩn này gây viêm vú bị có đặc tính phát triển đột
ngột, hình thành dịch mủ trong các vú bị viêm, lây lan nhanh chóng trong đàn,
làm giảm chất lượng sữa và kháng với kháng sinh.
* Corynebacterium bovis( C.bovis).
Corynebacterium là vi khuẩn Gram (+), hình chùm hay hình que, vi khuẩn
này thường xuyên phân lập được từ vú bò, màng tế bào có chứa Meso diaminopnelic acid, Arabinose galactose và Acid mycolic chuỗi ngắn. C. bovis
thường được phân lập từ các mẫu sữa lấy vô trùng và được coi là ngun nhân
gây viêm vú bị.
1.4.2.2. Vi khuẩn mơi trường.
Bệnh viêm tuyến sữa thể lâm sàng do vi khuẩn môi trường gây ra, bao
gồm 2 dạng:
1 - Các loài Streptococcus hay cịn gọi là Streptococi mơi trường, phân
biệt với lồi S.agalactiae.
2 - Vi khuẩn dạng Coli( Coliform)
Streptococcus môi trường bao gồm S. uberis và S. dyagalactiae.


Coliform bao gồm E.coli, Klebsiella pneumoniae, Klebsiella oxytoca và
Enterobacter aerogeues có nguồn gốc từ phân, nền chuồng và đất. Sự lưu hành
bệnh viêm vú ở bị bị nhiễm các lồi vi khuẩn trên thường Ýt hơn 5%. Do vậy
mà bệnh viêm tuyến sữa do môi trường Ýt ảnh hưởng tới lượng tế bào thân ở
thùng chứa. Những loại vi khuẩn này thường có nhiều ở các vùng thường ni

bị, ở phân, đất, nền chuồng, thức ăn nước uống và các nguyên liệu thực vật
chứa nhiều loại vi khuẩn này. Bò ni nhốt có nguy cơ nhiễm bệnh với vi khuẩn
này cao hơn bị chăn thả. Trong khi đó bệnh do các vi khuẩn lây lan lại giảm do
xu thế ra tăng phương thức ni nhốt bị sữa, đó là lý do làm tăng bệnh viêm vú
do vi khuẩn môi trường, vì các lồi vi khuẩn này cũng có phổ biến trong mơi
trường ni bị và việc loại trừ chúng khơng phải đơn giản.
1.4.2.3. Các vi khuẩn cơ hội.
Nhóm vi khuẩn này bao gồm hơn 20 loài Staphylococcus khác ngoài S.
aureus. Chúng thường xuyên phân lập được trong những đàn bò, bệnh do chúng
gây ra thường chỉ ở thể nhẹ và chỉ làm tăng lượng nhỏ tế bào thân. Số lượng tế
bào xấp xỉ 1.000.000/ml trong các vú bị nhiễm ở thể cận lâm sàng.
Các trường hợp do Staphylococcus xảy ra phần lớn trong thời kỳ đầu của
giai đoạn cạn sữa khi da núm vú không được tiếp xúc với chất sát trùng, như vậy
tỷ lệ của các vú bị nhiễm với các vi khuẩn này thường cao hơn trong thời kỳ tiết
sữa. Bò sữa cã thể tự khỏi trong nhiều trường hợp và sự lưu hành bệnh giảm đi
trong thời kỳ cho sữa.
1.4.2.4. Các vi khuẩn khác.
- Nấm men: là nhóm nấm có cấu tạo đơn bào hình thái của nấm men thay
đổi phụ thuộc vào tuỳ loại nấm men, điều kiện ni cấy, tuổi, do đó nấm men có
hình thái rất đa dạng như: Hình trứng, hình bầu dục, trịn, hình ống dài, hình quả
dưa chuột... và một số hình đặc biệt khác.
- Nấm mốc: Có cấu tạo hình sợi phân nhánh, những sợi này sinh trưởng ở
đỉnh và phát triển rất nhanh tạo thành từng đám chằng chịt các sợi.


- Ngồi nấm mốc và nấm men cịn có tảo góp phần làm cho sữa bị tủa và
lắng cặn xuống đáy thùng sữa và tiết ra độc tố là một trong những nguyên nhân
gây độc cho người sử dụng.
Ngoài mét số nhóm vi khuẩn như: Pseudomonas, Actinomyces pyogenes,
Norcadia specias, Listeria... cũng có khẳ năng gây ra bệnh viêm vú bị sữa. Bệnh

xảy ra do một số vi khuẩn trong nhóm này thường là do thiếu các biện pháp điều
trị phù hợp. Bệnh thường Ýt xảy ra nhưng cũng có khi trở thành dịch khi các
điều kiện làm tăng khẳ năng phát bệnh.
1.4.3. Chẩn đốn bệnh.
1.4.3.1. Chẩn đốn lâm sàng.
Chóng ta cần phải theo dõi, quan sát, xác định các mặt nh:
Tiểu sử của bệnh, trạng thái con vật, tính chất đặc biệt của tuyến vú.
- Quan sát bầu vú.
- Kiểm tra cảm giác: Sưng, sốt, đỏ, đau.
* Tiểu sử bệnh:
Để có kết luận chính xác trong chẩn đốn, tìm ra nguyên nhân , yếu tố gây
bệnh, có kết quả tốt trong cơng tác phịng trị bệnh cần tìm hiểu nắm vững các
vấn đề.
- Thời gian sinh đẻ lần cuối của vật.
- Điều tra về thức ăn, ni dưỡng, chăm sóc, quản lý, chế độ sử dụng khai
thác gia sóc trong thời gian sinh đẻ, sau khi đẻ và sau thời gian trị bệnh.
- Phương pháp kỹ thuật và điều kiện khai thác sữa, sản lượng sữa.
- Thời gian xuất hiện bệnh và triệu chứng của nó.
Tình trạng tuyến vú ở những chu kỳ cho sữa lần trước. Ngồi ra cịn phải
theo dõi quá trình và mức độ của bệnh tuyến vú từ trước tới nay tại cơ sở chăn
ni đó.
* Tình trạng chung của cơ thể:
Khi nghiên cứu các quá trình bệnh lý ở tuyến vú, cần thiết phải theo dõi
và quan sát hàng loạt các biểu hiện khác nhau của tồn cơ thể nói chung. Bởi vì
bệnh ở tuyến vú thường xuất hiện đồng thời với các quá trình bệnh khác nhau


như: Hiện tượng nhiễm độc của cơ thể, các bệnh ở gan, tim, thận... đặc biệt nhất
là các bệnh ở tuyến vú thường kế phát từ các bệnh như sát nhau, viêm nội mạc
tử cung sau khi đẻ, bại liệt sau đẻ, bại huyết hay huyết nhiễm mủ...

1.4.3.2. Chẩn đoán bệnh viêm vú phi lâm sàng bằng thuóc thử
CMT( Colifornia Mastitis Test).
Khó có thể thảo luận một cách chính xác, phù hợp với chủ đề viêm vú,
đặc biệt trong lĩnh vực xác định và kiểm sốt viêm vú mà khơng nói đến các tế
bào thân. Khi tổ chức vú bị viêm và bị thâm nhiễm và tiếp đến là quá trình viêm
ở một số mức độ nào đó là điều khơng thể tránh khỏi.
Trong q trình viêm nhiễm một số lượng lớn tế bào bạch cầu sẽ tích luỹ
trong sữa, những tế bào này là một phần quan trọng trong sinh lý cơ thể tự nhiên
của bị. Sự có mặt của tế bào bạch cầu ở vùng bị tổn thương của tuyến vú dẫn
đến kết quả cuộc chiến đấu không ngừng( giữa tế bào bạch cầu và tổ chức
viêm). Các tế bào bạch cầu cố gắng bao vây và tiêu diệt hồn tồn các vi khuẩn.
Trong khi đó các vi khuẩn chiến đấu để nhân lên và chạy chốn khỏi sự tấn cơng
của tế bào bạch cầu.
Nếu khơng có sự tấn công và bảo vệ của tế bào bạch cầu các vi khuẩn gây
viêm vú bị sữa đã có thể nhân lên và giết chết một số lượng lớn bò sữa khi bò bị
nhiễm bệnh.
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng khi bò sữa bị tác động bởi hội chứng
Stress mạnh, các tế bào bạch cầu ở vú sẽ có hiệu quả kém hơn (yếu hơn trong
việc chống lại bệnh viêm vó - nguyên nhân do các vi khuẩn- do đó phải hết sức
cố gắng đảm bảo một mơi trường khơng có Stress cho bị sữa).
Các tế bào bạch cầu trong sữa cùng với số lượng tương đối Ýt các tế bào
biểu mơ có nguồn gốc từ các tổ chức tiết sữa. Nó là thành phần mà bất kỳ chủ
trang trại ni bị sữa nào, nhà thó y, chun gia về bò sữa, vệ sinh viên, người
lao động trong trang trại đều phải biết, đó là các tế bào thân. Tỷ lệ của tế bào
biểu bì với tế bào bạch cầu sẽ thay đổi, tuỳ thuộc vào loại nhiễm trùng, nhưng
thường thì tế bào bạch cầu chiếm khoảng 98 - 99% tế bào bạch cầu đáp lại với
lượng tăng lên để đáp lại việc tổn thương hoặc nhiễm trùng.


Số lượng lượng tế bào thân trong sữa được sử dụng rộng rãi trong chăn

ni bị sữa để xác định những bị sữa có thể bị bệnh và đánh giá tỷ lệ nhiễm
viêm vú trong tồn đàn bị sữa. Sữa từ những con bị khoẻ mạnh hoặc khơng bị
nhiễm bệnh vẫn thường có số lượng tế bào thân dao động từ 50.000 - 200.000 tế
bào/1ml sữa. Khi tổng số tế bào vượt qúa 200.000 tế bào/1ml sữa thì có thể kết
luận sự nhiễm trùng tăng lên.
Thuốc thử nghiệm CMT có khă năng kết dính các tế bào trong sữa tạo các
đám ngưng kết có độ chính xác khác nhau. Lượng tế bào này càng nhiều các tế
bào này càng chặt và đặc. Tuỳ thuộc vào độ kết dính của hỗn hợp mà đánh giá
mức độ viêm nhẹ hay nặng, chính vì vậy người ta dùng thuốc thử CMT để xác
định những bị sữa có thể bị bệnh và đánh giá tỷ lệ nhiễm viêm vú trong tồn
đàn.
1.4.3.3. Chẩn đốn bệnh viêm vú phi lâm sàng bằng phương pháp đo tính
dẫn điện của sữa (EC).
Cũng như phương pháp CMT dùng để xác định bệnh viêm vú phi lâm
sàng của bò sữa, phương pháp đo tính dẫn điện của sữa cũng được sử dụng với
mục đích này nhưng Ýt được phổ biến hơn vì chi phí cho việc mua máy rất tốn
kém. Thực chất phương pháp đo tính dẫn điện của sữa cũng dùa theo lượng thay
đổi tế bào thân trong sữa đó là sự tổng hợp các biến đổi trên ion âm (anion) và
ion dương (cation) trong sữa gây ra bởi sự lây nhiễm vi khuẩn trên các tuyÕn
(về nguyên tắc là sự gia tăng của Na và Cl và sự giảm tỷ lệ của K ) được
phản ánh trong sù thay đổi giá trị EC. Giá trị độ dẫn điện tuyệt đối xác định cho
sữa từ toàn bộ 4 vú có thể so sánh với một giá trị ngưỡng rót ra từ kinh nghiệm
lấy mẫu bao quát, có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới EC từ lần vắt sữa này đến lần
vắt sữa khác, nhưng chỉ có những viêm nhiễm bên trong bầu vú là dễ ảnh hưởng
tới EC của từng bầu vú riêng biệt. Vì vậy, việc so sánh giá trị EC trên sữa của
toàn bộ các vú bằng việc lấy mẫu sữa đơn lẻ là rất Ých lợi. Giá trị dẫn điện tuyệt
đối vượt quá 6,2mS/cm là cơ sở phán đốn bệnh viêm vú. Ngồi ra độ dẫn điện
chênh lệch- lấy giá trị EC thấp nhất trong 4 vú làm điều 0, tính chênh lệch giá trị
EC của các núm vú còn lại so với giá trị thấp nhất đó, nếu vượt quá 0,5mS/cm



thì vú đó cũng được chẩn đốn là bị viêm. Điều bất lợi của phương pháp này là
việc cần phải giả thiết có một núm vú bình thường để tham chiếu.
Các thiết bị sách tay đo EC bằng phương pháp kiểm tra giống nh CMT có
thể được sử dụng trong kiểm tra tại chỗ. Ảnh hưởng của các giai đoạn cho sữa
và các yếu tố tương tự đến EC đã được nghiên cứu. Sự sinh đẻ, phát dục, thay
đổi chế độ ăn và các bệnh cấp tính ngồi bệnh viêm vú được ghi nhận là không
ảnh hưởng tới EC. EC của sữa tăng lên trong quá trình bị viêm vú do các sự gia
tăng của Na và Cl ( NaCl = muối) và sự giảm xuống của K và Lactose. Thay
đổi trong độ dẫn điện có thể được phát hiện bằng các dụng cụ cầm tay.
Vì vậy tính dẫn điện là độ thấm từ đo gián tiếp của thành các tế bào và
tính dẫn điện phải là một chỉ số cho tính cấp tính của sự viêm nhiễm. Vì vậy, EC
phát hiện sớm giai đoạn viêm nhiễm của bệnh viêm vú. Mặt khác, SCC là sự
phản ứng với các vi sinh vật xâm lấn và có thể nhân ra tuỳ theo số lượng kháng
nguyên và khă năng đối phó bệnh tật của bò.
1.4.3.4 Phân lập vi khuẩn gây bệnh
Chuẩn qua nuôi cấy phân lập vi khuẩn gây bệnh ,phương pháp này cho
phép xác định chính xác vi khuẩn gây bệnh viêm vú thuộc loại nào .Qua đó có
được biện pháp điều trị thích hợp .
1.4.4 . Ảnh hưởng qua lại của một số kháng sinh lên vi khuẩn .
* Tác động của một số kháng sinh lên vi khuẩn .
Kháng sinh là những chất được chiết ra từ môi trường ni cấy của một số
lồi vi sinh vật bằng con đường tổng hợp có khả năng ức chế hoặc tiêu diệt vi
khuẩn. Chúng tác động lên tế bào vi khuẩn theo các cơ chế sau :
- Tác động lên vỏ vi khuẩn : Điển hình là Penicillin , Cephalospoxin,
Cycloserin, Vanomycin, Bacitracin... chủ yếu kháng sinh này tác động lên quá
trình tổng hợp Murein, một chất rất quan trọng cấu thành lên màng tế bào vi
khuẩn Gram(+) do ức chế Transpeptidase.

N.acetyl nuramine


Transpeptidase

Murein


- Làm rối loạn tính thấm màng : Mét số kháng sinh khi tác động , lên
màng thì làm thay đổi cấu trúc của chúng qua đó làm thay đổi tính thấm , gây rối
loạn trao đổi chất qua màng . Đại diện là palymycine , Gramicidine .
- Làm rối loạn tổng hợp prôtêin : Mét số loại kháng sinh tác động vào q
trình tổng hợp prơtêin của tế bào gây rối loạn trong quá trình sinh tổng hợp .
Streptomycine : ức chế tiểu phần 30S của riboxom.
Macrolit : ức chế tiểu phần 50S của riboxom.
Tetranycine, Gentamycine ức chế quá trình gắn các acid amin với nhau.
Actinomycine gắn vào AND làm thay đổi cấu trúc của vi khuẩn .
* Khả năng kháng thuốc của vi khuẩn .
Vi khuẩn còng nh các sinh vật khác có khả năng thích nghi với điều kiện
sống. Chính vì thế việc sử dụng kháng sinh kéo dài và không đúng cách đã tạo
điều kiện cho các vi khuẩn có khả năng thích nghi với các kháng sinh này và trở
nên không mẫn cảm nữa. Khả năng này có thể thay đổi trong bộ máy di truyền
(đột biến) tạo cho vi khuẩn có khả năng sản sinh một số chất chống lại kháng
sinh. Tuy nhiên này khơng phải là chủ yếu vì các đột biến gen xuất hiện với tần
số rất thấp (1/10 ). Mét số loại vi khuẩn có khả năng kháng lại với loại kháng
sinh mà nó chưa hề tiếp xúc hoặc có thể không mẫn cảm với nhiều loại kháng
sinh mà trên lý thuyết là có tác dụng. Điều này đã được giải thích bởi sự phát
hiện ra một số yếu tố di truyền ngồi nhân có liên quan có liên quan chặt chẽ
đến khả năng kháng sinh của vi khuẩn, đoa là R - factoc hay plasmid. Đó là
những sợi AND nằm trong nguyên sinh chất tế bào, hoàn toàn độc lập với nhau
về mặt di truyền. Các plasmid này không dễ dàng được trao đổi giữa các vi
khuẩn trình qua tiếp hợp và đây chính là cơ chế quan trọng nhÊt làm lây lan tính

kháng thuốc. Ngày nay , hiện tượng kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn là
phổ biến . Do đó muốn điều trị tốt một bệnh nhiễm trùng nên thử mẫu cảm vi
khuẩn với các kháng sinh nếu có điều kiện .
1.4.5. Cơ sở của biện pháp phòng bệnh đặc hiệu !
Việc sử dụng các chủng thuốc vi khuẩn phân lập được từ vú bò để chế tạo
một loại vacxin đa giá phòng bệnh viêm vú đã được đề cập đến. Tuy nhiên gặp


một hạn chế, đó là liều tiêm lớn thời gian duy trì hàm lượng kháng thể đủ bảo hộ
thấp. Poutrel (1982) cũng chỉ ra rằng muốn sản xuất vacxin phòng bệnh viêm vú
có hiệu quả tốt cần vượt qua 2 vấn đề :
- Thứ nhất là tính đa dạng về loại chủng vi khuẩn, các yếu tố độc và kháng
nguyên của vi khuẩn trong bệnh viêm vú bò .
- Thứ hai là những khó khăn trong việc đạt được một hàm lượng kháng
thể cao trong một thời gian dài .
1.4. 6 Điều trị :
Thường là sử dụng kháng sinh do kháng sinh có khả năng làm dối loạn
tính thấm của màng, có khả năng tác động lên vỏ vi khuẩn và làm rối loạn
protein. Chóng ta có thể dùng kháng sinh để điều trị bệnh viêm vú bằng cách
tiêm bắp, qua ống dẫn sữa hoặc tiêm nội động mạch sau .
-Ở Thuỵ Điển thường dùng Benzyl pecillin procain liều lượng
20.000UI/kgP tiêm bắp cho bò bị viêm vú hoặc kết hợp với Đihdro
Streptomycine Sulfate với liều 11mg/ kg p.
- James. S.cullos (1993) : Điều trị viêm vú do E.cali phải điều trị từ sớm
vắt sữa 2 giê một lần để loại độc tố và chất trung gian gây viêm nhiễm . Nếu bị
có biểu hiện lâm sàng bột phát thì dùng Corticosteroid tiêm truyền qua tĩnh
mạch . Trường nặg mà có acid trong máu dùng natribicacbonat và pha tính tốn
định lượng ion trong máu trước .
- Còng theo James S.Cullos(1993) sử dụng bằng kháng sinh Kanamycin,
Meomycin, Gentamycin , Novobiocin với liều cao hơn vào tuyến vú có thể điều

trị Mycoplasma nhưng nói chung điều trị kết quả khơng cao .Tốt bị bị viêm vú
do Mycoplasma thì loại thải .
- Sù kết hợp giữa Penicillin và Novobiocin trong các trường hợp viêm vú
bị với tỷ lệ 1: 2 sẽ có tác dụng hơn là điều trị riêng lẻ từng loại . Sù kết hợp này
có tác dụng tốt với Staphylococcus (Thorusberry - C và cộng sự 1997).
- Shepigel và cộng sự (1997) đã đưa ra hiệu quả điều trị của Cefquinome
trong viêm vú bò bởi E. cali đã hồi phục nhanh hơn các triệu chứng lâm sàng và
trở lại sản xuất sữa và điều trị bằng Ampicilin và Chloxacilin .


- Dudrikova và cộng sự (1996) đã đưa ra liệu trình điều trị tự có kết quả
với viêm vú bị sữa là bằng Oxytetracycline với liều 0,02 - 0,03 mg/ kg p.
- Renaral (1996) đã đưa ra hai loại chế phẩm mới của Spiramycin trong
điều kiện viêm vú bị có Staphylococcus có hiệu quả là Pharmacokinetic và
phamacodynamic với liều 20.000 UI /kg p cho mỗi ngày và liên trình 3 ngày.
1.5 Quy trình vắt sữa tốt là biện pháp phịng bệnh viêm vú có hiệu
quả nhất
Để hạn chế bệnh viêm vú bò sữa tránh thiệt hại kinh tế cho người chăn
ni thì chúng ta quan tâm đầu tiên là phải có phương thức vắt sữa vệ sinh ,
phương thức này được thể hiện qua các bước sau :
1.5.1. Cung cấp cho bị sữa một mơi trường sống sạch sẽ và khơng có các
yếu tố Stress.
Mơi trường sống của bị sữa phải sạch và khô , thời gian vắt sữa phải cố
định và bị khơng bị sợ hãi hoặc hưng phấn khi vắt sữa , bởi vì stress sẽ dẫn đến
kết quả là các hocmon được tiết vào máu gây cản trở đến q trình tiết sữa bình
thường và có thể làm giảm sức đề kháng tự nhiên của bò , do đó làm tăng nguy
cơ mắc bệnh viêm vú của bị .
Làm vệ sinh bằng cách cắt bỏ các lơng dài và loại bớt chất bẩn ở phân và
nền truồng bám vào da và lông , được làm nh vậy thì bầu vú sẽ dễ dàng sạch và
khơ hơn .

1.5.2. Kiểm tra sữa đầu bằng cốc thử nếu đen phát hiện bệnh viêm vó .
Có thể kiểm tra bệnh viêm vú bệnh lý bằng cách sê nắn hoặc kiểm tra sữa
đầu bằng các cốc hoặc các đĩa kiểm tra ở mỗi lần vắt sữa . Bằng phương pháp
này sẽ phát hiện được vú lang cứng và sưng , đồng thời ta cũng phát hiện được
sữa bị vón cục tạo tủa hay loãng. Cốc hay đĩa vắt sữa phải được làm sạch sau
mỗi lần vắt sữa để ngăn chặn sự lây lan của các vi khuẩn gây viêm vó . Khơng
bao giê được kiểm tra sữa trực tiếp bằng tay vì nó có thể lây nhiễm bệnh từ núm
vú này lây sang núm vú khác hoặc từ bò này sang bò khác , qua tay người khác .


×