Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Đánh giá kết quả điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng ở người cao tuổi bằng phương pháp kéo giãn cột sống kết hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 106 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau thắt lưng là bệnh lý phổ biến trong thực hành lâm sàng chuyên
ngành phục hồi chức năng, trong đó nguyên nhân hàng đầu là thoát vị đĩa đệm
cột sống thắt lưng. Theo Lambert, có tới 63% bệnh nhân đau thắt lưng là do
thoát vị đĩa đệm. Ở Việt Nam, thoát vị đĩa đệm chiếm tỷ lệ 63% - 73% các
trường hợp đau cột sống thắt lưng và 72% bệnh nhân đau thần kinh tọa do
thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng [1],[2],[3]. Thoát vị đĩa đệm không gây
nguy hiểm đến tính mạng người bệnh nhưng ảnh hưởng nhiều về kinh tế, xã
hội và đặc biệt là chất lượng cuộc sống của người bệnh. Ở Hoa Kỳ ước tính
chi phí cho điều trị thoát vị đĩa đệm khoảng 86 tỷ đô la vào năm 2005, tương
đương với chi phí cần điều trị cho bệnh nhân đái tháo đường [3].
Thoát vị đĩa đệm gặp nhiều hơn ở lứa tuổi lao động từ 30- 50 tuổi, tuy
nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, tuổi thọ con người ngày càng được
nâng cao, mô hình bệnh tật cũng có sự thay đổi [4],[5],[6]. Tại Việt Nam,
khoảng 17% người trên 60 tuổi bị đau thắt lưng, trong đó thoát vị đĩa đệm
chiếm một tỷ lệ không nhỏ [7].
Hiện nay, ở nước ta số người trên 60 tuổi chiếm gần 10% dân số, số
người mắc các bệnh đau thắt lưng và thoát vị đĩa đệm ngày càng nhiều [9].
Người cao tuổi có những thay đổi sinh lý, bệnh học so với người trẻ và
thường mắc nhiều bệnh: bệnh tim mạch, cơ xương khớp, tâm thần kinh… do
đó chiến lược điều trị gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng đến kết quả điều trị.
Việc sử dụng thuốc trong điều trị cho bệnh nhân cao tuổi bị thoát vị đĩa
đệm cột sống thắt lưng nên được xem xét thận trọng do khả năng dung nạp
kém hơn và gia tăng tác dụng không mong muốn. Do đó, việc kết hợp uống
thuốc với các biện pháp phục hồi chức năng trong đó biện pháp quan trọng
được nhắc đến là kéo giãn cột sống nhằm giảm số lượng, liều lượng và thời


2


gian phải dùng thuốc là cần thiết và khả thi. Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện
nay tại các trung tâm, khoa Phục hồi chức năng việc kết hợp uống thuốc với
các phương pháp phục hồi chức năng đang được áp dụng khá rộng rãi nhưng
còn ít nghiên cứu được công bố.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Đánh giá kết quả điều trị
thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng ở người cao tuổi bằng phương pháp
kéo giãn cột sống kết hợp” với hai mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng ở người
cao tuổi bằng phương pháp kéo giãn cột sống kết hợp.
2. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phục hồi chức năng thoát
vị đĩa đệm cột sống thắt lưng ở người cao tuổi.


3
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các khái niệm
- Người cao tuổi: Theo Luật Người cao tuổi Việt Nam quy định, người
cao tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
- Thoát vị đĩa đệm: Thoát vị đĩa đệm là sự dịch chuyển nhân nhầy ra
khỏi vùng giới hạn sinh lý của vòng xơ.
- Kéo giãn cột sống: Kéo giãn cột sống là phương pháp làm giãn cơ tích
cực, nó tác động vào nhiều điểm khác nhau của đoạn vận động cột sống làm
duỗi cột sống, các khoang gian đốt được giãn rộng, áp lực khoang gian đốt sẽ
giảm thấp xuống, tăng thấm dịch và nuôi dưỡng đĩa đệm.
1.2. Giải phẫu cột sống thắt lưng
Cột sống được tạo bởi các đốt sống và các đĩa đệm (còn gọi là đĩa gian
đốt) sắp xếp luân phiên và được gắn với nhau bởi các dây chằng rất vững
chắc, được nâng đỡ bởi hệ cơ kéo dài từ hộp sọ tới khung chậu tạo nên cột trụ

cho cơ thể (Hình 1.1).

Hình 1.1. Cột sống: Nhìn bên/ Nhìn sau


4
Bình thường đoạn cột sống có 23 đĩa đệm: 5 đĩa cổ, 11 đĩa ngực, 4 đĩa thắt
lưng, 3 đĩa chuyển đoạn (1 cổ - ngực, 1 thắt lưng - ngực, 1 thắt lưng - cùng).
Cột sống thắt lưng gồm 5 đốt sống, 4 đĩa đệm (L1-L2; L2-L3; L3-L4;
L4-L5) và 2 đĩa đệm chuyển đoạn (T12-L1; L5-S1). Chiều cao của đĩa đệm
tăng dần từ đoạn cổ đến đoạn cùng, trung bình đoạn thắt lưng là 9mm và
chiều cao của đĩa đệm L4-L5 là lớn nhất, đây là nơi chịu 80% trọng lượng cơ
thể và có tầm hoạt động lớn theo mọi hướng, riêng đĩa đệm L5-S1 chỉ bằng
2/3 chiều cao đĩa đệm L4- L5 [10].
1.2.1. Hình thể chung của các đốt sống thắt lưng.


5

Hình 1.2. Các đốt sống thắt lưng: Nhìn bên/ Thiết đồ đứng dọc
Mỗi đốt sống gồm có 3 phần chính là thân đốt sống, cung đốt sống,
mỏm đốt sống và một lỗ:
a. Thân đốt sống:


6
Hình trụ dẹt, có hai mặt gian đốt sống và một vành xung quanh.
Thân đốt sống có kích thước tăng dần từ đốt trên đến đốt dưới, phù hợp
với sự tăng dần của trọng lượng từng phần cơ thể và lực tác dụng lên các đốt
phía dưới.

b. Cung đốt sống:
Cung đốt sống gồm hai phần: Phần trước dính với thân đốt sống gọi là
cuống, phần sau gọi là mảnh.
c. Các mỏm đốt sống:
Đi từ cung đốt sống ra, mỗi cung đốt sống có:
- Hai mỏm ngang chạy sang hai bên.
- Bốn mỏm có diện khớp gọi là mỏm khớp: Hai mỏm khớp trên mang
các mặt khớp trên và hai mỏm khớp dưới mang các mặt khớp dưới.
- Một mỏm ở phía sau gọi là mỏm gai.
d. Lỗ đốt sống:
Nằm ở giữa thân đốt sống ở phía trước và cung đốt sống ở phía sau.
Các lỗ đốt sống khi chồng lên nhau tạo nên ống sống.
1.2.2. Đĩa đệm thắt lưng- đĩa gian đốt sống.
Đĩa đệm hình thấu kính lồi hai mặt, gồm ba phần: Nhân nhày, vòng sợi
và hai tấm sụn.
a. Nhân nhầy:
Nhân nhầy có hình thấu kính hai mặt lồi nằm trong vòng sợi. Nó không
nằm chính giữa trung tâm thân đốt sống mà nằm hơi về phía sau; đó là lý do
làm cho phần vòng xơ sau nhân tủy mỏng hơn ở phía trước. Có tác giả cho
đây là yếu tố thuận lợi để TVĐĐ hay xảy ra ở phía sau.
Thành phần chính của nhân nhầy là một chất dạng nhầy trong đó có vùi
các sợi lưới và collagen; nhân nhầy chứa chừng 70 đến 80% nước, tỷ lệ này
giảm dần theo tuổi. Do vậy khi về già, chiều cao đĩa đệm giảm đi và người ta


7
thấp hơn so với thời còn trẻ 5-7 cm. Với tỷ lệ nước cao như vậy, nhân nhầy là
thành phần không thể nén ép được. Tuy nhiên, hình dạng của nó có thể thay
đổi được và cùng với khả năng chịu nén và giãn của vòng sợi, điều này cho
phép hình dạng của toàn bộ đĩa đệm thay đổi, giúp đốt sống này chuyển động

trên đốt sống kia.
Mô của đĩa đệm không tái tạo, hơn nữa lại luôn chịu một tải trọng lớn
và nhiều tác động khác như chấn thương cột sống, lao động chân tay nên dễ
hư và thoái hóa.
b. Vòng sợi:
Gồm nhiều vòng xơ sụn đồng tâm, được cấu tạo bằng những sợi sụn rất
chắc và đàn hồi, đan ngoặc với nhau kiểu xoắn ốc. Các bó sợi của vòng sợi tạo
thành nhiều lớp, giữa các lớp có những vách ngăn được gọi là yếu tố đàn hồi.
Tuy vòng sợi có cấu trúc rất bền chắc, nhưng phía sau và sau bên, vòng
sợi mỏng và chỉ gồm một số ít những bó sợi tương đối mảnh, nên đấy là
“điểm yếu nhất của vòng sợi”. Đó là một yếu tố làm cho nhân nhầy lồi về
phía sau nhiều hơn [2],[11].
c. Tấm sụn.
Có hai tấm sụn: Một tấm dính sát mặt dưới của thân đốt sống trên và
một tấm dính sát vào mặt trên của thân đốt sống dưới. Hai tấm sụn ôm chắc
lấy nhân nhầy.
Tác dụng của tấm sụn là bảo vệ phần xương xốp của thân đốt sống khỏi
bị nhân nhầy ép lõm vào và bảo vệ cho đĩa đệm khỏi bị nhiễm trùng từ xương
xốp của thân đốt sống đưa tới. Khi nhân nhầy chui qua tấm sụn vào phần xốp
của thân đốt sống gọi là thoát vị Schmort.
1.2.3. Các dây chằng cột sống thắt lưng.
- Dây chằng dọc trước:


8
Chạy dọc mặt trước các thân đốt sống, dính chắc vào mép trước và mép
bên của thân đốt sống với nhau.
Dây chằng dọc trước rất chắc và khỏe hơn dây chằng dọc sau nên rất ít
khi thoát vị về phía trước cột sống.
- Dây chằng dọc sau:

Nằm ở mặt sau thân đốt sống, dính chắc các mép sau của thân đốt sống
trên và dưới với nhau.
Ngược lại so với dây chằng dọc trước, dây chằng dọc sau bám rất lỏng
vào mặt sau các đốt sống, nhưng lại gắn rất chặt với mặt sau các đĩa đệm.
Phần giữa dây chằng dọc sau dầy hơn so với hai phía bên. Điều này giải thích
tại sao đĩa đệm hay bị thoát vị về phía sau- bên.
- Dây chằng vàng:
Phủ phần sau ống sống và bám vào lỗ gian đốt, trải căng từ cung đốt
này đến cung đốt sống khác. Dây chằng vàng, dây chằng liên mảnh và dây
chằng liên gai cùng phối hợp gia cố cho phần sau của cột sống.
1.2.4. Mạch máu và thần kinh của đĩa đệm.
Mạch máu nuôi dưỡng đĩa đệm rất nghèo nàn, chủ yếu ở xung quanh
vòng sợi, nhân nhầy không có mạch máu. Do đó đĩa đệm chỉ được đảm bảo
cung cấp máu và nuôi dưỡng bằng hình thức khuyếch tán.
Đĩa đệm không có sợi thần kinh mà chỉ có những nhánh tận cùng nằm
ở lớp ngoài cùng của vòng sợi, đó là những nhánh tận cùng của dây thần kinh
sống đi từ hạch sống gọi là nhánh màng tủy [12].


9
1.3. Sinh cơ học đĩa đệm cột sống thắt lưng.
Trong đĩa đệm và tổ chức xung quanh luôn tồn tại hai loại áp lực là áp
lực thủy tĩnh và áp lực keo. Ở đĩa đệm bình thường, hai loại áp lực này ở
trong và ngoài đĩa đệm luôn cân bằng nhau. Sự luân chuyển của hai loại áp
lực này có ý nghĩa trong việc trao đổi chất nhằm nuôi dưỡng đĩa đệm cũng
như chức phận của đoạn vận động cột sống.
- Áp lực tải trọng lên đĩa đệm thắt lưng:
Ở tư thế đứng thẳng, đĩa đệm cột sống là nơi phải chịu áp lực từ trọng
lượng ở phần trên cơ thể dồn xuống (áp lực tải trọng), trong đó đĩa đệm cột
sống thắt lưng là nơi chịu gần như toàn bộ trọng tải này dồn xuống trên một

diện tích nhỏ chỉ vài cm2. Mặt khác, khi phần trên của cơ thể thay đổi tư thế ra
khỏi trục sinh lý còn làm cho áp lực trọng tải đó tăng lên gấp nhiều lần. Đây
cũng là lý do về ảnh hưởng của nghề nghiệp và cường độ lao động với bệnh
lý của đĩa đệm.
Khi áp lực tải trọng lên cột sống cân đối, đĩa đệm phản ứng lại bằng sự
căng của các vòng sợi và sự tăng áp lực trong nhân nhầy. Khi cột sống vận
động về một phía thì nhân nhầy sẽ dịch chuyển về phía bên đối diện, đồng
thời vòng sợi cũng sẽ bị giãn ra. Ví dụ khi cúi gập lưng về phía trước thì nhân
nhầy sẽ dịch chuyển về phía sau và ngược lại [2],[13],[14]. Khi thực hiện
động tác xoay, các vòng sợi ở phía trực tiếp bị căng ra, các vòng sợi phía bên
đối diện sẽ chun lại. Điều này giải thích tại sao khi gập và xoay thân thường
có khuynh hướng làm rách vòng sợi và đẩy nhân nhầy qua vết rách này gây ra
hiện tượng TVĐĐ.
- Chức năng cơ học của đĩa đệm:
Đĩa đệm tham gia vào các vận động của cột sống bằng khả năng biến
dạng và tính chịu lực ép. Cùng với khả năng chuyển trượt của các khớp đốt
sống, đĩa đệm góp phần tạo cho đốt sống có một trường vận động linh hoạt.


10
Đĩa đệm còn đảm bảo chức năng giảm sóc cho cơ thể, làm giảm nhẹ các chấn
động theo trục dọc cột sống do trọng tải. Nhân nhầy có chức năng chuyển tiếp
các lực dọc trục để trải đều và cân đối với mâm sụn và vòng sợi. Trên cơ sở
dịch chuyển sinh lý của nhân nhầy và tính chất chun giãn của vòng sợi, đĩa
đệm thực sự là một hệ thống sinh cơ học có tính thích ứng và đàn hồi cao chịu
được tải trọng lớn và có độ vững chắc đặc biệt nhằm chống đỡ những chấn
động mạnh [15],[2].
1.4. Sinh bệnh học thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng.
Người ta cho rằng TVĐĐ là kết quả của quá trình thoái hóa đĩa đệm và
các yếu tố chấn thương, vi chấn thương.

Cột sống thắt lưng nâng đỡ 80% trọng lượng cơ thể và là vùng có vận
động lớn, đĩa đệm hoạt động như một “lò so giảm sóc”. Vì phải thích nghi với
hoạt động cơ học lớn, chịu áp lực cao thường xuyên và đĩa đệm được nuôi
dưỡng bằng đường thẩm thấu là chủ yếu nên đĩa đệm thắt lưng sớm bị loạn
dưỡng và thoái hóa tổ chức.
Đĩa đệm thoái hóa đã hình thành một tình trạng dễ bị tổn thương bất cứ
lúc nào. Khi đĩa đệm bị thoái hóa ở một mức độ nhất định, thoát vị đĩa đệm dễ
hình thành nhất là lúc cột sống thắt lưng sau một động tác đột ngột ở tư thế sai
hoặc bất lợi quá ưỡn hay quá gù, khuân vác nặng hay một chấn thương bất kỳ
đã có thể gây đứt rách vòng sợi đĩa đệm, nhân nhày dịch chuyển ra khỏi ranh
giới sinh lý bình thường và hình thành TVĐĐ [15],[16].
Những điều kiện làm dịch chuyển tổ chức đĩa đệm gây nên lồi hoặc
TVĐĐ là:
- Áp lực trọng tải lớn.
- Áp lực nội đĩa đệm cao.
- Sự lỏng lẻo từng phần cùng với thoái hóa của đĩa đệm.


11
- Lực đẩy và lực xoắn vặn, dồn đẩy, nén ép do các vận động cột sống
quá mức.
- Hiện tượng thoái hóa cột sống trong đó có thoái hóa đĩa đệm và thoái
hóa dây chằng [17],[18],[19],[20],[21].
Đĩa
Đĩa
đệm
đệm
bình
bình
thường

thường

ĐĩaĐĩa
đệm
đệm
thoái
thoái
hóahóa
sinh
sinh
lý lý
(do(do
tải tải
trọng
trọng
tĩnhtĩnh
và và
động)
động)

Hư đĩa đệm

Đĩa
Đĩađệm
đệmthoái
thoáihóa
hóabệnh
bệnhlýlý
(chấn
(chấnthương

thươngnhẹ,
nhẹ,viêm
viêmnhiễm)
nhiễm)

Chấn
Chấn
thương
thương
cột cột
sống
(tai sống
nạn…)
(tai nạn…)

Thoát vị đĩa đệm
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ mô tả cơ chế thoát vị đĩa đệm.
1.5. Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng TVĐĐ cột sống thắt lưng.
1.5.1. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của TVĐĐ cột sống thắt lưng được biểu hiện bằng
hai hội chứng chính: Hội chứng cột sống và hội chứng rễ thần kinh [11],[22]
1.5.1.1. Hội chứng cột sống.
- Đau cột sống thắt lưng: Khởi đầu đau cấp tính tiến triển và giảm dần,
sau đó tái phát trở thành mạn tính và dần đau lan xuống theo khu vực chi phối
của các rễ thần kinh thắt lưng- cùng. Đau với đặc điểm: đau tăng lên khi ho,


12
hắt hơi, thay đổi tư thế, giảm khi được nghỉ ngơi, tăng lên lúc nửa đêm về
sáng. Toàn bộ các đặc điểm trên được gọi là đau có tính chất cơ học.

- Có điểm đau cột sống và cạnh cột sống thắt lưng: Rất phổ biến, tương
ứng với các đoạn vận động bệnh lý và điểm xuất chiếu đau của các rễ thần
kinh tương ứng.
- Các biến dạng cột sống: Trong TVĐĐ cột sống thắt lưng, hai triệu
chứng: mất đường cong sinh lý và vẹo cột sống thắt lưng là thường gặp hơn cả.
- Hạn chế vận động cột sống thắt lưng chủ yếu là hạn chế khả năng
nghiêng về bên ngược với tư thế chống đau và khả năng cúi.
- Co cứng khối cơ cạnh cột sống thắt lưng.
1.5.1.2. Hội chứng rễ thần kinh.
Theo McGill SM và Brown S. Bed (1992) [23], hội chứng rễ thuần túy
có những đặc điểm sau:
- Đau lan theo dọc đường đi của rễ thần kinh chi phối.
- Rối loạn cảm giác lan theo dọc các dải cảm giác.
- Teo cơ do rễ thần kinh chi phối bị chèn ép thiếu dinh dưỡng.
- Giảm hoặc mất phản xạ gân xương.
* Đặc điểm đau rễ: Đau dọc theo các vị trí tương ứng rễ thần kinh bị
chèn ép chi phối, đau có tính chất cơ học và xuất hiện sau đau thắt lưng cục
bộ, cường độ đau không đồng đều giữa các vùng ở chân.
Có thể gặp đau cả hai chi dưới kiểu rễ, cần nghĩ tới khối thoát vị to ở
trung tâm nhất là khi ống sống có hẹp dù ít. Có khi đau chuyển từ chân nọ
sang chân kia một cách đột ngột hoặc đau tiến triển vượt quá định khu của rễ,
hoặc gây hội chứng đuôi ngựa cần nghĩ đến sự di chuyển của mảnh thoát vị
lớn bị đứt rời gây nên.
* Các dấu hiệu kích thích rễ: Có giá trị chẩn đoán cao là dấu hiệu bấm
chuông, dấu hiệu Lasègue, điểm đau Waleix.


13
* Các dấu hiệu tổn thương rễ: Gồm giảm hoặc mất cảm giác, yếu hoặc
liệt cơ, giảm hoặc mất phản xạ, teo cơ, rối loạn thần kinh thực vật (giảm nhiệt

độ da, giảm tiết mồ hôi, rối loạn vận mạch, rối loạn dinh dưỡng da…), rối
loạn cơ vòng (tổn thương rễ S3, S4, S5) nhưng hiếm gặp [22],[2].
- Theo Hồ Hữu Lương, về lâm sàng, có thể chẩn đoán là TVĐĐ nếu
bệnh nhân có tam chứng lâm sàng sau:
+ Chỉ số SchÖber dưới 14/10 cm
+ Nghiệm pháp nâng cẳng chân thẳng dương tính.
+ Nằm nghỉ thì đỡ đau hoặc khởi phát sau chấn thương hay vận động
cột sống quá mức đặc biệt là sau khi nâng vật nặng.
- Hiện nay trên thế giới có nhiều đánh giá khác nhau về TVĐĐ. Theo
Arsenie và cộng sự (1974), TVĐĐ chia làm 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 (giai đoạn đầu của TVĐĐ): Nhân nhầy biến dạng, vài
chỗ bắt đầu rách nhỏ ở phía sau vòng sợi. Nhân nhầy ấn lõm vào chỗ khuyết
này. Hình ảnh này thấy được trên phim chụp đĩa đệm. Lâm sàng là bệnh nhân
đau thắt lưng không thường xuyên, liên quan đến lao động và đè ép đĩa đệm
lâu như ngồi lâu, mang vác, chưa đau kiểu rễ thần kinh.
+ Giai đoạn 2 (lồi đĩa đệm): Nhân nhầy lồi về phía vòng sợi bị suy yếu,
đĩa đệm phình ra. Có nhiều chỗ rạn rách vòng sợi rõ rệt hơn nhưng chưa xâm
phạm đến chiều dày của vòng sợi. Biểu hiện lâm sàng là đau thắt lưng cục bộ,
co cứng cơ cạnh cột sống, chưa đau lan theo kiểu rễ thần kinh, có thể có triệu
chứng kích thích rễ thần kinh.
+ Giai đoạn 3 (TVĐĐ): Đứt rách hoàn toàn các lớp của vòng sợi, tổ
chức nhân nhầy cùng các tổ chức khác của đĩa đệm thoát ra khỏi khoang gian
đốt hình thành TVĐĐ. Biểu hiện lâm sàng gồm các triệu chứng, hội chứng rễ
thần kinh xuất hiện, chia làm ba mức độ:


14
. Mức độ nhẹ: Kích thích rễ.
. Mức độ vừa: Chèn ép rễ, còn một phần dẫn truyền thần kinh.
. Mức độ nặng: Mất dẫn truyền thần kinh.

+ Giai đoạn 4 (mức độ nặng): Nhân nhầy biến dạng xơ hóa, vỡ rạn rách
nặng ở nhiều phía, hẹp ống sống thứ phát và hư đốt sống. Biểu hiện lâm sàng
là đau thắt lưng mạn tính tái phát, tổn thương nặng nhiều rễ do bị chèn ép
trong lỗ ghép đã bị hẹp bởi các biến đổi thứ phát của cấu trúc xương hoặc hội
chứng đuôi ngựa [16].
1.5.2. Cận lâm sàng TVĐĐ cột sống thắt lưng.
1.5.2.1. Chụp cột sống thắt lưng quy ước.
Phim Xquang thường phản ánh những giai đoạn muộn của TVĐĐ.
Có thể giúp chẩn đoán TVĐĐ bằng tam chứng Barr gồm: Giảm hoặc
mất đường cong sinh lý CSTL (mất ưỡn thắt lưng), hẹp khe gian đốt và vẹo
cột sống thắt lưng. Xquang có thể phát hiện được một số dị dạng cột sống
kèm theo.
1.5.2.2. Chụp bao rễ thần kinh.
Là phương pháp chụp sau khi đưa vào khoang dưới nhện đoạn thắt lưng
cùng một lượng thuốc cản quang, bệnh nhân được chụp ở ba tư thế là thẳng,
nghiêng và chếch ¾ về phía bên đau.
Chỉ định chụp bao rễ thần kinh cần cân nhắc thận trọng vì các tai biến
và độc tính của chất cản quang như nhức đầu, phản ứng màng não, viêm
màng não do vi khuẩn, động kinh tủy.
Chống chỉ định chụp bao rễ thần kinh trong những trường hợp: Tăng áp
lực nội sọ, lao cột sống, dị ứng với thuốc, bệnh nhân đang sốt, nguời mắc
bệnh tim, gan, thận nặng…


15
1.5.2.3. Chụp cắt lớp vi tính cột sống.
Phương pháp này có giá trị chẩn đoán lớn, được coi là một cuộc cách
mạng trong sự phát triển của các phương pháp chẩn đoán hình ảnh (giải
thưởng Nobel y học năm 1979).
Đối với bệnh lý đĩa đệm, một số công trình nghiên cứu của các tác giả

Lee (1998) hay Lutz J.D. và cộng sự (1990) cho thấy phương pháp này có thể
chẩn đoán chính xác TVĐĐ ra sau, TVĐĐ tách rời, TVĐĐ thành khối lớn,
TVĐĐ trên một đĩa đệm thoái hóa… Ngày nay người ta có xu hướng kết hợp
CT.Scanner với các phương pháp chụp cản quang như chụp bao rễ, chụp đĩa
đệm để làm tăng giá trị chẩn đoán [15],[2].
1.5.2.4. Chụp cộng hưởng từ cột sống.
Đây là phương pháp có khả năng chẩn đoán định khu với độ chính xác
cao nhằm hướng dẫn phẫu thuật, xác định vị trí, mức độ, thể thoát vị đĩa đệm.
Phim cộng hưởng từ không những cho hình ảnh trực tiếp của đĩa đệm và rễ thần
kinh ở trong ống sống và ngoại vi, mà còn cho biết tình trạng xương và các phần
mềm xung quanh. Cộng hưởng từ có thể chụp theo trục, mặt phẳng đứng dọc
giữa và chếch nên giá trị chẩn đoán cao. Đây lại là phương pháp an toàn, không
xâm hại cho bệnh nhân. Vì vậy, với TVĐĐ, chụp cộng hưởng từ có ưu điểm hơn
so với chụp CT.Scanner và chụp bao rễ thần kinh [15],[22],[2].
Trên phim chụp cộng hưởng từ ta thấy hình ảnh đĩa đệm là giảm tín
hiệu trên T1 và tăng tín hiệu trên T2.
Các thể thoát vị đĩa đệm gồm:
- Phình đĩa đệm: Đĩa đệm phình nhẹ ra sau, bờ thẳng, chưa tổn thương
vòng sợi.
- Thoát vị đĩa đệm: Lồi khu trú của thành phần đĩa đệm, tổn thương
vòng sợi với các mức độ.


16
- Thoát vị đĩa đệm di trú: Mảnh đĩa đệm rời ra, không liên tục với
khoang đĩa đệm, di chuyển tới vị trí khác và gây tổn thương dây chằng dọc
sau ở vị trí sau bên [24],[25].

Hình 1.3. Hình ảnh thoát vị đĩa đệm tư thế sagittal T2W và tư thế axial T2w
1.6. Đặc điểm lâm sàng đau cột sống thắt lưng và thoát vị đĩa đệm cột

sống thắt lưng ở người cao tuổi
1.6.1. Đặc điểm sinh lý, bệnh lý chung
- Già là hiện tượng sinh lý tự nhiên, phức tạp của cơ thể, xuất hiện sớm,
ngay từ lứa tuổi sau 30 [15],[9]. Đặc điểm cơ bản của quá trình thoái triển khi
cơ thể về già là sự lão hoá. Tuổi già dẫn đến những biến đổi về hình thái và
chức năng trong các bộ phận, từ các tế bào đến các tổ chức, cơ quan và hệ
thống cơ quan với những tính chất khác biệt tuỳ theo vị trí, thời kỳ và tốc độ
thoái hoá. Nói chung, quá trình lão hóa của hệ thần kinh cũng như các hệ
thống khác trong cơ thể diễn ra theo một chương trình tiến triển đặc hiệu nhất
định cho từng cá thể và chịu ảnh hưởng của dinh dưỡng, môi trường, lối sống
và bệnh tật. Hậu quả, dẫn đến thay đổi hằng số nội môi, làm cho cơ thể kém
thích nghi với môi trường và dễ mắc bệnh.
- Bệnh lý của người cao tuổi thường xảy ra ở những cơ quan xung yếu
nhất của cơ thể như: tim- mạch, hô hấp, nội tiết … và thường mắc nhiều bệnh


17
cùng một lúc. Riêng về hệ thần kinh, theo thống kê của của khoa thần kinh
bệnh viện Bạch Mai từ 1983- 1988, trong số 3729 người bệnh vào chữa thì có
546 người cao tuổi, chiếm tỷ lệ 14,6%, trong đó các bệnh lý hay gặp là: Đột
quỵ não, sa sút tâm thần, Parkinson, thoái hoá, thoát vị đĩa đệm [26].
- Khả năng thích nghi, bù trừ của cơ thể người già suy giảm nên bệnh
thường biểu hiện ngay từ giai đoạn sớm, nhưng hậu quả cũng thường nặng nề
hơn. Nhiều biểu hiện bất thường (bệnh lý) ít gặp ở người trẻ nhưng lại tương
đối phổ biến ở người già: ngoại tâm thu, giảm dung nạp Glucose, phát hiện vi
khuẩn trong nước tiểu [26].
1.6.2. Đặc điểm thoái hoá đĩa đệm cột sống thắt lưng ở người cao tuổi
Theo nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước, thoái hoá đĩa
đệm xuất hiện từ rất sớm, khoảng 4-5 tuổi, đến tuổi sau 30 thì không còn cột
sống nào là chưa có biểu hiện thoái hoá, quá trình này tăng dần theo tuổi và

đến độ tuổi 50- 60 thì thoái hoá biểu hiện rõ với các mức độ khác nhau, trong
đó có khoảng 10% ở mức độ nặng [15],[27]. Quá trình thoái hoá diễn ra qua
hai giai đoạn: Giai đoạn hư sụn đệm (tổn thương giới hạn ở đĩa đệm) và giai
đoạn hư xương sụn (có nhiều biến đổi về hình thái cột sống). Thoái hoá đĩa
đệm gồm 2 loại là: thoái hoá sinh lý (lão hóa) và thoái hoá bệnh lý dưới ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như: di truyền, tải trọng, chấn thương, dinh dưỡng....
hậu quả của qúa trình thoái hoá dẫn đến thay đổi của tổ chức đĩa đệm, cụ thể:
• Thay đổi về hình thái: quá trình thoái hoá bắt đầu từ những năm đầu
của cuộc đời , do đó trên thực tế rất khó phân biệt quá trình thoái hoá sinh lý
và bệnh lý về mặt hình thái.
Bình thường trên mặt cắt dọc của CSTL, đĩa đệm trẻ sơ sinh là một chất
keo, ở trung tâm là nhân nhầy mầu trắng, sự căng phồng của nhân nhầy rất
mạnh, phân cách rất rõ rệt với vòng sợi bởi những sợi mảnh. Dần dần nhân
nhầy trở lên cứng hơn, tổ chức xơ xâm lấn trong quá trình từ 25- 30 tuổi.


18
Những nguyên bào sợi không được nuôi dưỡng đủ bằng cơ chất và năng lượng
sẽ tạo lên những sợi và chất cơ bản không bền vững, rồi chết đi [15],[27].
Bắt đầu từ sau tuổi 30, ranh giới giữa nhân nhầy và vòng sợi kém rõ,
cấu trúc của vòng sợi thô hơn, nhân nhầy vẫn còn khả năng căng phồng. Đĩa
đệm màu trắng vàng, từng chỗ có thể thấy những kẽ nứt hoặc rách hình tia. Ở
phía sau đĩa đệm trở lên mỏng hơn, trên mặt cắt đứng dọc chiều cao đĩa đệm
ở phía sau thấp hơn so với phía trước từ 2- 3mm [15].
Ở tuổi sau 40, quá trình thoái triển cấu trúc ở trong giai đoạn đầu của sự
mất nước, biểu hiện bằng sự xoá nhoà ranh giới giữa vòng sợi và nhân nhầy và
những lá mỏng của vòng sợi có bờ viền sắc cạnh. Bằng kỹ thuật sắc kí và miễn
dịch huỳnh quang tác giả Adams (1982) đã thấy rõ sự có mặt của Collagen type
III ở vòng sợi đã thoái hoá, có khả năng nó giữ một vai trò tạo nên TVĐĐ [15].
Bằng thí nghiệm vi điện tử Lanhmen (1966) quan sát thấy trong tổ chức của đĩa

đệm có những sợi nhỏ không đều đặn, sắp xếp không có trật tự theo cấu trúc,
với những thay đổi độ dày và vân ngang [15],[27].
Sau 60 tuổi, đĩa đệm đã có những biến đổi rõ rệt. Trên đại thể đĩa đệm
trở lên đục, sự căng phồng hầu như mất đi, ranh giới giữa vòng sợi và nhân
nhầy khó phân biệt được. Nhân nhầy trở lên mủn, có những chỗ màu đỏ sẫm,
những chỗ rách hình tia và tách biệt với vòng sợi.
Sự thay đổi về hình thái học có liên quan đến thoái hoá đĩa đệm đã
được Boos và cộng sự khái quát lại trong công bố trên tạp chí Spine (2002),
các tác giả đã tìm thấy mối liên hệ giữa những biến đổi hình thể và tuổi tác.
Ngay cả với những đĩa đệm của trẻ 2 tuổi cũng đã bắt gặp một số vết nứt nhỏ
và có những thay đổi tổ chức hạt trong nhân nhầy [28].
Quá trình huỷ hoại tổ chức kéo dài dẫn đến các đốt sống lân cận sẽ bị
lôi cuốn vào quá trình thoái hoá tiếp theo. Vì trong giai đoạn thoái hoá này có
cả sự biến đổi của xương nên được gọi chung là thoái hoá xương sụn. Ở


19
những tấm sụn ở trên và dưới của thân đốt, xuất hiện những chỗ dày xơ cứng
với bờ diềm không đều và khu vực xơ cứng chỉ hạn chế ở những phần cạnh
của tấm sụn thân đốt. Tình trạng tan rã và mất trương lực tổ chức sẽ dẫn đến
sự lỏng lẻo của khoang gian đốt sống. Do đó những dây chằng liên đốt sống
bị giằng kéo quá sức, trước hết là những dây chằng dọc trước, dây chằng này
chỉ phủ qua đĩa đệm và bằng những sợi Sharpey ở thân đốt sống và bám vào
bờ rìa thân đốt. Ở điểm này xuất hiện những phản ứng xương rồi sẽ tiếp tục
phát triển dọc theo dây chằng và hình thành lên gai đốt sống. Gai đốt sống,
lúc đầu xuất hiện ở phương nằm ngang, sau phát triển theo phương dọc, chỉ
cư trú ở dây chằng dọc, ở bờ trước và bên thân đốt. Những kích thích gây phát
triển xương đó ngày càng phát triển sẽ tạo nên một quá trình hình thành gai
bờ thân đốt sống, được gọi là quá sản xương đốt sống.
• Biến đổi sinh hoá và cân bằng thẩm thấu

Song song với những thay đổi về hình thái của khoang gian đốt sống là
sự giảm tỷ lệ nước kèm theo những thay đổi về thành phần hoá học. Một dấu
hiệu đặc trưng của sự lão hoá là giảm mức tỉ lệ nước. Theo Keyes và
Compere (1992) trong khi đĩa đệm của trẻ sơ sinh chứa 88% nước, ở trẻ 12
tuổi là 83%, ở người 72 tuổi chỉ còn 70% [15]. Nhân nhầy đĩa đệm trong
những năm đầu cuộc đời chứa nhiều nước hơn ở vòng sợi, nhưng sau này sự
chênh lệch đó ngày càng nhỏ đi. Với sự mất nước, các tổ chức ở khoang gian
đốt sống kém được nuôi dưỡng hơn, bởi vì nước không chỉ là thành phần cấu
tạo của các phân tử lớn trong đĩa đệm, mà còn là phương tiện vận chuyển các
chất và các sản phẩm bị đào thải trong quá trình chuyển hoá.
Tuổi càng tăng, cấu trúc khuôn hữu cơ đĩa đệm cũng có sự thay đổi,
trước hết là sự thay đổi của Collagen và Mucopolysaccharit. Mặc dù mật độ
Collagen thay đổi cùng với quá trình thoái hoá nhưng không thực sự rõ rệt
như những thay đổi của Mucopolysaccharit. Sự thay đổi thực về số lượng


20
Collagen có thể không chắc chắn xảy ra, song những thay đổi về tỷ lệ các Type
Collagen và kiểu phân bố là điều chắc chắn. Những thay đổi đó đôi khi chỉ đơn
thuần là biến động tỷ lệ giữa các thành phần Collagen và cách sắp xếp chúng
trong cấu trúc khuôn hữu cơ. Trong đó loại collagen sợi nhỏ (Type II) là có
biến đổi cấu trúc mạnh nhất dưới tác động của enzyme đồng thời số lượng
Collagen type II bị biến đổi cấu trúc cũng tăng lên nhiều. Bên cạnh đó, các chất
vi lượng cũng có những thay đổi tuy không thực sự rõ rệt, trong đó tỷ lệ canxi
được tăng lên gấp đôi trong suốt cuộc đời, tỉ lệ kali giảm dần bởi sự giảm số
lượng tế bào, tỉ lệ magie giảm trong 17 năm đầu sau đó lại tăng dần lên [15].
Qua sự phân hoá tiếp tục bởi các enzyme những sản phẩm phân tách
của các phân tử lớn trong đĩa đệm ngày càng nhỏ đi với trọng lượng phân tử
thường dưới 400 đơn vị, nên chúng có thể đi qua những lớp bán thấm của
khoang gian đốt sống. Theo quy luật nếu không có những phân tử lớn phù

hợp được tạo ra ở khoang bên trong đĩa đệm thì áp lực keo trong đĩa đệm sẽ
ngày càng giảm đi khi tuổi càng tăng. Để cân bằng quy luật chuyển hoá
trong đĩa đệm, tỷ lệ nước và khả năng hấp thu nước giảm là do sức hút của
tổ chức đĩa đệm đã bị suy yếu, từ đó dẫn đến giảm thể tích và chiều cao
khoang gian đốt sống.
1.7. Các phương pháp điều trị TVĐĐ cột sống thắt lưng.
Trên 90% tổng số bệnh nhân TVĐĐ CSTL được điều trị bảo tồn,
khoảng 5-10% số bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật. Ngày nay, với tiến
bộ của các phương pháp điều trị bảo tồn thì TVĐĐ được điều trị hiệu quả
ngày càng cao [2],[29]. Điều trị bảo tồn TVĐĐ bao gồm: Chế độ vận động
hợp lý, thuốc chống viêm, giảm đau, vitamin liệu pháp (vitamin nhóm B liều
cao), tiêm ngoài màng cứng, các phương pháp vật lý trị liệu, kéo giãn cột
sống, các bài tập cột sống, áo nẹp cột sống thắt lưng đã đem lại kết quả tốt
[30],[31],[25].


21
1.7.1. Điều trị bảo tồn.
1.7.1.1. Chế độ vận động, nghỉ ngơi.
Trong giai đoạn cấp, bệnh nhân nằm nghỉ ngơi trên giường cứng 3-5
ngày, có tác dụng làm giảm áp lực lên đĩa đệm vùng cột sống thắt lưng, tạo
điều kiện tái tạo tổ chức, giảm đè ép lên rễ thần kinh tọa tránh cho TVĐĐ
nặng thêm. Sau thời gian cấp tính, cần thiết phải tiến hành thể dục điều trị
sớm. Mục đích nhằm cải thiện chức năng các khối cơ giữ tư thế cho cột sống
thắt lưng, chống teo cơ và phục hồi sự dẫn truyền thần kinh cơ ở chi dưới
[15],[32],[31].
1.7.1.2. Điều trị bằng thuốc.
Thường dùng thuốc chống viêm giảm đau không Steroid đường uống
hoặc đường tiêm, liều lượng phụ thuộc từng bệnh nhân, cần chú ý tác dụng
phụ của thuốc.

Thuốc giãn cơ: Làm giãn cơ, gia tăng tuần hoàn, giảm đau, thuốc tác
dụng chủ yếu vào khối cơ cạnh cột sống.
Vitamin nhóm B: Vitamin nhóm B liều cao có tác dụng giảm đau, chống
viêm, chống thoái hóa thần kinh (Vitamin B1, Vitamin B6, Vitamin B12).
Phong bế tại chỗ: Tiêm Novocain 2%, Lidocain 3% hoặc Corticoid vào
các điểm đau cạnh sống.
Phong bế ngoài màng cứng: Tiêm vào hốc xương cùng cụt hoặc qua các
lỗ cùng. Tiêm Corticoid liều 5-7ml trong một lần tiêm, có thể tiêm từ 3-5 lần
cách nhau 3-5 ngày. Phương pháp này có tác dụng chống viêm và giảm đau,
không có tác dụng làm liền đĩa đệm thoát vị và phải đảm bảo nguyên tắc vô
trùng, an toàn khi tiến hành thủ thuật [15],[33].


22
1.7.1.3. Vật lý trị liệu
Bao gồm các phương pháp nhiệt trị liệu, điện trị liệu, xoa bóp, kéo
giãn, sử dụng áo nẹp cột sống, bài tập vận động kèm theo hướng dẫn các tư
thế đúng trong sinh hoạt hàng ngày.
* Nhiệt trị liệu: Được chỉ định trong giai đoạn cấp, có tác dụng giãn
cơ, gia tăng tuần hoàn do giãn mạch, tăng chuyển hóa và dinh dưỡng tại chỗ,
có tác dụng giảm đau. Thường dùng Paraphin, hồng ngoại, túi chườm nóng.
* Điện trị liệu:
- Dòng cao tần trị liệu (sóng ngắn): Do năng lượng điện khi vào cơ thể
chuyển thành năng lượng nhiệt và gây ra tác dụng sinh học tại chỗ làm giãn
cơ, giãn mạch, tăng chuyển hóa, tăng nhu cầu Oxy do tăng hoạt tính mao
mạch làm giảm đau, tăng dẫn truyền thần kinh cơ.
- Dòng điện phân: Dùng dòng một chiều đều Galvanic đưa thuốc vào
vùng điều trị, có tác dụng giảm đau. Điện phân dẫn thuốc là phương pháp đưa
thuốc vào cơ thể bằng dòng điện một chiều. Phương pháp này nhằm kết hợp
tác dụng của dòng Galvanic và tác dụng của các ion thuốc sẵn có. Phương

pháp điều trị này có ưu điểm là đưa một lượng thuốc nhỏ nhưng có hoạt tính
cao, tập trung vào vùng cần thiết và thời gian thải trừ chậm. Dòng Galvanic
có tác dụng làm dịu các đầu dây cảm thụ ở da, với các kích thích nhỏ, có thể
làm thoái triển được các kích thích mạnh do quá trình bệnh lý tạo nên, do vậy,
có tác dụng giãn cơ, giảm co thắt, giảm đau, tăng dinh dưỡng tổ chức, giảm
kích thích và chèn ép rễ thần kinh [34].
- Dòng điện xung: Dòng điện xung là dòng điện luôn thay đổi cường
độ, dòng này do nhiều xung điện liên tiếp tạo nên. Chúng có tác dụng tăng
cường chuyển hóa, chống đau, kích thích thần kinh cơ, chống teo cơ [35].
- Dòng giao thoa: Đặc điểm dòng này phát sinh trong các lớp tổ chức
chúng đi qua, vì vậy ít gây kích thích da, có tác dụng chọn lọc các tổ chức ở


23
sâu như cơ, xương, thần kinh…, có tác dụng chống viêm, giảm đau, kích thích
tái tạo tổ chức.
* Xoa bóp: Dưới tác dụng cơ học, tạo ra kích thích được dẫn truyền lên
vỏ não qua tủy sống, tạo cảm giác thư giãn tại chỗ và tinh thần, làm giãn cơ,
giãn nở các mạch máu ở nông, giảm đau.
* Kéo nắn trị liệu: Đây là thao tác do người thầy thuốc thực hiện để
phát hiện sự tắc nghẽn khớp, đồng thời dùng thao tác để xóa bỏ sự tắc nghẽn
đó. Phương pháp này cũng được sử dụng để điều trị những trường hợp đau
thắt lưng, đau thần kinh tọa, thoát vị đĩa đệm [36].
* Kéo giãn cột sống thắt lưng: Dưới tác dụng của lực kéo cơ học vào
vùng cột sống làm rộng khoang gian đốt, giảm áp lực lên khoang gian đốt,
giảm áp lực nội đĩa đệm tạo điều kiện cho nhân nhầy dịch chuyển về vị trí cân
bằng động, các vòng sợi trở lại vị trí cũ, giải phóng được các rễ thần kinh và
mạch máu bị đè ép, khôi phục lại sự cân bằng lực của các hệ thống dây chằng
và cơ liên quan, tạo điều kiện phục hồi lại đường cong sinh lý của cột sống
[37],[34],[38].

1.7.1.4. Điều trị bằng y học cổ truyền: Sử dụng các phương pháp châm cứu,
xoa bóp bấm huyệt kết hợp thuốc đông y.
1.7.1.5. Bài tập phục hồi chức năng vùng cột sống thắt lưng.
Các bài tập cột sống thắt lưng được áp dụng cho các bệnh nhân đau thắt
lưng mạn tính hoặc để dự phòng đau thắt lưng tái phát do thoái hoá đĩa đệm
hoặc thoát vị đĩa đệm nhẹ và vừa. Trong đó có bài tập tác dụng làm giãn cột
sống, tác dụng tương tự như kéo giãn cột sống thắt lưng, có bài tập làm mạnh
các cơ thành bụng và khối cơ lưng, giúp giữ vững cột sống thắt lưng. Các bài
tập đều có tác dụng tăng cường dinh dưỡng cho đĩa đệm, phục hồi chức năng
vận động của cột sống. Cần tập hằng ngày, mỗi ngày một đến hai lần, mỗi lần
30 phút, mỗi tuần ít nhất năm ngày. Với người đau thắt lưng cần tập một đợt ít


24
nhất hai tháng. Một người tập luyện đều đặn sẽ duy trì được một cột sống trẻ
lâu, chậm thoái hóa đĩa đệm, khả năng chịu đựng lực trọng tải của cột sống tốt
hơn, các động tác trở nên thuần thục, có khả năng tránh được các tổn thương
do các chấn thương hoặc các động tác sai tư thế đến bất ngờ trong lao động
hoặc sinh hoạt. Với những người cao tuổi, phụ nữ sau mãn kinh, tập luyện còn
làm giảm được bệnh lý loãng xương.
Theo Carolin D [39], tổ chức liên kết (gân, dây chằng, bao khớp và cân cơ)
khi bị co rút được coi là yếu tố chủ yếu làm hạn chế tầm vận động cột sống. Để
vượt qua tình trạng co rút của tổ chức liên kết, việc vận động lặp đi lặp lại hàng
ngày là cần thiết để hồi phục và duy trì tầm vận động bình thường của CSTL.
Chương trình Williams [40] dùng để điều trị đau lưng mạn tính, những
động tác nhằm kéo giãn nhóm cơ duỗi lưng, nhóm cơ gập khớp háng, đồng
thời làm mạnh cơ bụng và cơ lưng. Khi đau mạn tính, xương chậu thường bị
xiên về phía trước làm cho CSTL cong theo, thiếu cân bằng của nhóm cơ vận
động cột sống tạo tư thế mất cân đối và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh
cơ học vùng thắt lưng, gây triệu chứng đau và hạn chế tầm vận động CSTL.

Phương pháp tập McKenzie với các bài tập duỗi cột sống theo nguyên
tắc “đau giảm khi ưỡn thắt lưng tăng”. Khi duỗi cột sống thì độ ưỡn CSTL
tăng, cột sống sẽ bị khóa chặt ở phía sau giúp ngăn ngừa đĩa đệm lồi ra sau,
có tác dụng điều trị, điều này phù hợp với cơ chế, sinh cơ học của thoát vị đĩa
đệm[41]. Một số tác giả đã nghiên cứu, áp dụng các bài tập duỗi McKenzie và
các kết quả đem lại là khả quan [42],[43],[44],[45],[46].
1.7.2. Điều trị can thiệp
- Phương pháp làm tiêu nhân bằng hóa chất: bằng đường bên, không
cần phải mổ, đưa hóa chất là Chymopapain vào đĩa đệm thắt lưng qua da. Tuy


25
phương pháp này có kết quả nhưng sau đó một số trường hợp đĩa đệm bị thoái
hóa nên không được áp dụng rộng rãi [22].
- Phương pháp giảm áp đĩa đệm bằng Laser qua da: Nguyên lý của
phương pháp này là dùng năng lượng của tia laser để đốt cháy và làm bốc bay
một phần nhân nhầy đĩa đệm. Nhờ vậy áp lực nội đĩa đệm và thể tích đĩa đệm
giảm đi, rễ thần kinh được giải phóng khỏi sự chèn ép, vì thế bệnh nhân đỡ
đau. Tuy nhiên, thời gian thực hiện kéo dài, phương tiện cồng kềnh, có thể gây
tổn thương các tạng trong ổ bụng hoặc gây tổn thương rễ thần kinh, mạch máu.
- Phương pháp điều trị TVĐĐ bằng sóng Radio: Đây là phương pháp
can thiệp qua da điều trị đau thắt lưng do căn nguyên đĩa đệm hoặc thoát vị
còn chứa nhân nhầy gây chèn ép rễ. Hiện nay, đa số các nghiên cứu cho thấy
phương pháp này có tác dụng làm giảm áp lực nội đĩa đệm ở những đĩa đệm
thoái hóa nhẹ hoặc đĩa đệm bình thường chưa thoái hóa, còn với trường hợp
thoái hóa nặng thì hiệu quả không cao.
- Phương pháp phẫu thuật [12]: Mục đích là lấy bỏ nhân nhầy đĩa đệm
chèn ép vào tủy hoặc rễ thần kinh mà không gây tổn thương cấu trúc thần kinh
và đảm bảo sự vững chắc của cột sống, được chỉ định trong các trường hợp sau:
+ Hội chứng đuôi ngựa

+ Thiếu sót thần kinh nặng: Thoát vị ép rễ gây yếu và teo cơ nhiều, liệt
các cơ quan trọng như cơ tứ đầu đùi, cơ chày trước…
+ Điều trị bảo tồn tích cực trong 6 tuần không đỡ
+ TVĐĐ tái phát nhiều lần không đáp ứng với điều trị bảo tồn nữa.
- Phương pháp thay đĩa đệm nhân tạo: Được chỉ định bệnh nhân TVĐĐ
điều trị nội khoa thất bại nhưng có nhược điểm là có thể dị ứng, nhiễm trùng,
nhân nhầy di lệch và không áp dụng cho các trường hợp thoái hóa đốt sống


×