Dương Mạnh Thạch
Dương Mạc Thạch, người chính trị viên của Đội Việt Nam tun truyền giải
phóng qn
Đồng chí Dương Mạc Thạch, sinh năm 1915, quê ở xã Gia Bằng (nay là
xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) là người Đảng viên, Bí thư
Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của huyện Ngun Bình và là người chính trị
viên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (VNTTGPQ).
Đồng chí Dương Mạc Thạch vốn là người sáng dạ, thơng minh, nhanh
nhẹn, có hồi bão và chí hướng, năm 1934 đồng chí tham gia cách mạng và
được kết nạp vào Đảng. Đồng chí là người cán bộ nhiệt tình với phong trào ở
Nguyên Bình, vận động nhiều người theo cách mạng và cũng là một trong
những hạt nhân lãnh đạo, là Bí thư Chi bộ đầu tiên của huyện Nguyên Bình.
Năm 1940, đồng chí Dương Mạc Thạch là Ủy viên Ban chấp hành lâm thời tỉnh
Cao Bằng, vốn là người am hiểu địa bàn, nắm chắc phong trào cách mạng và là
người có uy tín ở địa phương, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc, do vậy sau Hội
nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941) đến trước cách mạng tháng Tám năm
1945, đồng chí Dương Mạc Thạch được tổ chức phân cơng bám trụ hoạt động ở
Ngun Bình và vùng giáp ranh với Bắc Kạn. Tại những vùng này, đồng chí đã
tích cực xây dựng và phát triển cơ sở, vận động đồng bào Tày, Nùng, Mông,
Dao vào Hội cứu quốc, tổ chức Mặt trận Việt Minh ở các xã, tổng. Tháng
12/1942, các ban Việt Minh tổng đã họp tại Lũng Dẻ (châu Nguyên Bình) bầu ra
Ban Việt Minh châu do đồng chí Dương Mạc Thạch làm chủ nhiệm. Đồng thời,
đồng chí cịn được Tỉnh uỷ phân cơng trực tiếp cùng với đồng chí Võ Nguyên
Giáp “Nam tiến” xuống vùng Bắc Kạn để phát triển phong trào, tổ chức các đội
tự vệ. Nhờ vậy, sau một thời gian các Chi bộ Đảng ở Ngân Sơn, Chợ Rã lần lượt
được thành lập. Thời kỳ này, đồng chí Dương Mạc Thạch là Tỉnh uỷ viên Cao Bắc - Lạng và là người cán bộ chủ chốt chỉ đạo xây dựng và phát triển phong
trào khu vực này, vì vậy đồng chí là một đối tượng ln bị địch săn lùng, truy
bắt. Tháng 02/1944, trên đường xuống núi Phja Boóc gặp địch khủng bố gắt
gao, đồng chí đã phải ở lại hoạt động ở các xã phía Bắc huyện Ngân Sơn và
cũng tại đây, đồng chí đã 2 lần bị địch phục kích nhưng may mắn thốt
được.
Ngày 22/12/1944, tại buổi lễ thành lập Đội VNTTGPQ, đồng chí Dương
Mạc Thạch được cử làm chính trị viên của đội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
đồng chí Võ Nguyên Giáp, đã cùng với đội trưởng Hoàng Sâm chỉ huy Đội
VNTTGPQ làm nên chiến thắng ngay từ trận đầu. Buổi đầu, đội VNTTGPQ gặp
rất nhiều khó khăn về tài chính (chỉ được cấp 50 đồng bạc Đơng Dương), đồng
chí đã vận động một số người quyên góp ủng hộ và bàn bạc, vận động gia đình
Mìn hủng hộ Đội 500 đồng.
Sau khi đánh đồn Đồng Mu trở về, đầu năm 1945 khi Đội VNTTGPQ đã
phát triển thành nhiều đại đội, đồng chí Dương Mạc Thạch được giao nhiệm vụ
trực tiếp chỉ huy một đại đội hoạt động dọc đường 3b, vừa vũ trang tuyên ruyền,
vừa chặn đánh quân Nhật ở Nà Phặc, Hà Hiệu, Đèo Giàng… Trong cách mạng
tháng Tám năm 1945, đã cùng đơn vị tham gia giải phóng Thị xã Bắc Kạn, đến
năm 1948 có thời kỳ làm Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến
Bắc Kạn,… Giữa năm 1948, đồng chí được điều về Bộ Tư lệnh làm đặc phái
viên các tỉnh miền núi, đầu năm 1949 được bổ nhiệm làm Trưởng phòng quốc
Dân Miền núi của Liên khu I.
Từ năm 1950, đồng chí Dương Mạc Thạch được cử đi học trường Chính
trị Hà Nam (Trung Quốc), cuối năm 1951 về nước được bổ sung vào Tỉnh uỷ
tỉnh Yên Bái sau đó được Trung ương điều lên Hà Giang. Gần 20 năm, đồng chí
đã trải qua các chức vụ: Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh, Phó Bí
thư Tỉnh uỷ tỉnh Hà Giang. Tên tuổi của đồng chí đã gắn bó với quê hương nơi
đây, đã góp phần xây dựng và phát triển đối với tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn
này. Đầu năm 1970 đồng chí Dương Mạc Thạch được điều về làm Bí thư Đảng
uỷ Trường Đại học Nơng nghiệp 3 Bắc Thái, cho đến tháng 8/1978 được nghỉ
hưu, trở về sống tại quê hương Cao Bằng và mất một năm sau đó.
Sau hơn 40 năm tham gia hoạt động cách mạng, đồng chí Dương Mạc
Thạch được giao trọng trách trên nhiều cương vị, nhiều vùng quê khác nhau.
Trong buổi đầu cách mạng cịn nhiều khó khăn, song đồng chí ln tỏ rõ bản
lĩnh vững vàng, sự quyết đốn của người chỉ huy quân đội, của người lãnh đạo,
xứng đáng là một trong những người con ưu tú trên quê hương cách mạng Cao
Bằng. Với những công lao to lớn đó, đồng chí Dương Mạc Thạch đã được Đảng
và Nhà nước tặng thưởng huân chương Hồ Chí Minh, huân chương kháng Pháp
hạng nhất và nhiều huân chương khác. Để gìn giữ và phát huy những truyền
thống tốt đẹp mà cha ông để lại, mọi cán bộ, Đảng viên và nhân dân các dân tộc
tỉnh Cao Bằng luôn không ngừng nỗ lực, phấn đấu xây dựng quê hương Cao
Bằng ngày càng giàu đẹp xứng đáng là nơi thành lập Đội VNTTGPQ, là cái nôi
của cách mạng Việt Nam.
An Dương Vương
"Chế t thì bỏ con bỏ cháu
Số ng thì không bỏ mồ ng Sáu tháng Giêng"
Câu ca với những lời lẽ quả quyế t nhưng la ̣i rấ t mô ̣c ma ̣c, hồ n nhiên ấ y là
nói về tình cảm thiế t tha với ngày Hô ̣i làng của dân xã Cổ Loa và 7 xã xung
quanh, thuô ̣c huyê ̣n Đông Anh, ngoa ̣i ô Hà nô ̣i. Tâm điể m của lễ hô ̣i là tòa
Thành ố c (Cổ Loa) và tâm linh của lễ hô ̣i hướng về An Vương Vương. Đó là
những di tích và nhân vâ ̣t gắ n liề n với mô ̣t thời đoa ̣n lich sử vẫn còn chấ t đầ y
̣
huyề n thoa ̣i tiế p nố i thời đa ̣i các vua Hùng cũng vầ n vũ những đám mây ngũ sắ c
của những huyề n thoa ̣i.
Nế u thời đa ̣i các vua Hùng còn đinh vi ̣ được bởi điạ danh Phong Châu mà
̣
các thế hê ̣ sau tôn phong là Đấ t Tổ và xây dựng ngôi Đề n thờ Tổ thì tên tuổ i của
An Dương Vương còn la ̣i mô ̣t chứng tích vâ ̣t chấ t đầ y sức thuyế t phu ̣c, cũng là
chứng tích vâ ̣t chấ t về mô ̣t cái mố c đầ u tiên ghi nhâ ̣n Hà Nô ̣i hôm nay bao gồ m
cả vùng đấ t từng là kinh đô trước khi Lý Công Uẩ n đinh đô ở Thăng Long hơn
̣
mô ̣t thiên niên kỷ.
Về An Dương Vương, "Từ điể n bách khoa Viê ̣t Nam" viế t mô ̣t cách ngắ n
go ̣n: "tên thâ ̣t là Thu ̣c Phán, người sáng lâ ̣p và là vua nước Âu La ̣c. Có giả thiế t
cho là thủ linh người Tây Âu ở vùng núi phía Bắ c đã từng xung đô ̣t với vua
̃
Hùng và cũng là người chố ng Tầ n thắ ng lơ ̣i (214 - 208 trước CN), nố i ngôi vua
Hùng, hơ ̣p nhấ t Tây Âu và La ̣c Viê ̣t thành nước Âu La ̣c, đóng đô ở Cổ Loa. Tu ̣c
truyề n An Dương Vương đươ ̣c rùa thầ n giúp đỡ cho móng làm lẫy nỏ rấ t hiê ̣u
nghiê ̣m, nên đã đánh ba ̣i nhiề u lầ n xâm lươ ̣c của Triê ̣u Đà. Sau đó Triê ̣u Đà
dùng mưu (cho con trai là Tro ̣ng Thủy sang cầ u hôn với con gái An Dương
Vương là My ̣ Châu) lấ y cắ p lẫy nỏ thầ n rồ i mới đem quân sang đánh (179 trước
CN) An Dương Vương thua cha ̣y đế n Nghê ̣ An, nhảy xuố ng biể n tự tử"
Lời giảng nghia ngắ n ngủi ấ y cố gắ ng khẳ ng đinh mô ̣t nhân vâ ̣t có thâ ̣t và
̣
̃
mô ̣t thời đa ̣i có thâ ̣t trong lich sử dân tô ̣c ta là cái ga ̣ch nố i giữa thời đa ̣i các vua
̣
Hùng với những thời đa ̣i sau đó trong dòng ma ̣ch liên tu ̣c của mô ̣t quố c gia tự
chủ và đã ta ̣o dựng đươ ̣c mô ̣t nề n văn minh có bản sắ c riêng biê ̣t bên ca ̣nh mô ̣t
nề n văn minh lớn cũng là mô ̣t mố i thử thách thường trực và khủng khiế p từ
phương Bắ c tràn xuố ng. Nhưng trong lời giảng nghia ấ y vẫn phải nhắ c đế n
̃
những từ "giả thiế t", "tu ̣c truyề n"...
Bởi le, từ nhiề u thế kỷ trước trong các cuố n sách như "Viê ̣n điê ̣n u linh";
̃
"Linh Nam chích quái", "đa ̣i Viê ̣t sử ký toàn thư" hay các tác phẩ m của Nguyễn
̃
Trai (Dư điạ chí). Phan Huy Chú (lich triề u hiế n chương loa ̣i chí) đề u nhắ c tới
̣
̃
An Dương Vương ho ̣ Thu ̣c tên Phán là con của vua Thu ̣c (đấ t Tứ Xuyên - Trung
Quố c ngày nay) vì xung khắ c của tổ phu ̣ với Hùng Vương của nước Văn Lang
mà mang quân đánh chiế m, lâ ̣p nước Âu La ̣c, xưng vương và xây thành Cổ Loa.
Nhưng rồ i cuố i thế kỷ XIX, mô ̣t số sử thầ n la ̣i cho rằ ng Âu La ̣c và người đứng
đầ u Thu ̣c Vương không dính dáng gì đế n nước Ba Thu ̣c mà chỉ là mô ̣t thế lực ở
lân câ ̣n "gắ n liề n với nước Văn Lang". Sang đầ u thế kỷ XX, có ho ̣c giả còn cực
đoan hơn khi cho rằ ng" nước Nam không có An Dương Vương nhà thu ̣c"
(Nguyễn Văn Tố " còn mô ̣t số sử gia người Pháp la ̣i khẳ ng đinh "Trước nhà hán
̣
không có lich sử An Nam"...
̣
Nhưng trong tâm thức của nhiề u người Viê ̣t Nam nhấ t là của dân "bát xã
hô ̣ nhi" (tám làng thờ cúng và tham gia tế lễ trong ngày hô ̣i ở Chùa Thươ ̣ng) thì
An Dương Vương chính là Vua Chủ ăn sâu vào
An Tiêm
Nhân vật truyền thuyết thời Hùng Vương dựng nước. Theo giã sử và truyền
miệng, ông họ Mai, tên An Tiêm được vua Hùng Vương thứ XVII yêu mến và
gả con gái cho, vợ chồng sống trong an vui. Ông thường tâm sự với vợ: “Giàu
sang này đều là do tiền kiếp”.
Câu nói trên lọt vào tai bọn nịnh thần, chúng tâu lên khiến vua Hùng Vương
giận, đày ơng và gia đình ra ngồi hải đảo sống với nghề trồng dưa, mà dưa rất
ngon. Cuộc sống rất chật vật, nhưng khơng vì vậy mà ông than oán bất cứ ai kể
cả nhà vua. Một thời gian sau, dưa ông được đem về đất liền. Có người đem
dâng lên nhà vua, nhà vua ăn thử dưa do An Tiêm trồng và tiến cống, thấy quả
thật như lời truyền trong dân gian. Từ đó vua Hùng Vương ân xá cho vợ chồng,
con cái An Tiêm; cho gia đình ơng trở về đất liền và phục chức cũ.
Cuộc đời ông và sự nghiệp trồng dưa của An Tiêm được nhà Văn Nguyễn
Trọng Thuật hư cấu nên tiểu thuyết Quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc có tên Quả
dưa đỏ. Tác phẩm được giải văn học của Hội khai trí tiến đức năm 1925 ở Hà
Nội. (Xem thêm Sự tích quả dưa hấu)
Âu Cơ
Âu Cơ. Tị tổ nịi giống Lạc Việt, vợ Lạc Long Quân. Truyền thuyết kể rằng:
Bà sinh một bọc trứng, nở được trăm người con. Các con khôn lớn bà đem 50
người lên núi, 50 người theo cha định cư ở vùng đồng bằng…
Người con cả về sau nối truyền trị nước, xưng hiệu Hùng Vương, lấy tên
nước là Văn Lang. Thế cho nên trong văn chương truyền khẩu có câu nam nữ
đối ca đầy tính sử thi:
Gần nhà xa ngõ khó hỏi thăm/
Con chim chi đẻ trứng ấp ngàn năm rứa bạn tề?
Nở ra nam nữ bộn bề,
Nửa theo quê mẹ nửa về quê cha.
Thiếp hỏi chàng, chàng phải nói ra, /
Em về làm vợ luận là cưới cheo.”
Bạch Thái Bưởi
Bạch Thái Bưởi (Giáp tuất 1874 – Nhâm thân 1932)
Ở nước ta, lịch sử đã ghi lại sự phát triển rất sớm của các ngành nghề thủ
cơng nghiệp, tuy nhiên đó chỉ là những ngành nghề thủ công quy mô nhỏ mà
người quản lý thường là chủ gia đình. Đến thời kỳ Pháp thuộc, cơng nghiệp đã
có bước phát triển. Tuy phần lớn DN nằm trong tay chủ tư bản Pháp, nhưng
cũng đã xuất hiện những doanh nhân người Việt thành đạt, có ý thức dân tộc,
tiêu biểu là Bạch Thái Bưởi. Trong hàng “tứ đại gia” giàu có nhất nước vào
những năm đầu của thế kỷ XX (Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Bưởi),
Bạch Thái Bưởi (1874-1932) được coi là một doanh nhân kiệt xuất của đất Việt.
“Ông vua đường thủy” này - như người ta xưng tụng - đã khởi nghiệp từ hai bàn
taytrắng.
Bạch Thái Bưởi sinh năm 1874, trong một gia đình nơng dân nghèo, họ
Đỗ tại làng An Phúc, tỉnh Hà Đông. Cha ông mất sớm, nên ông phải giúp mẹ
sinh sống bằng nghề bán hàng rong. Lúc ấy có một nhà phú hào họ Bạch thấy
ơng thông minh, lanh lợi, nên nhận làm con nuôi và đổi lại họ Bạch. Nhờ đó,
ơng có cơ hội ăn học. Bạch Thái Bưởi được đi học chữ quốc ngữ, chữ Pháp. Rồi
ông xin làm chân ký lục (nhân viên thư ký) cho một hãng buôn người Pháp ở
phố Tràng Tiền (Hà Nội), sau đó sang làm với một hãng thầu cơng chánh. Chính
ở những nơi này, cậu ký Bưởi đã học được cách tổ chức, quản lý sản xuất và tiếp
xúc với thiết bị, máy móc.
Vào làm công cho người Pháp, với vốn liếng tiếng Pháp khá thông thạo nên
năm 21 tuổi, Bạch Thái Bưởi được Phủ Thống sứ Bắc kỳ chọn làm người giới
thiệu sản phẩm gian hàng tại hội chợ Bordeaux (Pháp) năm 1895. Qua chuyến đi
này, ông được mở rộng tầm mắt, hiểu biết về kỹ thuật văn minh phương Tây
cũng như nghệ thuật kinh doanh làm giàu. Là một thanh niên không chịu an
phận, đây là cơ hội ngàn vàng tạo niềm phấn kích, khiến ơng quyết tâm đi vào
con đường kinh doanh. Vì vậy khi về nước, ơng liền xin thôi việc và bắt
tay xây dựng cơ nghiệp riêng.
Nhà quản lý chợ tiền bối
Khi người Pháp xúc tiến việc mở đường sắt nối liền Bắc-Nam, nhận thấy
nhu cầu tà-vẹt gỗ rất lớn, Bạch Thái Bưởi dốc hết vốn liếng dành dụm bấy lâu
hùn với một người Pháp vào việc lãnh thầu cung cấp tà-vẹt cho cơng trình này.
Suốt 3 năm rịng, ơng lùng khắp rừng sâu, lũng thấp tìm cho được gỗ thật bền,
thật tốt để đáp ứng yêu cầu, gây uy tín với người Pháp. Sau vụ làm ăn này, ơng
được số tiền lời trên mấy vạn.
Sau đó, ơng xin phép mở dịch vụ cầm đồ ở Nam Định. Xưa nay, cầm đồ là
lĩnh vực mà người Tàu độc quyền thao túng. Để cạnh tranh với họ, ông phải
đem tất cả tài tổ chức, kinh nghiệm ra đối phó. Nhân viên tồn người Việt, lại ăn
nói, cư xử nhã nhặn, tiền chịu lời phải chăng, cho nên dù bị nhà cầm quyền làm
khó dễ đủ điều, thương khách người Hoa chờ ông vỡ nợ…, nhưng khách hàng
của ông vẫn ngày một đông.
Thừa thắng, ông lãnh thêm việc thầu thuế chợ ở Vinh (1906-1913), ở Nam
Định (1906-1909), ở Thanh Hóa (1907-1909). Ngành in ấn vốn là nghề hoàn
toàn mới lạ đối với ơng, nhưng khi thấy xã hội có nhu cầu, ông vẫn bỏ tiền ra
mở “Công ty in và Xuất bản Bạch Thái Bưởi” (sau là Đông Kinh ấn quán), xuất
bản tờ “Khai hóa nhật báo” nhằm cổ động phong tro thc nghip nc ta.
Vua sông nơc Bạch Th¸i Bëi
Năm l909, với vốn liếng, kinh nghiệm làm ăn trong những năm qua, Bạch
Thái Bưởi quyết tâm lao vào một lĩnh vực kinh doanh mới: vận tải đường sơng.
Chính từ đây, ông vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp kinh doanh, trở thành “Vua
sông biển Đông Dương” và là một trong “tứ đại gia” lừng lẫy thời đó.
Đầu tiên, Bạch Thái Bưởi thuê lại ba chiếc tàu Phi Phụng, Phi Long, Khoái Tử
Long của một người Pháp là R.Marty vừa hết hạn hợp đồng với nhà nước. Ba
chiếc tàu của ông chạy hai tuyến Nam Định-Hà Nội và Nam Định-Bến Thủy.
Vào nghề sông nước, ông phải đương đầu với các đối thủ người Pháp, Hoa
có thế lực mạnh, lại giàu kinh nghiệm hơn nhiều lần. Đặc biệt là việc ông cạnh
tranh quyết liệt với người Hoa. Giới Hoa thương lúc đầu rất ngạc nhiên khi thấy
một người Việt dám lao vào vùng “cấm địa” của họ. Về sau, họ mới lo sợ, kết
hợp với nhau để loại trừ ông. Cuộc tranh đua rất căng thẳng: ông hạ một giá, họ
hạ hai giá; ông đãi khách uống trà, họ thết khách thêm bánh ngọt. Giá tàu từ
Nam Định lên Hà Nội: trước là 40 xu, nay còn 5 xu… So với các thương gia
người Hoa, tình thế của ơng thật nguy ngập, mướn ba chiếc tàu, mỗi tháng trả
2.000 đồng, mà mỗi chuyến chỉ thu được 20 đồng.
Chính lúc cực kỳ nguy ngập đó, Bạch Thái Bưởi đã sử dụng thế mạnh tinh
thần: "Vật chất khó đương đầu thì dùng địn tâm lý". Ông vận động, kêu gọi mọi
người ủng hộ công cuộc kinh doanh của người Việt, “ta về ta tắm ao ta”. Ơng
tung ra những đồn diễn thuyết trên các bến tàu, nêu rõ những thiệt thòi của
người Việt, cổ vũ tinh thần đồng bang. Bạch Thái Bưởi còn treo một cái ống
trên tàu, để ai thấy việc làm của ông là đáng khuyến khích, bỏ tiền vào, giúp cho
chủ tàu đỡ phần lỗ lã, đủ sức cạnh tranh. Kết quả hnh khỏch u b tu Hoa m
đitàuviệt
Cui cựng nh vy ông đã thắng. Đội tàu của ông không những vượt qua
sóng gió mà cịn lớn mạnh, được bổ sung bằng những đội tàu của công ty Pháp,
Hoa bị phá sản như: Marty d’Abbadie, Desch Wanden… Năm 1915, ơng cịn
mua lại xưởng đóng và sửa chữa tàu của R.Marty.
Sau bảy năm kinh doanh trên sông nước, Bạch Thái Bưởi đã tạo dựng một
cơ ngơi khép kín từ chạy tàu đến đóng tàu, sửa chữa tàu và các chi nhánh ở
nhiều nơi. Năm 1916, ông chuyển trụ sở từ Nam Định vào Hải Phòng và đặt tên
cho hãng là “Giang hải luân thuyền Bạch Thái Công ty”, với lá cờ hiệu màu
vàng có hình mỏ neo và ba sao đỏ.
Năm 1917, Hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, Bạch Thái Bưởi mua
lại sáu chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7/9/1919, công ty của Bạch Thái Bưởi
đã làm rạng danh ngành hàng hải Việt Nam khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải
Phịng) chiếc tàu Bình Chuẩn hồn tồn do người Việt thiết kế, thi cơng. Con tàu
Bình Chuẩn dài 42m, rộng 7,2m, cao 3,6m, trọng tải 600 tấn, động cơ compound
450 mã lực, chạy bằng hơi nước có dung tích tám mét khối, vận tốc đạt 8 hải
lý/giờ. Tàu Bình Chuẩn chạy chuyến đầu tiên từ Hải Phòng cập bến Sài Gịn
ngày 17/9/1920, trong sự đón chào nồng nhiệt của giới cơng thương Sài Gịn lúc
đó.
Cơng ty của Bạch Thái Bưởi bắt đầu mở rộng tầm hoạt động khắp Đông
Dương và các nước lân cận như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật, Singapore…
Nhưng đỉnh cao phát triển của công ty là khoảng cuối thập niên 1920 đầu 1930,
khi ấy cơng ty có trên 40 con tàu, với số lượng nhân viên lên tới 2.500 người
làm việc trên các đội tàu, xưởng đóng tàu. Văn phịng và chi nhánh của cơng ty
có ở các thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định, Tuyên Quang, Việt Trì, Bến
Thủy, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Sài Gịn…
"Vua mỏ nước Việt"
Dường như với Bạch Thái Bưởi : “Chiến thắng không hiểm nguy thì chiến
thắng khơng vẻ vang”. Cho nên khi đã thắng kẻ có tiền bạc, ơng lại muốn ăn
thua với kẻ có nhiều quyền thế. Các mỏ than lúc bấy giờ đều nằm trọn trong tay
người Pháp, vậy mà ông vẫn liều mạng xông vào trận địa này. Năm 1928, Bạch
Thái Bưởi đem hết tài sản, dốc vào việc khai mỏ. Nhờ tài khéo léo và mưu mẹo,
ông được cấp phép khai mỏ than ở vùng Quảng Yên. Ông nhận thức rằng: muốn
hơn người Pháp trong việc khai mỏ cần phải có người điều hành giỏi chun
mơn, thấu đáo kỹ thuật. Cho nên ơng nhờ người thân tín ở Pháp, tuyển dụng ở
các trường kỹ thuật những người có tài năng về Việt Nam làm việc. Hoạt động
như vậy, không bao lâu, than của ông chất thành núi (đến năm 1945 mới bán
hết), ông trở thành “Vua mỏ nước Việt”.
Với đầu óc thực tế, tầm mắt nhìn xa, ơng cịn dự định tạo dựng nhiều cơng
trình như: xây một nhà máy xay gạo ở Nam Định với những thiết bị tân tiến mua
tận Hambourg (Đức), chương trình đặt ống cống, xây nhà máy nước, dựng nhà
máy điện cho thành phố Nam Định và cả việc đặt đường sắt Nam Định – Hải
Phịng, nhưng tiếc là vì hồn cảnh, vì chiến tranh, nên ơng khơng thực hiện
được.
"Có Bưởi thì khơng có Robin"
Mặc dù tiếp xúc thường xuyên với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến
của người phương Tây, nhưng chưa bao giờ Bạch Thái Bưởi đánh mất “cội
nguồn dân tộc” của mình. Chẳng hạn, khi đặt tên các con tàu, ông đều lấy từ
nguồn lịch sử của dân tộc như: Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Đinh Tiên
Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi… Có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người
dân bị trị, trong Hội nghị kinh tế lý tài, ơng bị Tồn quyền Robin đe dọa: “Nơi
nào có Robin thì khơng có Bạch Thái Bưởi”, ơng đáp lại: “Nước này cịn Bạch
Thái Bưởi thì khơng cịn Robin”.
Xuất thân từ tầng lớp nghèo khó, ơng ln quan tâm đến đời sống của giới
thợ thuyền. Ngoài chế độ an sinh dành cho các nhân viên của mình, ơng còn
giáo dục con cái lòng quý trọng những người cần lao, nghèo khó. Các con đến
tuổi trưởng thành đều được ông cất giao công việc trên các bến tàu hay các khu
mỏ… Thậm chí, cơ con gái học ở Hà Nội, nghỉ hè về, ông cũng dẫn theo để tập
việc, ghi chép sổ sách, xét hồ sơ trợ cấp cho học sinh nghèo có chí du học.
Nếu Lương Văn Can vạch ra 10 nguyên nhân làm các DN Việt Nam
không phát triển được, thì chính Bạch Thái Bưởi đã lấp đầy những khiếm khuyết
đó bằng những tơn chỉ nghiêm túc trên thương trường: thương phẩm, thương
hội, tín thực, kiên tâm, nghị lực, trọng nghề, thương học, giao thiệp, tiết kiệm và
coi trọng hàng nội hóa.
Ngày 22/7/1932, một cơn đau tim đã vật ngã “Nhà DN bền chí, quả cảm
bậc nhất của nước Việt, ở đầu thế kỷ XX”. Sau hơn 20 năm ngang dọc trên
thương trường, Bạch Thái Bưởi qua đời tại Hải Phòng để lại cho lịch sử doanh
thương Việt Nam một tên tui ó tr thnh huyn thoi.
Bảo Đại
Bo i (Nguyn Vnh Thụy) - Vị hồng đế cuối cùng (thời gian ở
ngơi: 1926-1945)
Bảo Đại tên thật là Nguyễn Vĩnh Thụy, con vua Khải Định. Có nhiều dư
luận hồi nghi về vấn đề này, vì ai cũng biết Khải Định là một ơng vua bất lực
khơng thể có con. Bà Hồng Thị Cúc sinh ra Vĩnh Thụy chỉ là một nàng hầu, đã
có thai từ trước và được vua Khải Định công nhận... Chuyện bí mật cung đình
này đã được đồn đại, có một số người trong hoàng tộc đã viết rõ ràng trong hồi
ký. Nhưng theo sự nhìn nhận của chính thống thì ơng vẫn là con của Khải Định,
và đã được Khải Định chǎm sóc nâng niu. Mẹ ơng vẫn được tôn xưng là bà Từ
Cung như chúng ta đã biết.
Vĩnh Thụy sinh nǎm 1913, đến nǎm 10 tuổi thì được phong làm Đông cung
thái tử. Sau khi trở thành người kế vị, Vĩnh Thụy được trao cho Khâm sứ Sác-lơ
mang về Pháp đào tạo. Nǎm 1925, vua Khải Định mất, thế tử Vĩnh Thụy về chịu
tang, và được nối ngôi cha, lấy hiệu là Bảo Đại khi mới 13 tuổi. Sau khi lên
ngôi, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập cho đến khi tốt nghiệp Trung học
(tương đương học vị tú tài Pháp). Trong thời gian vua ở nước ngồi Hội đồng
phụ chính điều hành mọi việc triều đình. Mọi việc khác đều thuộc quyền nhà
nước bảo hộ. Triều đình Huế chỉ cịn là bộ máy tay sai do thực dân Pháp trả
lương mà thôi.
Tháng 8-1932, lúc này Bảo Đại đã 19 tuổi, cùng triều quan xuống tàu về
nước. Ngày 10-9-1932 Bảo Đại ra đạo dụ số l tun cáo chấp chính. Để tơ vẽ
cho ơng vua Tây học thực dân Pháp và Nam triều đã sắp xếp cho Bảo Đại một
chuyến đi thǎm các tỉnh trong nước (ở cả Bắc và Trung kỳ). Nhân dân các tỉnh
buộc phải tổ chức đón rước rất rầm rộ. Sau 10 nǎm đào tạo ở "Mẫu quốc" trở về,
Bảo Đại cho ban hành hàng loạt chính sách cải cách thực chất chỉ là hình thức
mị dân mà thơi. Bắt đầu bằng cách bãi bỏ những trị vái lạy, khơng để cho các
quan khấu đầu quỳ tấu ở trước sân đình. Điều này chẳng có gì là lớn lao, nhưng
đối với các quan lại phong kiến trước đây là điều hệ trọng!
Người ta có cảm tưởng ơng vua thanh niên Tây học đang muốn tỏ ra không
giống lớp người cổ hủ ngày xưa. Tiếp đó, Bảo Đại ra những đạo dụ để cho các
vị thượng thư già lão về nghỉ. Các cụ là Nguyễn Hữu Bài (bộ Lại), Tôn Thất
Đàn (bộ Hình), Phạm Liệu (bộ Binh), Võ Liêm (bộ Lễ), Vương Tứ Đại (bộ
Công) được về nghỉ với danh hiệu là nguyên lão cố vấn. Sau đó Bảo Đại chọn
một số trí thức và quan lại tương đối có tiếng vào lập nội các mới, gồm các ơng:
- Ngơ Đình Diệm, giữ bộ Lại
- Thái Vǎn Toản, giữ bộ Lễ Nghi-Mỹ thuật.
- Hồ Đắc Khải, giữ bộ Cơng
- Bùi Bằng Đồn, giữ bộ Tư pháp
- Phạm Quỳnh, giữ bộ Giáo dục
Việc cải tổ nội các này chỉ gây dư luận lúc đầu cịn sau này cũng chẳng có
tác dụng gì. Mọi việc quốc gia đại sự đều nằm trong tay người Pháp cai quản.
Quân Pháp đã đàn áp được các phong trào, các đảng phái yêu nước như các cuộc
khởi nghĩa Yên Bái, phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh, từ khi Bảo Đại chưa về
nước. Các Viện dân biểu ở Bắc kỳ, Trung kỳ cũng khơng làm được việc gì, và
cũng khơng liên lạc gì với nhà vua. Bảo Đại dù có muốn làm gì cũng khơng
xoay xở được. Có lúc hình như Bảo Đại đã có phản ứng với những viên chức
Pháp cạnh mình. Ơng cự lại với viên Khâm sứ Thibaudeau khiến người này bị
gọi về Pháp, ông mắng tên đại úy Pháp làm sĩ quan bảo vệ mình: "Mày tên là
Tốt (viên này có tên Pháp: Bon nghĩa là tốt), nhưng mày khơng tốt"!
Người Pháp cịn tìm cách ràng buộc Bảo Đại bằng dây tình ái. Vợ chồng bố
ni là Sác-lơ bố trí cho ơng gặp cơ Nguyễn Thị Lan, con một nhà hào phú công
giáo Nam Bộ. Đám cưới phải có sự can thiệp của Tịa Thánh, và cơ Lan trở
thành Nam Phương hồng hậu (1934).
Một thanh niên có khả nǎng tiến thủ như Bảo Đại mà phải chịu giám sát, o
ép như vậy chắc là không chịu được. Nhưng Bảo Đại lại khơng có gan và cũng
khơng có cách làm gì để noi gương các ơng vua chống Pháp trước đây. Khơng
cịn cách nào khác Bảo Đại đã phung phí tuổi thanh xn của mình vào các thú
vui tiêu khiển. Thích đi sǎn, hùa theo trị chơi đen đỏ (cả ở Việt Nam và Pháp).
Bảo Đại rất mê sắc đẹp mặc dù bà Nam Phương rất giữ gìn, khơng cho ơng được
phóng túng. Nhưng Bảo Đại đã lợi dụng những lúc ra ngoài Hoàng cung để theo
đuổi những mối tình lãng mạn vào những phút giây bất chợt. Khi đi sǎn ở Đà
Lạt, Bảo Đại làm quen với một cô đầm, bị chồng cô ta ghen bắn ông bị thương,
phải vào bệnh viện, nói thác ra là bị ngã gãy xương chân. Chặng đường tuổi hai
mươi của Bảo Đại đã trôi qua như thế.
Tháng 3 nǎm 1945, Nhật đảo chính Pháp, song vẫn sử dụng Bảo Đại làm
con bài chính trị. Đây chính là lúc Bảo Đại có điều kiện để trực tiếp làm quen
với thời cuộc. Bảo Đại cho giải tán nội các do Phạm Quỳnh đứng đầu, cố tìm
những người có uy tín để làm việc trong hoàn cảnh thay thầy đổi chủ. Nhờ sự
giúp đỡ của một vài viên quan, ông đã ra chỉ dụ, tuyên bố từ nay đất nước phải
đi theo nguyên tắc: dân vi quí? Bảo Đại đã mời được những nhà trí thức có danh
tiếng lúc bấy giờ để lập một chính phủ mới gồm:
- Trần Trọng Kim: Thủ tướng
- Trần Vǎn Chương: Bộ Ngoại giao
- Lưu Vǎn Lang: Bộ Giao thông
- Vũ Ngọc Anh: Bộ Y tế
- Hồ Tá Khanh: Bộ Kinh tế
- Nguyễn Hữu Thí: Bộ tiếp tế
- Trịnh Đình Thảo: Bộ Tư pháp
- Trần Đình Nam : Bộ Nội vụ
- Hoàng Xuân Hãn: Bộ Giáo dục
- Phan Anh: Bộ Thanh niên
- Vũ Vǎn Hiền: Bộ Tài chính
Phải cơng nhận rằng Chính phủ mới tập hợp được những con người đang
được dư luận chú ý. Thật ra thì lúc đầu nhiều vị khơng có cảm tình với Bảo Đại
vì họ đã thấy một số nhà cách mạng lão thành (như Huỳnh Thúc Kháng) không
muốn hợp tác với nhà vua. Và dù là chính phủ gì đi nữa, cũng vẫn là con bài của
phát xít Nhật.
Nhưng cũng vào lúc ấy, phong trào cách mạng đã phát triển mạnh. Ngày 198-1945, nhân dân đã vùng lên cướp chính quyền ở Hà Nội. Thắng lợi vang dội
của cuộc khởi nghĩa ở Thủ đô đã cổ vũ các địa phương trong cả nước kiên quyết
xốc tới giành toàn thắng.
Ở Huế, các huyện tỉnh Thừa Thiên cũng đã giành được chính quyền. Chính
phủ bù nhìn và triều đình phong kiến tàn tạ đã sống những giờ phút cuối cùng.
Đêm 23-8-1945, Chính phủ Cách mạng Lâm thời gửi điện địi Bảo Đại thối vị.
Chiều 30-8-1945, trước hàng vạn nhân dân dự cuộc mít tinh trước Ngọ
Mơn, Bảo Đại đọc chiếu thối vị, nộp ấn, kiếm cho phái đồn Chính phủ ta, và
tun bố: "Thà làm dân một nước độc lập, hơn làm vua một nước nô lệ" và nhận
huy hiệu trở thành công dân Vĩnh Thụy. Lúc đó Bảo Đại 32 tuổi, làm vua c
19 nm.
Bát Nàng Tớng Quân
Bỏt Nn Tng Quõn (V Thị Thục) (Đinh Sửu 17 – Quí Mão 43)
Cơng chúa, cũng gọi là Bát Nàn, có sách chép là Bát Não.
Theo truyền thuyết và thần tích làng Tiên La, huyện Dun Hà, tỉnh Thái
Bình, cùng thần tích thờ miếu ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, nay thuộc
Vĩnh Phú (thần tích do danh thần thời hậu lê là Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn
Bính phụng soạn): Bát Nạn công chúa là vị anh hùng như thời Trưng Vương, Bà
Vốn là con của Võ Cơng Chất và Hồng Thị Mầu. Thân phụ bà là hào trưởng ở
Phượng Lâu khi bà chào đời cha mẹ đặt tên là thục. Về sau bà nổi tiếng tài sắc,
tục gọi là Thục nương. Bà có chồng là Phạm Danh Hương (có sách chép là vị
Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác (tức Liệp Trang, huyện Lập Thạch). Vợ
chồng bà đều có lịng yêu nước, ngầm lo việc cứu nước giúp dân.
Bấy giờ có tên hào mục là Trần căm tức vì khơng cưới được Thục nương có
ý “làm phản”, nên bắt giết đi.
Năm Kỉ Hợi 39, khi Đặng Thi Sánh bị giết ở Châu Diên, thì chồng bà cũng
bị giết ở Duyên Hà. Quân Tô Định vây dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà
cầm dao sông đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Từ
ấy, nặng nợ nước thù nhà bà quyết chí báo phục, đêm ngày chiêu tập hào kiệt
dựng cờ khởi nghĩa.
Năm Canh tí 40, tháng 3, Hai Bà Trưng lãnh đạo quân dân toàn quận phát
động cuộc khởi nghĩa. Bà theo giúp cùng với nữ tướng Lê Chân thống lãnh quân
tiên phong.
Cứu quốc thành công, nước nhà độc lập, Trưng vương phong bà làm Bát
Nạn đại tướng quân Trinh thục công chúa. Bà từ chối tước lộc, chỉ xin đem đầu
giặc tế chồng một tuần. Tế xong, bà cởi bỏ nhung trang trở lại chùa làng Tiên
La. Nhưng chẳng bao lâu nghe tin Mã Viện kéo binh sang, bà dấn chân cứu
nước lần nữa. Chị em Trưng vương tuẫn quốc trong ngày 6 tháng 2, bà cũng tử
tiết trong ngày 16 tháng 3 năm Q mão 43.
Các triều đại sau đều có truy phong bà làm thần:
+ Đời Lê Thánh tông, sắc phong: Ý đức đoan trang Trinh thục công chúa.
+ Đời Minh Mạng nhà Nguyễn sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù chi
thần.
+ Đời Khải Định sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù thượng đẳng thần.
Vì khi cầm binh đuổi giặc, từ cửa sông Đáy về ngã ba sông Nông, bà
thường cai quản những 18 cửa ngàn, nên tục gọi bà là Thượng ngàn. Và ngôi
chùa mà bà ở tu, sách chép là chùa Nam Liên ở trên núi, nên tục cũng gọi bà là
sư nữ Nam Liên.
Bế Văn Đàn (1931 – 1954)
Bế Văn Đàn (1931 – 1954).
Đồng chí Bế Văn Đàn, sinh năm 1931, dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh
(nay là xã Triệu Ẩu), huyện Phục Hoà, tỉnh Cao Bằng. Xuất thân trong một gia
đình nghèo có truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm, lớn lên
đồng chí tham gia hoạt động du kích. Tháng l năm 1948 đồng chí xung phong
vào bộ đội và tham gia nhiều chiến dịch, đồng chí ln nêu cao tinh thần dũng
cảm, tích cực vượt qua mọi khó khăn ác liệt, kiên quyết chấp hành mọi chỉ thị
mệnh lệnh nghiêm túc, chính xác kịp thời, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng ta
quyết định mở chiến dịch Đông Xuân năm 1953 - 1954, đơn vị hành quân đi
chiến dịch, đồng chí Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu
đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ địch ở Mường Pồn. Lúc đó, khi thấy lực
lượng ta ít, địch tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích,
nhưng cả hai lần chúng đều bị quân ta đánh bật. Cuộc chiến đấu diễn ra căng
thẳng và quyết liệt. Địch liều chết xông lên. Ta kiên quyết ngăn chặn, chốt giữ.
Cần có lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, để các
đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc
dù đồng chí vừa đi cơng tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo đồng chí đã
xung phong lên đường làm nhiệm vụ. Mặc cho bom rơi, đạn nổ, đồng chí đã
dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc của địch, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho
đại đội kịp thời, chính xác. Trong khi đó, trận chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt
hơn, đồng chí được lệnh ở lại đại đội chiến đấu. Địch phản kích lần thứ ba,
chúng điên cuồng mở đường tiến, đại đội bị thương vong nhiều, chỉ còn 17
người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến
đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị khơng bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu
trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì khơng có chỗ đặt súng, tình
thế hết sức khẩn trương, không ngần ngại Bế Văn Đàn chạy lại cầm 2 khẩu
trung liên đặt lên vai mình và hơ bạn bắn. Đồng chí Pù cịn do dự thì Bế Văn
Đàn đã nói: ''Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tơi thì bắn chết chúng nó đi''.
Đồng chí Pù nghiến răng nổ súng vào đội hình quân địch quật ngã hàng chục
tên. Địch hoảng hốt bỏ chạy, đợt phản kích này của chúng bị bẻ gãy. Trong lúc
lấy thân mình làm giá súng, đồng chí Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và đã
anh dũng hy sinh, hai tay vẫn cịn ghì chặt súng trên vai mình. Tấm gương dũng
cảm của đồng chí đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận hăng hái thi đua
giết giặc lập cơng, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa
cầu
Đồng chí Bế Văn Đàn lúc hy sinh là tiểu đội phó, Đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tấm gương chiến đấu dũng cảm, chấp hành nghiêm mệnh lệnh của
cấp trên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Do đó, trong đại hội mừng
cơng của đơn vị, đồng chí Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương chiến cơng
hạng nhất và được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đoàn. Với những
thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955, đồng chí được Quốc hội truy tặng
danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Hn chương qn cơng
hạng nhì.
Đồng chí Bế Văn Đàn là một người anh hùng liệt sĩ cùng hàng ngàn các anh
hùng liệt sĩ đã ngã xuống lúc tuổi đơi mươi, góp phần làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ ''nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng'' và đến Đại thắng mùa xuân năm
1975 lịch sử. Với những cống hiến đó, đồng chí khơng những là một tấm gương,
một niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Cao Bằng mà còn là niềm tự hào của
nhân dõn c nc.
Bùi Bằng Đoàn
Bựi Bng on (K Su 1889 - Ất mùi 1955)
Từ Thượng thư Bộ Hình Nam Triều đến Trưởng ban Thường trực Quốc
hội Việt Nam
Cụ Bùi Bằng Đồn (1889- 1955) là một ơng quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực
và yêu thương dân chúng trong triều đình Huế. Cách mạng Tháng Tám thành
cơng, trong thế nên “xuất” hay nên “xử” của một nhà Nho, Cụ đã nhận lời mời
của Hồ Chủ Tịch ra nhậm chức Trưởng ban Thanh tra đặc biệt Chính phủ. Tổng
tuyển cử 6.1.1946, Cụ trúng cử ĐBQH và sau đó được bầu làm Trưởng ban
Thường trực QH. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Cụ đã lên Việåt Bắc, sát cánh
cùng Hồ Chủ Tịch trong những thời điểm khó khăn nhất...Cuộc đời của Cụ Bùi
Bằng Đoàn là một tấm gương tận tụy, vì nước
vì dân...
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Bùi Bằng Đoàn
(bên phải)
và Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Chiến khu Việt Bắc năm 1947
Ơng quan thanh liêm
Cụ Bùi Bằng Đồn sinh ngày 17.8.1889 (Kỷ Sửu) trong một gia đình nho
học tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây. Cụ từng đỗ Cử nhân dưới
triều vua Thành Thái, gặp thời Tây học bắt đầu thịnh hành, Cụ phải khai thêm 3
tuổi cho đủ để vào học truờng Hậu bổ. Đến năm 1933, cụ đã giữ chức Nam triều
Tư pháp Bộ Thượng thư, nổi tiếng là ông quan đức độ, thanh liêm, chính trực,
chăm dân. Trên cơng đường ở những nơi cụ làm quan, đều có treo một bảng
thơng báo “không nhận quà biếu”.
Với người nhà, cụ rất nghiêm khắc, cấm tiệt việc nhận quà, nếu lỡ nhận rồi
thì phải mang đi trả lại. Khi làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định) cụ đã đề xuất
và thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn, tạo lập được một vùng lúa,
dâu rộng lớn. Ghi công đức cụ, dân địa phương đã làm lễ tế sống vị “phụ mẫu
chi dân” trẻ tuổi ngay nơi nhậm chức. Năm 1925, trước việc báo chí lên án cảnh
phu đồn điền ở miền Nam bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam Triều đã cử Bùi
Bằng Đoàn vào Nam bộ thanh tra các đồn điền cao su của Pháp. Cụ đã tiến hành
thanh tra thấu đáo, viết một bản báo cáo dày đến 100 trang bằng tiếng Pháp nêu
bật lên những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Những kiến
nghị xác đáng của bản báo cáo đã được nhà đương cục chấp nhận, giảm thiếu
những chế độ hà khắc đối với cơng nhân đồn điền cao su thời đó.
Cụ Bùi Bằng Đồn là một người đặc biệt thơng minh, theo Nho học nhưng
rất giỏi tốn, nhất là mơn đại số. Cịn đối với Pháp văn, cụ là người tinh thơng.
Chính vì thế, năm 1925, mặc dù đang làm tri phủ Nghĩa Hưng nhưng vẫn được
mời lên Hà Nội làm thơng ngơn cho phiên tịa đại hình xử vụ án cụ Phan Bội
Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, Bùi Bằng Đoàn đã thơng dịch
rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu để rồi
sau đó tịa án đã khơng khép được cụ Phan vào án chung thân mà giảm xuống
hình thức “an trí ở Huế”. Tháng 3.1945, Nhật đảo chính Pháp, Vua Bảo Đại
xuống chiếu thành lập Chính phủ, Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đồn đã từ
chối tham gia Chính phủ bù nhìn, cáo quan về quê. Tuy nhiên, Chính phủ Nam
Triều đã mời cụ ở lại bằng được và giao giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm
Hà Nội. Ở thời điểm “đêm trước” của cách mạng, tổ chức Việt Minh đã tiếp xúc
và mời cụ làm Hội trưởng Hội bảo vệ tù chính trị. Và cụ đã đến với Việt Minh,
đến với cách mạng một cách tự nhiên, như phẩm chất vốn có trong con người
chính trực của cụ.
Một lịng theo cách mạng
Ơng Bùi Nghĩa, con trai cụ Bùi Bằng Đồn kể lại: Không biết cụ đã tham
gia Việt Minh từ bao giờ nhưng kế hoạch tổ chức mít tinh ngày 17.8 như thế
nào, Việt Minh sẽ nhân dịp đó tổ chức diễn thuyết ra sao cụ đều biết cả. Ngày
2.9.1945, cụ được mời tham gia dự lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Ba Đình. Tại buổi
lễ đó, cụ Bùi Bằng Đồn đã gặp Hồ Chủ Tịch và cụ Hồ đã có nhã ý mới cụ Bùi
tham gia chính quyền cách mạng. Việc này, cụ đã kể lại cho con cháu trong nhà
ngay sau đó. Tuy nhiên, khi cách mạng thành cơng, theo lẽ thường, cụ đã “treo
ấn, từ quan” về an trí ở quê nhà Liên Bạt, Hà Tây. Sống trong cảnh điền viên
chẳng được bao lâu, ngày 17.11.1945, cụ nhận được thư của Hồ Chủ Tịch mời
ra gánh vác việc nước. Bức thư viết: “Thưa Ngài/ Tơi tài đức ít ỏi, mà trách
nhiệm nặng nề. Thấy Ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi
muốn mời Ngài làm Cố vấn cho tôi, để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi
trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và chúc Ngài mạnh khỏe/Kính thư- Hồ Chí
Minh”.
Từ một ơng quan thanh liêm, chính trực làm việc dưới triều đình phong
kiến, nhận thức rõ đường lối cách mạng và mến mộ tài đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cụ lại rời quê, dấn thân vào con đường cách mạng. Tham gia chính quyền
mới, cụ đã từng giữ các chức vụ: Cố vấn Chủ tịch nước, Trưởng ban Thanh tra
đặc biệt, Đại biểu Quốc hội khóa I, Trưởng ban Thường trực Quốc hội từ tháng
11.1946 cho đến khi tạ thế, tháng 4.1955. Trong thời gian tham gia cách mạng
của cụ Bùi Bằng Đồn, có hai sự kiện đáng ghi nhớ. Một là, khi kháng chiến
toàn quốc bùng nổ, ngày 18.12.1946, cơ quan Ban Thường trực Quốc hội phải
sơ tán đến địa điểm mới và ngôi nhà của cụ tại thơn Liên Bạt, Ứng Hịa, Hà Tây
trở thành trụ sở làm việc của Ban thường trực QH một thời gian. Hai là, thời
gian ở Việt Bắc cụ lâm bệnh nặng, cuối năm 1948 Hồ Chủ Tịch và Trung ương
đã quyết định đưa cụ về xuôi để dưỡng bệnh. Khi về gần đến nhà thì gặp lính
Pháp đang càn qt ở Vân Đình, cụ phải lánh đi. Khi đó, một mình cụ bà Trần
Thị Đức ở nhà, đang cất dấu tài liệu của Quốc hội, của Đảng thì bị giặc Pháp ập
vào và bắn chêtë. Sự hy sinh của cụ bà mãi tới năm 1955, khi về thăm nhà cụ
Bùi mới được biết.
Cụ Bùi Bằng Đoàn làm việc trong một thời gian ngắn tại chiến khu Việt
bắc. Tại đây, mối thâm giao giữa cụ Hồ và cụ Bùi Bằng Đồn khơng chỉ là tình
cảm cách mạng mà cịn là của những người bạn tri ân. Có lẽ ai cũng biết bài thơ
Hồ Chủ Tịch tặng cụ Bùi Bằng Đoàn:
“Xem sách chim rừng vào cửa đậu/
Phê văn hoa núi ghe nghiêng soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài”...
Cụ Bùi cũng đã có bài thơ họa:
“Sắt đá một lịng vì chủng tộc
Non sơng mn dặm giữ cơ đồ
Biết Người việc nước không hề rảnh
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù”.
Ở núi rừng Việt Bắc kham khổ, gặp bạo bệnh, cụ phải giao việc của Ban
Thường trực Quốc hội lại cho cụ Tôn Đức Thắng và cụ Tôn Quang Phiệt để về
xuôi chữa bệnh. Tuy xa Trung ương, xa Hồ Chủ Tịch nhưng cụ vẫn thường
xuyên liên hệ với chiến khu, vẫn thư từ và gửi góp ý cho Trung ương và Chính
phủ về những vấn đề mà cụ quan tâm. Thỉnh thoảng, Cụ vẫn trả lời phỏng vấn,
viết báo để động viên quân, dân tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Từ Thượng thư Bộ Hình Nam triều, chuyên lo việc xử án nổi tiếng thanh
liêm, chính trực, cụ Bùi Bằng Đồn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc,
của chế độ cũ- mới để tham gia chính quyền cách mạng, trở thành ĐBQH khóa
I, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam. Đức thanh liêm và tấm lòng tận
trung với nước, tận hiếu với dân của cụ Bùi Bằng Đoàn thật đáng để chúng ta
kính trọng và học tập.
Bïi H÷u NghÜa
Bùi Hữu Nghĩa (Đinh Mão 1807 – Nhâm Thân 1872)
Nhà thơ, hiệu Nghi Chi, Liễu Lâm chủ nhân, người làng Long Tuyền, trước
thuộc Vĩnh Định, trán Vĩnh thanh (Vĩnh Long) sau thuộc tỉnh Cần Thơ (nay là
làng Long Tuyền, thuộc TP. Cần Thơ). Thân phụ ông là Bùi Hữu Vi, xuất thân
nghề chài lưới.
Thuở trẻ ơng lên Biên Hịa ngụ nơi nhà ông Hộ trưởng Nguyễn Văn Lý, học
với ông đồ Hoành. Sau, được ông Lý gả con cho. Năm Ất vị 1835, ông đỗ giải
nguyên trường thi Gia Định, lúc 28 tuổi. Sơ bổ Tri huyện Phước Long, tỉnh Biên
Hòa, rồi thuyên bổ Tri huyện Trà Vang (tức là Trà Vinh, nay thuộc tỉnh Trà
Vinh).
Vì tính cương trực, ông đương đầu với đám cường hào ác bá tại Trà Vinh, bị
quan trên tham nhũng cáo gian, tìm cách hãm hại. May vợ là Nguyễn Thị Tồn
ngồi ghe bầu ra tận kinh đơ kêu oan với triều đình, ơng mới thốt cảnh lao tù,
nhưng phải sung qn, đóng đồn ở Vĩnh Thơng (Châu Đốc).
Vợ ơng từ ngồi kinh đơ trở về, đến nửa đường thì bệnh mất. Ơng có đơi câu
đối viếng và văn tế tuyệt tác.
Đóng qn ở Tịnh Biên ít lâu, ơng xin giải ngũ, về q quán Long Tuyền
sống đời ẩn dật, sinh nhai về nghề thuốc và dạy học, ơm ấp chí cao khiết. Tài
đức của ông được sĩ phu và nhân dân trọng vọng, mến yêu.
Năm Nhâm thân 1872, ngày 21 tháng giêng âm lịch, ơng mất, thọ 65 tuổi.
Mộ ơng nay cịn tại Bình Thủy (TP. Cần Thơ).
Bïi Kû
Bùi Kỷ (1888-1960)
Bùi Kỷ (1888-1960), tên chữ là Ưu Thiên, tên hiệu là Tử Chương sinh ngày
5-1-1888 ở làng Châu Cầu, phủ Lý Nhân (nay thuộc thị xã Phủ Lý) tỉnh Hà
Nam, mất ngày 19-5-1960 tại Hà Nội. Bùi Kỷ sinh trưởng trong một gia đình
khoa bảng Nho học. Tổ tiên họ Bùi vốn gốc ở xã Triều Đơng, huyện Thượng
Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đơng (nay thuộc huyện Thường Tín tỉnh Hà
Tây), khoảng thời cuối triều Lê chuyển đến ở Châu Cầu lập nghiệp, tới đời thứ 6
thì phát khoa năm 1865 cả hai anh em thúc bá Bùi Văn Dị và Bùi Văn Quế đều
đỗ Phó bảng; Bùi Văn Dị (1833-1895) làm quan đến Thượng thư, phụ chính đại
thần. Bùi Văn Quế (1837-1913) làm quan đến Tham trị bộ hình thì cáo quan về
q. Con trai ơng Quế là Bùi Thức (1859-1915) đỗ Tiến sĩ Nho học (1898),
không ra làm quan, ở nhà dạy học và viết sách. Ông Thức có ba con trai là Bùi
Kỷ, Bùi Khải và Bùi Lương, đều đỗ đạt.
Từ nhỏ Bùi Kỷ được cha dạy về Nho học, ngồi ra cịn tìm thầy học chữ quốc
ngữ và chữ Pháp. Năm 1909 lần đầu dự thi Hương, Bùi Kỷ đã đỗ Cử nhân, năm
sau vào Huế thi Hội và thi Đình, ơng đỗ Phó bảng được bổ đi làm Huấn đạo,
nhưng ông từ chối, lấy cớ phải ở nhà phục dưỡng cha và ông nội đều đang già
yếu. Năm 1912, chính quyền bảo hộ chọn cử ông sang Paris (Pháp) học trường
thuộc địa (Ecole coloniale). Nhân dịp này ông đi nhiều nơi trong nước Pháp và
các nước lân cận; ơng cũng có dịp tiếp xúc với một số người Việt yêu nước và
cách mạng đang lưu ngụ ở Pháp, trong đó có Phan Chu Trinh. Hai năm sau trở
về nước, dù được tòa Thống sứ Bắc Kỳ gọi lên bổ dụng nhiều lần, ông đều từ
chối. Ơng tổ chức cho gia đình mình sản xuất hàng thủ công xuất khẩu (bông
vải, tre đan) nhưng ít kết quả.
Sau khi cha và ông nội đều qua đời, Bùi Kỷ bỏ sang Quảng Châu (Trung
Quốc) hai năm. Về nước khi đã 30 tuổi, từ 1917 ông ra Hà Nội dạy học. Ông
dạy tại các trường Cao đẳng sư phạm, Cao đẳng cơng chính, Cao đẳng pháp
chính, theo lối ký hợp đồng từng năm chứ không vào biên chế viên chức của
“nhà nước bảo hộ”. Ngoài ra từ năm 1932, ơng cịn dạy trường tư cho hai tư
thục Văn Lang và Thăng Long. Trường Thăng Long do một số tri thức tiến bộ
và cách mạng như Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Đặng Thái Mai, Võ Nguyên
Giáp lập ra đã mời Bùi Kỷ cùng trực tiếp giảng dạy.
Ngoài việc dạy học, ơng cịn là một nhà biên khảo, nhà sáng tác, cộng tác với
một số báo chí ở Hà Nội như tạp chí Nam Phong, tập san của hội Khai Trí Tiến
Đức, báo Trung Bắc Tân Văn... Ơng cịn hăng hái tham gia các hoạt động văn
học xã hội của giới tri thức Hà thành như kỷ niệm 105 ngày mất thi hào Nguyễn
Du (1925), lễ truy điệu chí sỹ Phan Chu Trinh ở Hà Nội (1926), phong trào
truyền bá chữ quốc ngữ,...
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 Bùi Kỷ là một trong số những nhân sĩ tri
thức được chính thế hệ mới trọng vọng. Ơng được mời tham gia Ủy ban kháng
chiến hành chính Liên khu 3 (LK3), làm chủ tịch Hội Liên Việt (LK3), Hội
truởng Hội giúp binh sĩ tị nạn LK3. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử Bùi
Kỷ làm Phó ban lãnh đạo thanh tốn nạn mù chữ, sau làm Trưởng ban Bình dân
học vụ tồn quốc, là thành viên của Chính phủ.
Ơng được chính phủ tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất.
Năm 1945 hịa bình lập lại, ơng là Uỷ viên Chủ tịch đoàn Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên Ủy ban bảo vệ hồ bình thế giới, Hội
trưởng Hội Việt - Trung hữu nghị.
Ngòi bút của Bùi Kỷ chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực biên khảo; ngồi ra ơng
cũng là nhà sáng tác ở khá nhiều thể loại văn học.
Các cơng trình biên khảo của Bùi Kỷ thường gắn với nội dung dạy và học
môn ngữ văn Hán-Việt bậc trung học của nhà trường phổ thông Pháp - Việt ở xứ
Đông Dương thuộc Pháp đương thời. Đó là các cuốn Quốc văn cụ thể (1932),
Hán văn trích thái diễn giảng khóa bản (cùng soạn với Trần Văn Giáp, 1942),
Việt Nam văn phạm bậc trung học (soạn chung với Trần Trọng Kim, Phạm Duy
Khiêm, 1940 ), Tiểu học Việt Nam văn phạm (Soạn cùng với Trần Trọng Kim
và Nguyễn Quang Oánh, 1945 ). Nổi bật nhất trong số này là cuốn Quốc văn cụ
thể, trình bày về các hình thức, thể tài các loại thơ văn tiếng Việt truyền thống.
Với loại sách biên khảo giáo khoa, Bùi Kỷ là một trong số những nhà nghiên
cứu người Việt đầu tiên tham dự vào việc hình thành các tri thức về ngữ văn
Việt và Hán Việt, các tri thức thi học lịch sử về văn học Việt Nam.
Bùi Kỷ là học giả có nhiều đóng góp vào việc hiệu khảo văn bản một loạt
truyện thơ Nơm các thế kỷ trước, góp phần giữ gìn và truyền lại cho đời sau.
Văn bản Truyện Kiều do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, in lần đầu 1925,
đã dành được sự tín nhiệm của nhiều thế hệ độc giả. Từ những năm 1930 đến
những năm 1950, Bùi Kỷ tiến hành hiệu khảo một loạt truyện Nôm khuyết danh:
Trê cóc, Trinh thử, Lục súc tranh cơng, Hoa điểu tranh năng. Ơng cũng có sự
đóng góp quyết định trong việc khảo cứu di sản thơ chữ Hán của thi hào Nguyễn
Du, trong việc xác định giá trị Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, v.v. Các bản
dịch tác phẩm chữ Hán của tác giả Việt Nam do Bùi Kỷ thực hiện, nổi bật là
Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi, bản dịch từng có vị trí đáng kể trong đời
sống văn học. Bùi Kỷ còn thử nghiệm việc dịch một số tác phẩm Nôm cổ điển
sang chữ Hán như thơ Bà Huyện Thanh Quan hay Truyện Kiều - một cơng việc
sẽ rất có ý nghĩa trên hướng giới thiệu văn học Việt Nam với độc giả Trung
Quốc.
Học giả Bùi Kỷ còn là cây bút sáng tác văn học ở khá nhiều thể loại: văn
(nghị luận, phú, văn tế, câu đối...), thơ (thơ chữ Hán, thơ tiếng việt); ở đây tác
giả dường như khơng có ý định vượt ra ngồi phạm vi kiểu văn học Đông Á
Trung đại. Ở đây tác giả, vẫn như các thế hệ nhà nho trước kia, dùng văn thơ
như nơi để nói chí, tỏ lịng, để thể hiện thế giới tinh thần của mình trong những
nét thanh cao với nhiều ưu tư lo đời, thương đời lại cũng dùng văn thơ như
phương thức răn mình, răn đời. Phần sáng tác thơ mà Bùi Kỷ tập hợp thành tập
Ưu Thiên đồ mặc, chưa in thành sách, chỉ đăng báo ít bài, nay hầu như đã thất
lạc, có lẽ là nơi thể hiện rõ nhất tâm tình tác giả.
Bïi Quèc Kh¸i
Bùi Quốc Khái (Tân Dậu 1141 – Giáp Ngọ 1234)
Danh thần đời Lý Cao tơng, q làng Bình Lãng, huyện Cẩm Giang, (có
sách chép quê làng Trinh Sài, bên cạnh Hồ Tây, Hà Nội).
Ơng có tài, nhưng chán cơng danh, không ra thi cử. Mãi đến năm Trinh Phù
10 (Ất Tị 1185), tuổi đã 44 ông mới ra ứng thí, đứng hàng thứ nhì trong 20
người trúng tuyển. Làm quan trải 3 triều công cán (Lý Cao tông, Lý Huệ tơng,
Lý Chiêu hồng), một lịng trung nghĩa, dày cơng giúp nước an dân. Gặp lúc
triều chính đổ nát, gian thần lộng quyền, ông treo ấn từ quan. Rồi xuất gia đầu
Phật nơi Thiền viện.
Giáp Ngọ 1234, ngày 18 tháng giêng âm lịch, ông mất, thọ 93 tuổi. Dân
chúng tưởng niệm, tô tượng thờ ông ở chùa Thiên Niên (gần Hồ Tây) và đặt bài
vị thờ ở đình làng Trinh Sài (thuộc Hà Nội).
Bïi ThÞ Cóc
Bùi Thị Cúc (1930-1951)
Bùi Thị Cúc tên thật là Trần Thị Lan, sinh năm 1930, tại làng Vân Mạc, một
làng nhỏ thuộc xã Vân Du, huyện Ân Thi. Gia đình đơng con, ơng bố mất khi
Cúc còn nhỏ, để lại nhiều nợ nần. Bà mẹ không trả được, phải gán Cúc làm con
nuôi cho một người làng bên để trừ một khoản vay nợ.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các anh trai đi bộ đội, hoặc công tác
địa phương. Bùi Thị Cúc làm cán bộ phụ nữ ở thôn, được kết nạp Đảng, sau đó
làm cán bộ Huyện hội phụ nữ Ân Thi. Những năm 1947-1950, thực dân Pháp
đánh chiếm các huyện vùng nam Hưng Yên, chúng cấu kết với bọn tay sai phản
động đóng nhiều đồn bốt, lập tề, thường xuyên càn quét, cướp bóc. Ở bốt Cảnh
Lâm gần Vân Mạc, tên Nguyễn Doan Nhi, vốn là một cán bộ địa phương đã
phản bội, cùng anh rể và anh trai làm sếp bốt và phịng nhì, có nhiều thủ đoạn
thâm độc bắt giết cán bộ, khủng bố nhân dân. Huyện ủy Ân Thi cử Bùi Thị Cúc
đóng vai là người cầu an bỏ nhiệm vụ về gia đình bn bán ở chợ Cảnh Lâm để
làm nhiệm vụ địch vận, phản gián.
Chị đã chịu đựng sự dị nghị của gia đình và dân làng tìm cách làm thân với
tên Nhi, giả vờ nhận lời yêu hắn để khai thác tin tức hoạt động của bọn địch
trong vùng, báo cáo với cấp trên. Chị còn khéo léo thuyết phục tên Nhi nhận cả
anh Đệ, người yêu của chị, là công an hoạt động bí mật làm “chỉ điểm” cho
chúng, cấp giấy phép cho anh Đệ được ra vào bốt Cảnh Lâm. Qua một số lần
làm thất bại âm mưu bắt bớ, càn quét của địch, chúng có dấu hiệu nghi vấn chị
Cúc và anh Đệ. Cấp trên chủ trương cho hai người tìm cách trừ khử tên Nhi và
sau đó rút ra ngồi. Thực hiện chủ trương đó, Bùi Thị Cúc đã bố trí một cuộc
hẹn hị với tên Nhi ở làng Vân Mạc. Nguyễn Doãn Nhi đã trúng kế, xuống làng
một mình bị người của ta bắt giết, rồi đem vùi xác dưới ruộng khoai.
Mất tên Nhi, bọn địch ở bốt Cảnh Lâm lập tức quây càn bắt tất cả đàn ông
trong làng giam giữ, đốt nhà, triệt phá cả làng Vân Mạc. Bùi Thị Cúc tìm đường
ra nơi an tồn, nhưng chẳng may đã bị địch bắt cùng nhiều người khác ở thơn
bên. Lính bốt và người nhà tên Nhi đánh đập, tra khảo, trả thù Bùi Thị Cúc, bắt
chị khai báo những người đã giết tên Nhi. Chị đã nhận hết về mình, khơng khai
báo đồng đội và dân làng.
Biết không khuất phục được chị, ngày 15 tháng 5 năm 1950 bọn địch đã
đem chị ra đê bờ sông Lực Điền hành hình hết sức dã man. Bùi Thị Cúc đã nêu
gương hy sinh vô cùng kiên cường, bất khuất. Hồ Chủ tịch đã truy tặng chị sáu
chữ: “Sống anh dũng, chết vẻ vang”.
Năm 1995, Bùi Thị Cúc được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng Công an nhõn dõn.
Bùi Thị Xuân
Bựi Th Xuõn (- Nhõm Tut 1802)
Nữ kiệt triều Tây Sơn, vợ danh tướng Trần Quang Diệu, cháu thái sư Bùi
Đắc Tuyên, quê làng Xuân Hòa, huyện Bình Khuê, tỉnh Bình Định.
Bà là vị anh thư đã cùng chồng hết lòng hết sức giúp nghĩa quân Tây Sơn
chống nhau với quân Nguyễn Ánh hơn 10 năm, chiến đấu cực kỳ dũng cảm.
Tháng giêng năm Nhâm Tuất 1802 bà chỉ huy 500 quân thuộc hạ góp mặt
trong trận đánh Lũy Trấn Ninh, dưới quyền vị Thống lãnh chư quân là Nguyễn
Quang Thùy, và vị Tư lệnh cánh quân tiên phong là Nguyễn Văn Kiên.
Trong trận này bà tấn công địch quyết liệt, khiến quân Nguyễn Ánh hết sức
khiếp sợ.
Sang tháng 3, sau mấy phen cùng chồng lo chiêu quân để toan gầy dựng lại
nghiệp Tây Sơn đã nghiêng đổ, hai vợ chồng đều bị bắt tại huyện Thanh
Chương, tỉnh Nghệ An, rồi bị đem hành hình.
Về cái chết của bà, theo Thiên Nam nhân vật chí và hầu hết các tư liệu khác
đều dựa vào đấy mà cho bà bị lăng trì, đốt cháy cả thi hài. Lại có thuyết, theo tư
liệu của giáo sĩ De La Bissachère, bà và người con gái bị hành hình bằng cách
voi tung xé xác, và bà đã tỏ ra can đảm phi thường trước sự trả thù tàn bạo và vô
nhân đạo ấy của Nguyễn Ánh.
Hiện nay, dãy gò Xuân Hòa là nơi bà tập luyện đàn voi chiến, mặc dù đã bị
phá vỡ thành ruộng, song vẫn cịn di tích.
Cơng luận bình phẩm, hầu hết đều khen ngợi oai danh và tiết tháo của bà.
Người đời sau có vịnh thơ:
Vận nước đang xoay chuyển /
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng. /
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung.
Bïi ViÖn
Bùi Viện (Tân Sửu 1841 – Mậu Dần 1878)
Danh sĩ đời Tự Đức, hiệu Mạnh Dực, quê làng Trình Phổ, tổng An Hồi,
huyện Trực Định, thuộc Kiến Xương, tỉnh Nam Định.
Năm Bính Thìn 1856, có an khoa, ông đỗ cử nhân, Ất Mão 1855 trước năm
ông thi đỗ. Quốc tử giám tế tửu là Võ Duy Thanh biết tài ông, tiến cử ông với
Tham tri bộ Lễ là Lê Tuấn trong việc bình định các nhóm Cờ đen, Cờ vàng
khuấy rối ở miền Bắc.
Doanh điền sứ Dỗn Tuấn nghe tiếng ơng, mời ơng cộng sự mở mang bến
Ninh Hải thành cửa bể Hải Phòng ngày nay. Hồn thành cơng tác, ơng lại đảm
nhiệm trách vụ dẹp loạn quân Tề tức Quảng Văn Tế phát động ở Quảng Yên.
Có lịng u nước, ơng cùng Hồng Phan Thái, Nguyễn Tư Giản, Đặng Đức
Thuận, Nguyễn trường Tộ lập Tân đảng, chú ý khuyến cáo triều đình nên duy
tân cải cách chính trị, qn sự, văn hóa…
Lịng bất vụ lợi và u q của ơng, được chứng tỏ trong mấy lời ưu ái của
vua Tự Đức ban khen ông: “ Trẫm ư tử vị hữu nhâm ân nghĩa, tử nãi dĩ quốc an,
nãi bảo gia an, thâm đồ viễn lự, quỉ thần đương diệc giám chi”. Nghĩa là: “Trẫm
đối với người chưa có ân nghĩa gì mà người đã coi việc nước như việc nhà,
không quản xa xôi lo lắng, quỉ thần ắt cũng chứng cho”.
Chính ơng là nhân vật xuất ngoại đầu tiên vận động bang giao với nước Mĩ,
ông lên đường trong năm Quí Dậu 1873.
Đến Hoa Thịnh Đốn, ông được Tổng thống Abraham Lincoln tiếp kiến;
nhưng vì ông khơng có quốc thư để chứng minh đành phải trở về. Nhưng khi có
quốc thư trong tay, sang Mĩ lần thứ 2, chính tình nước Mĩ đã đổi, Tổng thống
Lincoln đã bị ám sát. Vị Tổng thống mới là Ulysse Simpson Grant bận đối phó
với lắm cuộc nội chiến, ơng lại đành trở về khơng. Đã thế, về đến Hồng Tân
(Nhật) ông được tin mẹ mất, xúc động, ngậm ngùi, ông có bài văn tế cực kỳ
thống thiết.
Vua Tự Đức vẫn trọng dụng ông, bổ làm Tham tri, rồi đổi làm Tham chính
thương biện, cùng với Nguyễn Tăng Dỗn coi về việc quan thuế ở Bắc Kì. Ít lâu,
đổi làm Chánh quản đốc Nha tuần tải, ông liền thực thi kế hoạch chỉnh đốn hải
quân, thành lập đội tuần dương quân đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông.
Đến Mậu Dần 1878, ngày 1 tháng 11 âm lịch, ông mất. Triều đình và dân
chúng đều thương tiếc.