Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

THỰC TRẠNG CHĂM sóc sức KHỎE và sự CHẤP NHẬN đối với một số mô HÌNH CHĂM sóc sức KHỎE của NGƯỜI CAO TUỔI tại TRUNG tâm DƯỠNG lão DIÊN HỒNG THÀNH PHỐ hà nội năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.45 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ MINH ĐẠT

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ
SỰ CHẤP NHẬN ĐỐI VỚI MỘT SỐ MÔ HÌNH CHĂM
SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI
TRUNG TÂM DƯỠNG LÃO DIÊN HỒNG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI NĂM 2017

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
KHÓA 2011 - 2017

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ MINH ĐẠT

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ
SỰ CHẤP NHẬN ĐỐI VỚI MỘT SỐ MÔ HÌNH CHĂM
SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI


TRUNG TÂM DƯỠNG LÃO DIÊN HỒNG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI NĂM 2017

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
KHÓA 2011 - 2017

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG VỮNG

HÀ NỘI – 2017


Xác nhận của chủ tịch hội đồng chấm khóa luận

PGS. TS. NGÔ VĂN TOÀN


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Viện Đào tạo Y học dự phòng
và Y tế công cộng đã cho em những giờ giảng hay, những bài học chuyên ngành ý
nghĩa và đầy hấp dẫn.
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn Dân Số vì
những kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập vừa qua, cũng như sự
giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình làm khóa luận tốt nghiệp của em.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đăng Vững đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong thời gian thực hiện khóa luận tốt
nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ông Đỗ Trần Hồ Thắng – giám đốc

trung tâm dưỡng lão Diên Hồng và các cán bộ nhân viên của trung tâm đã
nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện để việc thu thập số liệu của em được nhanh
chóng và thuận tiện.
Cuối cùng, em xin gửi tấm lòng biết ơn tha thiết và sâu sắc nhất tới gia
đình thân yêu cùng những người bạn trong lớp đã luôn luôn sát cánh, ủng hộ
và khuyến khích em trong suốt quá trình học tập.
Hà Nội, ngày 5 tháng 6 năm 2017
Sinh viên
Lê Minh Đạt


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh Phúc

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:





Ban giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội
Phòng đào tạo Đại học trường Đại học Y Hà Nội
Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng trường Đại học Y Hà Nội
Hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp
Em là Lê Minh Đạt, sinh viên tổ 30 lớp Y6H trường Đại học Y Hà Nội.

Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do tự bản thân em
thực hiện. Các số liệu trong bản khóa luận này là hoàn toàn trung thực và
chưa từng được công bố tại công trình nghiên cứu khoa học khác.


Hà Nội, ngày 5 tháng 6 năm 2017
Sinh viên

Lê Minh Đạt


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHYT
CBYT
CĐ-ĐH
CSSK
ĐTĐ
NCT
TBMMN
THA
THCS
THPT
WHO

Bảo hiểm Y tế
Cán bộ Y tế
Cao Đẳng – Đại học
Chăm sóc sức khỏe
Đái tháo đường
Người cao tuổi
Tai biến mạch máu não
Tăng huyết áp
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông

World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


10

ĐẶT VẤN ĐỀ
Người cao tuổi trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang
có xu hướng tăng nhanh. Đây là mối quan tâm chung của nhiều quốc gia
trên thế giới. Riêng ở nước ta, vấn đề chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đã
và đang được xã hội hết sức quan tâm. Trên thế giới, có khoảng 901 triệu
người từ 60 tuổi trở lên, chiếm tỷ lệ 12% dân số toàn cầu và dự báo tới năm
2030 sẽ tăng tới 1,4 tỉ [1]. Tổ chức Y tế thế giới đề ra mục tiêu chăm sóc
sức khỏe cho người cao tuổi là nâng cao tuổi thọ, chất lượng cuộc sống,
duy trì khả năng lao động và hội nhập với xã hội [1]. Theo Điều tra Dân số
và nhà ở giữa kỳ Việt Nam 2014, số lượng NCT nước ta là 9,4 triệu người,
chiếm tỷ lệ 10,3% dân số cả nước. Dự báo tỷ lệ này có thể lên tới 22% vào
năm 2050. Tại Việt Nam, đa số người cao tuổi sống tại nông thôn, có thu
nhập thấp nên không có điều kiện chăm sóc sức khỏe [2]. Người cao tuổi
Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước. Chính vì vậy, chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần

và sức khoẻ cho người cao tuổi là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn xã hội,
bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước và ngành Y tế rất quan tâm tới vấn đề này.
Hiện nay, một trong những định hướng chính sách cho NCT là khuyến
khích các tổ chức mở rộng các dịch vụ và mô hình CSSK để đáp ứng nhu
cầu của NCT có nguồn thu nhập khác nhau [3].
Do các đặc điểm về sinh lý và miễn dịch, người cao tuổi là đối tượng
dễ bị mắc bệnh và có nhiều vấn đề sức khoẻ thể chất, tinh thần hơn so với các
lứa tuổi khác. Nhu cầu CSSK của NCT là rất lớn, cần có các giải pháp hợp lý
để NCT tự giữ gìn và nâng cao sức khỏe của mình cũng như nhận được sự hỗ
trợ cần thiết từ gia đình và xã hội [3]. Tuy nhiên khi nền kinh tế phát triển
cùng với xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta ngày càng bận rộn
với công việc, ít có thời gian chăm sóc và phụng dưỡng ông bà, cha mẹ. do đó


11

nhiều dịch vụ và các mô hình CSSK cho NCT đã hình thành và phát triển
nhanh chóng [4].
Các mô hình Viện dưỡng lão hay các trung tâm CSSK rất phổ biến và
được ưa chuộng trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển tuy nhiên tại Việt
Nam những mô hình này còn khá mới mẻ và chưa được nhiều người biết đến.
Trung tâm dưỡng lão Diên Hồng, Hà Đông, Hà Nội được thành lập từ tháng 9
năm 2014 là một trong các trung tâm dưỡng lão hiện đại và tiện nghi nhất,
đáp ứng được các nhu cầu CSSK của NCT [5]. Tại Việt Nam, trong những
năm gần đây, số lượng các trung tâm CSSK ngày càng nhiều hơn, nhưng có rất
ít nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng chăm sóc sức khỏe của các trung tâm này.
Cùng với sự phát triển của mô hình trung tâm CSSK còn có một số mô hình
CSSK khác được nhắc đến trong Luật Người cao tuổi năm 2009, liệu NCT đã
biết đến các mô hình này hay chưa, sự chấp nhận của họ đối với các mô hình
đó như thế nào hiện vẫn còn đang là vấn đề mới cần được tìm hiểu thêm.

Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
“Thực trạng chăm sóc sức khỏe và sự chấp nhận đối với một số mô
hình chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại trung tâm dưỡng lão Diên
Hồng, thành phố Hà Nội năm 2017”
với các mục tiêu sau:
1.

Mô tả thực trạng sức khỏe và chăm sức khỏe người cao tuổi tại trung

2.

tâm dưỡng lão Diên Hồng, thành phố Hà Nội năm 2017.
Mô tả nhu cầu và sự chấp nhận đối với một số mô hình chăm sóc sức
khỏe của người cao tuổi tại trung tâm dưỡng lão Diên Hồng, thành phố
Hà Nội năm 2017.


12

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Người cao tuổi và vấn đề già hóa dân số:
1.1.1. Định nghĩa người cao tuổi:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về người cao tuổi. Tại hội nghị quốc tế
về người già tại Viên (Áo) năm 1982, các quốc gia tham dự đã thống nhất quy
định “những công dân từ 60 tuổi trở lên được xếp vào nhóm người già”. Tuy
nhiên, một số quốc gia vẫn lấy mốc 65 tuổi để tính mốc tuổi già [6],[7]. Trước
đây người ta hay dùng thuật ngữ “người già” để chỉ những người có tuổi, hiện
nay thuật ngữ “người cao tuổi” được dùng phổ biến hơn.

Tại nước ta, theo luật Người cao tuổi (thông qua ngày 23 tháng 1 năm
2009) thì người cao tuổi là những người đủ 60 tuổi trở lên [8].
Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) [9] phân chia các lứa tuổi như sau:





Người trung niên: Từ 45 tuổi đến 59 tuổi
Người có tuổi: Từ 60 tuổi đến 74 tuổi
Người già: Từ 75 tuổi đến 90 tuổi
Người già sống lâu: Từ 90 tuổi trở lên
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng cách phân chia này,

trong đó có Việt Nam.
1.1.2. Già hóa dân số:
1.1.2.1. Khái niệm già hóa dân số:
Khái niệm già hóa dân số chỉ quá trình già của dân số, khi trong cơ cấu
dân số số người cao tuổi chiếm tỷ lệ ngày càng tăng lên. “Già hóa dân số” là
khi tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 7% tổng dân số trở lên; hoặc khi tỷ
lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm từ 10% tổng dân số trở lên [10]


13

Khi đó mỗi quốc gia đều phải đối mặt và giải quyết hàng loạt các vấn
đề liên quan đến già hóa dân số như: dịch vụ CSSK cho NCT ngày càng tăng,
nhóm dân số trong độ tuổi lao động giảm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng về
kinh tế... [11],[12].
1.1.2.2. Người cao tuổi trên Thế Giới:

Do sự phát triển của kinh tế xã hội nói chung, của khoa học kỹ thuật
nói riêng, trong đó có y học, tuổi thọ con người ngày càng được cải thiện và
số lượng NCT ngày càng gia tăng. Theo công bố của Liên Hợp Quốc năm
1950 trên thế giới có 214 triệu người 60 tuổi trở lên. Đến năm 1975, trên thế
giới có 350 triệu người, chiếm 9,1% dân số. Năm 2000, con số đó đã là 590
triệu người, ước tính đến năm 2025 là 1120 triệu người, chiếm tỷ lệ 14% dân
số Thế giới [13],[14].
Bảng 1.1: Số lượng và tỷ lệ NCT trên Thế giới
Chỉ tiêu

1950

1975

2000

2025

2050

Số dân (triệu người)

2500

3900

6080

8000


9150

Số người cao tuổi (triệu
người)

214

350

590

1120

2000

Tỷ lệ NCT (%)

8,6

9,1

9,7

14,0

23,0

Số NCT ở các nước giàu
(triệu người)


95

166

230

315

400

Số NCT ở các nước
nghèo (triệu người)

119

180

360

805

1600

(Nguồn: Liên Hợp Quốc, World Population Prospects. The 2011 revision) [14]
Như vậy ta có thể thấy rằng tỷ lệ NCT trên Thế Giới đang ngày càng
gia tăng và đa số NCT lại sống tại khu vực các nước có thu nhập thấp. Chính
vì vậy việc CSSK cho NCT càng gặp nhiều khó khăn [15].


14


1.1.2.3. Người cao tuổi tại Việt Nam:
Cùng với xu hướng chung của Thế giới, quá trình già hóa dân số ở Việt
Nam cũng diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn. Ở Việt
Nam, tuổi thọ trung bình đã tăng nhiều, theo kết quả của Tổng cục thống kê
năm 2014, tuổi thọ trung bình của người Việt là 73,2 tuổi, trong đó nam là
70,6 tuổi và nữ là 76,0 tuổi. Dự báo tới năm 2020, tỷ lệ NCT sẽ chiếm
11,24% dân số cả nước [2].
Bảng 1.2 Người cao tuổi ở Việt Nam
Năm

Số lượng

Tỷ lệ

(Triệu người)

(%)

1979

3,71

6,9

1989

4,64

7,2


1999

6,19

8,12

2009

7,67

8,93

2011

8,65

9,9

2020

11,125

11,24

(Nguồn: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở giữa kì Việt Nam năm 2014,
Tổng cục thống kê) [2]
Năm 2011, với tỉ lệ NCT trên 65 tuổi đạt 7%, Việt Nam chính thức
bước vào giai đoạn già hóa dân số [10]. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, những người trẻ có xu hướng tìm kiếm các công

việc làm cả ngày, mang lại thu nhập cao, chính vì vậy họ không có thời gian
chăm sóc cho NCT trong gia đình. Thực tế này đòi hỏi cần có các chính sách
CSSK cần được đẩy mạnh hơn nữa, phù hợp với NCT đặc biệt là những NCT
cô đơn, không nơi nương tựa, NCT có hoàn cảnh khó khăn [11] .


15

1.2. Chăm sóc sức khỏe cho NCT:
1.2.1. Các vấn đề sức khỏe của NCT:
Theo định nghĩa của WHO, sức khỏe là trạng thái hoàn toàn thoải mái về
thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh và thương tật [16].
Già không phải là bệnh mà tuổi già tạo điều kiện cho bệnh dễ phát sinh.
Người già sỡ dĩ mắc bệnh là do các chức năng các bộ phận bị rồi loạn, sức đề
kháng suy giảm. Khi người già mắc bệnh, triệu chứng không điển hình, không
rõ rệt. Cơ thể người già có thể cùng một lúc mắc nhiều loại bệnh làm cho việc
chẩn đoán gặp một số khó khăn nhất định [9].
1.2.1.1 Các bệnh mãn tính:
Bệnh mãn tính là là bệnh tiến triển kéo dài hoặc hay tái phát, thời gian
bệnh từ 3 tháng trở lên và do các bác sĩ chẩn đoán. Bệnh mạn tính không thể
ngừa bằng vắc xin, không thể chữa khỏi hoàn toàn và cũng không tự biến mất.
Bệnh mạn tính phần lớn là bệnh không lây nhiễm, không do vi khuẩn, vi rút,
ký sinh trùng hoặc nấm gây nên [17].
Steven L.Phillips [14] đã tiến hành nghiên cứu với đối tượng là NCT sống
tại Mỹ, ông đã thống kê các bệnh mãn tính thường gặp của NCT bao gồm:

Bảng 1.3: Các bệnh mãn tính thường gặp của NCT tại Mỹ
Bệnh tiểu đường

15-25%


Tăng huyết áp

10-15%

Bệnh mạch vành

10-14%

Viêm khớp

10-13%

Trầm cảm

3-5%


16

Tại Việt Nam, Phạm Thắng và Đỗ Thị Khánh Hỷ [18] cũng đã chỉ ra
các bệnh mãn tính thường gặp của NCT, đó là :
Bảng 1.4: Các bệnh mãn tính thường gặp của NCT tại Việt Nam
Bệnh mãn tính

60-74 tuổi

≥ 75 tuổi

Tăng huyết áp


42,0%

54,6%

Bệnh tiểu đường

5,7%

4,2%

Đục thủy tinh thể

49,3%

9,6%

Ngoài ra, NCT tại Việt Nam còn hay gặp một số bệnh khác như sa sút
trí tuệ, tai biến mạch mãu não, rối loạn lipid máu…[18]
1.2.1.2. Những khó khăn trong hoạt động thường ngày:
Bên cạnh đó, NCT cũng gặp nhiều khó khăn trong các hoạt động
thường ngày, cần được sự giúp đỡ như: đi lại, ăn uống, giảm thị lực, hoạt
động tinh thần, trí nhớ [11],[19].
Nghiên cứu của Phạm Thắng và Đỗ Thị Khánh Hỷ [18] chỉ ra rằng
nguy cơ khuyết tật ở NCT Việt Nam là rất cao, trong đó thường gặp là mất thị
lực và thính lực. Tình trạng này khiến cho NCT bối rối, mất tự tin và ngại
giao tiếp với mọi người xung quanh.
Bảng 1.5: Tỷ lệ khuyết tật ở Người cao tuổi tại Việt Nam [18]
Các khuyết
tật


Không khó khăn Khó khăn Rất khó khăn Không thể
Nhìn (% theo độ tuổi)

60 – 69

80,5

17,9

1,3

0,3

70 – 79

65,2

30,5

3,7

0,7

≥ 80

45,3

41,6


10,9

2,3

1,1

0,2

Nghe (% theo độ tuổi)
60 – 69

89,6

9,1


17

70 – 79

74,4

21,8

3,4

0,5

≥ 80


49,6

37,1

11,5

1,8

Ghi nhớ (% theo độ tuổi)
60 – 69

89,0

9,7

1,1

0,2

70 – 79

74,7

21,5

3,1

0,7

≥ 80


51,2

35,4

10,8

2,5

Qua bảng 1.5 ta thấy xét theo độ tuổi tỷ lệ khuyết tật ở NCT Việt Nam
càng tăng lên, chúng ta cần có các giải pháp và chính sách chăm sóc sức khỏe
hợp lý cho NCT để cải thiện tình trạng này.
1.2.2 Chăm sóc sức khỏe cho NCT:
1.2.2.1 Định nghĩa:
Theo từ điển bách khoa quốc gia, “chăm sóc” là “hoạt động nhằm duy trì,
điều chỉnh vào lúc cần thiết để phục hồi khả năng hoạt động bình thường của cơ
thể, tạo trạng thái thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội” [20]
Chăm sóc sức khỏe cho NCT là phòng chống sự lão hóa sớm, các bệnh
của tuổi già bằng nhiều biện pháp khác nhau qua đó cải thiện tình trạng sức
khỏe, giảm thiểu các bệnh mãn tính và tỉ lệ từ vong ở NCT [21].
1.2.2.2 Các nội dung chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi:
Trên Thế giới, ở các quốc gia phát triển mối quan tâm hàng đầu về sức
khỏe là phòng và điều trị các bệnh mãn tính (tim mạch, ung thư, đái tháo
đường, rối loạn chuyển hóa...) cung cấp dịch vụ CSSK ban đầu, dịch vụ chăm
sóc dài hạn cho NCT. Trong khi các nước đang phát triển phải tiếp tục giải
quyết các bệnh lây nhiễm, suy dinh dưỡng...đồng thời phải đối phó với sự gia
tăng nhanh chóng các bệnh không lây truyền trong điều kiện hệ thống chăm
sóc sức khỏe còn nhiều thiếu thốn [13].



18

Tại Việt Nam, những nội dung chính về CSSK cho NCT đã được nêu
rõ trong Luật người cao tuổi năm 2009 bao gồm:
-

Khám bệnh, chữa bệnh:

NCT cần được khám và kiểm tra sức khỏe định kỳ, người từ 80 tuổi trở
lên được ưu tiên khám chữa bệnh trước các bệnh nhân khác trừ các trường
hợp cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi hay bệnh nhân có khuyết tật nặng. Nhà nước
khuyến khích các tổ chức, cá nhân khám chữa bệnh miễn phí cho NCT.
-

Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú:

Tram y tế xã phường, thị trấn lập hồ sơ quản lý, theo dõi và khám sức
khỏe định kỳ cho NCT. Bên cạnh đó cần tuyên truyền, phổ biến kiên thức về
CSSK cho NCT, giúp NCT phòng bệnh và tự chăm sóc sức khỏe, bao gồm:
dinh dưỡng cho NCT, phòng chống té ngã và chấn thương.
-

Hoạt động văn hóa, giáo dục, thể thao, giải trí và du lịch:

Các địa phương thành lập các Câu lạc bộ NCT, tạo điều kiện thuận lợi
cho NCT tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí và du lịch. NCT
cần có chế độ vận động và rèn luyện hợp lý tùy theo tuổi, giới tính và tình
trạng sức khỏe, tham gia các hoạt động như tập thể dục buổi sáng, tập dưỡng
sinh, đi bộ, tập phục hồi chức năng (PHCN)... [8]
1.3 Nhu cầu và sự chấp nhận của người cao tuổi:

Nhu cầu là một khái niệm mang tính khách quan, có thể được hiểu là
những thiếu hụt về một vấn đề nào đó. Nhu cầu CSSK là người bệnh thực sự
mắc bệnh hoặc cần CSSK, cần được sử dụng các dịch vụ y tế thích hợp để
giải quyết vấn đề sức khỏe đó. Nhu cầu hàng ngày đối với CSSK là phòng
bệnh, phát hiện sớm bệnh, chữa bệnh kịp thời để tránh kéo dài thời gian
chuyển sang mãn tính, di chứng. Thực hiện công tác PHCN, điều dưỡng,
chăm sóc cả tinh thần và thể chất nhằm giúp người bệnh hòa nhập trở lại với
sinh hoạt bình thường của cộng đồng xã hội [13].


19

Nhu cầu CSSK của NCT khác với những nhóm tuổi khác. Bao gồm:
CSSK thể chất, tinh thần, PHCN, dinh dưỡng và môi trường sống. Sự chấp
nhận đối với mô hình CSSK là thái độ đồng ý của NCT đối với chất lượng,
giá thành. khoảng cách và khả năng tiếp cận với cơ sở CSSK của từng người.
Sự chấp nhận còn phụ thuộc vào yếu tố văn hóa, xã hội, trình độ học vấn và
sự hiểu biết về sức khỏe của mỗi cá nhân người cao tuổi [13].
1.4. Các mô hình chăm sóc sức khỏe cho NCT:
1.4.1 Trên thế giới:
1.4.1.1 Mô hình chăm sóc NCT tại nhà:
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, con cái có ít thời gian
chăm sóc cho cha mẹ hơn, mô hình chăm sóc NCT tại nhà đã ra đời và được
áp dụng khá phổ biến ở các nước phát triển [22],[23].
Chăm sóc tại nhà là giúp đỡ và hỗ trợ NCT các nhu cầu chăm sóc xã
hội với các hoạt động sinh hoạt hàng ngày và các hoạt động khác có liên quan
đến: giao tiếp xã hội, tạo năng lực và đào tạo, vận động…diễn ra tại nhà [24].
Tại Thụy Điển, với nền kinh tế phát triển, phúc lợi xã hội cao nên NCT
nhận được nhiều dịch vụ CSSK đa dạng và phù hợp. Mô hình bác sĩ gia đình,
các dịch vụ CSSK tại nhà đóng vai trò quan trọng trong việc phòng bệnh, phát

hiện sớm bệnh tật và quản lý sức khỏe cho NCT [25].
Trong những năm gần đây, thuật ngữ “bác sĩ gia đình” đã xuất hiện
khá phổ biến ở Việt Nam. Khi NCT có vấn đề gì về sức khỏe, họ gọi điện
sắp xếp lịch hẹn, các bác sĩ chuyên khoa sẽ đến khám, cung cấp thuốc và
điều trị tại nhà. Nếu NCT có nhu cầu theo dõi hoặc điều trị bệnh hằng ngày
như truyền, tiêm thuốc, châm cứu sẽ được lập sổ sách theo dõi và thăm
khám bệnh định kì [13].


20

Ưu điểm của mô hình này là phù hợp với những NCT không muốn nằm
viện, tránh các biến chứng không mong muốn do di chuyển mang lại.
Hạn chế của mô hình này là sự dao động của giá dịch vụ phụ thuộc vào
nhu cầu của NCT. Mô hình này chỉ phù hợp với các gia đình có kinh tế khá
giả, không thích hợp với vùng sâu, biên giới, hải đảo, các gia đình có thu nhập
thấp [6],[26].
1.4.1.2 Mô hình tư vấn, khám chữa bệnh từ xa dành cho NCT:
Mô hình tư vấn khám chữa bệnh từ xa áp dụng những tiến bộ về công
nghệ thông tin trong y học. Sử dụng phương tiện công nghệ thông tin để
truyền tải các thông tin y học từ khoảng cách xa đến với các đối tượng, từng
vùng miền khác nhau [13],[27].
Mô hình tư vấn khám chữa bệnh từ xa đã có lịch sử phát triển từ rất
sớm. Tại Nhật Bản, dịch vụ y tế từ xã qua radio đã được giới thiệu lần đầu
tiên vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX. Hiện nay, Nhật Bản đã xây dựng
được nhiều trung tâm tư vấn CSSK NCT từ xa với sự hỗ trợ của viễn thông và
đạt được nhiều kết quả tốt trong chăm sóc sức khỏe ban đầu. Các trung tâm y
tế viễn thông thường xuyên có người trực 24/24 giờ để nhận các thông báo, tư
vấn, hướng dẫn CSSK cho cộng đồng nói chung và tư vấn, hướng dẫn CSSK
cho NCT nói riêng [28] .

Ưu điểm của mô hình Mô hình tư vấn khám chữa bệnh từ xa trong tư
vấn, CSSK NCT là một mô hình hiện đại, qua đó góp phần giảm bớt số lượng
trang thiết bị, nhân lực và các tổ chức y tế, đặc biệt là ở những vùng khó
khăn, vùng xa trung tâm[27] . Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều phương tiện
thông tin đại chúng dành những trang viết, khoảng thời gian quý báu trên
truyền hình để đưa thông tin về y học như Truyền hình Hà Nội có mục Y học
bốn phương, Sức khoẻ trong cuộc sống hôm nay, O2 TV hay các trang web
thảo luận trực tuyến về các kiến thức y học… đã cung cấp một lượng lớn kiến


21

thức nhằm nâng cao sức khỏe cho người dân. Mô hình sử dụng sự chỉ dẫn các
chuyên gia trong nước cũng như nước ngoài từ xa để phẫu thuật những ca khó
được truyền hình trực tiếp thông qua mạng điện tử.
Tuy nhiên, việc triển khai xây dựng mô hình này còn gặp nhiều khó
khăn do vướng mắc về kỹ thuật cũng như sự nhận thức và khai thác công
nghệ thông tin của cộng đồng [13].
1.4.1.3 Mô hình chăm sóc NCT tại cộng đồng:
Khái niệm cộng đồng được hiểu là các quần thể dân cư sinh sống trong
cùng một địa bàn hoặc có khoảng cách địa lý không quá xa so với nơi ở của
NCT. Mô hình CSSK cho NCT tại cộng đồng bao gồm khá nhiều hoạt động
phong phú, nổi bật là hai hoạt động Nhà dưỡng lão do cộng đồng hoặc tổ
chức xã hội thành lập và hoạt động của các nhóm, câu lạc bộ [29].
− Nhà dưỡng lão mang tính “Cộng đồng”: có quy mô nhỏ, huy động tinh


thần tham gia tình nguyện trong công tác chăm sóc, giúp đỡ người cao tuổi.
Hoạt động của các nhóm, câu lạc bộ NCT bao gồm các hoạt động: sinh
hoạt thông tin thời sự; sinh hoạt văn hóa văn nghệ, hoạt động thể dục

thể thao dưỡng sinh, chăm sóc sức khỏe...
Ưu điểm của mô hình CSSK NCT ở cộng đồng là rẻ tiền, phù hợp với

điều kiện và trình độ của NCT ở khu vực nông thôn, đáp ứng được phương
châm xã hội hóa trong công tác CSSK NCT (huy động NCT, gia đình họ
hàng, chính quyền địa phương, chuyên môn và các ban, ngành đoàn thể cùng
tham gia).
Tuy nhiên, hoạt động của mô hình chủ yếu dựa vào đội ngũ tình nguyện
viên tại cộng đồng, nếu không được tổ chức tốt, khơi dậy được sự nhiệt tình,
tâm huyết của các tình nguyện viên, đặc biệt là các thầy thuốc trẻ thì tính bền
vững và hiệu quả của mô hình sẽ không cao [13],[30].


22

1.4.1.4 Mô hình chăm sóc sức khỏe NCT tại bệnh viện:
Ở các nước phát triển phúc lợi xã hội tăng, NCT được chăm sóc miễn
phí tại bệnh viện ngày càng nhiều. Tại Pháp, các bệnh viện lão khoa khám
chữa bệnh cho NCT theo 3 hình thức: ngắn hạn (chữa các bệnh cấp tính, thời
gian điều trị dưới 30 ngày), trung hạn (thời gian điều trị từ 2 đến 6 tháng) và
dài hạn (đối với các bệnh nhân tai biến mạch máu não, hay rối loạn tâm thần)
[7],[20].
Đối với loại mô hình này ở Việt Nam đã hình thành và đi vào hoạt
động, đó chính là Viện Lão khoa TW. Thông qua thẻ BHYT dành cho NCT
diện nghèo, cô đơn và những NCT từ 80 tuổi trở lên được miễn phí khi KCB
tại các bệnh viện. Điều đó góp phần làm tăng thêm niềm tin cho NCT yên tâm
điều trị bệnh tật và sống có ích cho xã hội [13].
Ưu điểm của mô hình này là ở chỗ bệnh viện là cơ sở có chuyên môn
kỹ thuật cao, có các bác sĩ và chuyên gia trong lĩnh vực CSSK, sẵn sàng đáp
ưng nhu cầu khám chữa bệnh của NCT. Tuy nhiên mô hình CSSK tại các

bệnh viện hiện nay chỉ tập trung vào khám và điều trị bệnh cho NCT, chưa
thật sự quan tâm, chăm sóc, hỗ trợ NCT về mặt tinh thần, bên cạnh đó mức
giá khám chữa bệnh và các dịch vụ tại bệnh viện tư nhân còn khá cao so với
thu nhập của người cao tuổi [13],[31].
1.4.2 Tại Việt Nam:
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, tạo điều kiện, mở ra nhiều mô hình
quản lý và CSSK cho NCT phù hợp với từng vùng miền. Tuy nhiên, để phát huy
lâu dài, bền vững và hiệu quả cần có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng.
Các loại hình CSSK cho NCT theo luật NC được Quốc hội thông qua
ngày 23/11/2009 bao gồm:


23

-

Cơ sở bảo trợ xã hội
Cơ sỏ tư vấn, dịch vụ chăm sóc NCT
Cơ sở điều dưỡng chăm sóc NCT [8].

Hiện nay ở Việt Nam có nhiều tên gọi khác nhau được sử dụng như trung
tâm chăm sóc sức khỏe NCT, nhà dưỡng lão, trung tâm nuôi dưỡng NCT… phục
vụ nhiều đối tượng khác nhau. Trong đó có 1 số mô hình nổi bật như:


24

Bảng 1.6: Một số mô hình chăm sóc sức khỏe NCT của Nhà nước [3]
ST
T

1

2

Mô hình

Cơ quan/ tổ
chức thực
hiện

Đối tượng
thụ hưởng

Mục đích

Địa bàn
can
thiệp

Dịch vụ chăm

Các cơ sở y tế

Mọi người

CSSK cho

Toàn

sóc NCT qua


công và tư (do

cao tuổi

NCT

quốc

hệ thống y tế

BộY tế quản
lý)

Trung tâm

Bộ Lao động
-Thương binh


NCT theo

Hỗ trợ,
giảm

Toàn

Bảo trợ xã
hội dành cho
NCT


Xã hội

các tiêu
chuẩn đặc
biệt, NCT

đơn, không
nơi nương

quốc

bớt khó
khăn cho
các nhóm
NCT nghèo
và dễ tổn
thương

tựa
3

Trung tâm
dịch vụ chăm
sóc NCT Đà
Nẵng

Sở Lao Động
-Thương binh
và Xã hội

thành phố
Đà Nẵng

Mọi người

Nâng cao Đà Nẵng
kiến thức
cao tuổi có
và các
tự CSSK và
nhu cầu
thực hành tỉnh phụ
CSSK
cận
việc chăm
sóc sức
khỏe


25

Bảng 1.7 : Một số mô hình CSSK NCT tư nhân
STT

Mô hình

1

Trung tâm
dưỡng lão

Diên Hồng

2

Trung tâm
chăm sóc
NCT Thiên
Đức

Cơ quan/
Đối
tổ chức
tượng thụ
thực hiện
hưởng
Trung tâm NCT, đặc
dưỡng lão biệt NCT
Diên Hồng
cô đơn,
sức khỏe
yếu
Công ty cổ NCT, đặc
phần an
biệt NCT
dưỡng
cô đơn,
Thiên Phúc sức khỏe
yếu

Mục đích


Địa bàn
can thiệp

Đáp ứng nhu
cầu chăm sóc
của các nhóm
dân số cao
tuổi
Đáp ứng nhu
cầu chăm sóc
của các nhóm
dân số cao
tuổi

Hà Nội và
các tỉnh
lân cận
Hà Nội và
các tỉnh
lân cận

1.5. Các nghiên cứu về CSSK NCT tại các cơ sở y tế, cơ sở dưỡng lão trên
Thế giới và tại Việt Nam:
1.5.1 Trên Thế giới:
J Bao, X-J Wang và các cộng sự tiến hành nghiên cứu về tính hiệu quả
của dịch vụ chăm sóc mới dành cho NCT [32], dựa trên mô hình hành vi của
Andersen [33], tìm hiểu về việc sử dụng dịch vụ y tế, tình trạng sức khoẻ và
sự hài lòng của NCT đối với dịch vụ này. Nghiên cứu được tiến hành tại 9
viện dưỡng lão ở Vũ Hán, Trung Quốc với 1067 NCT tham gia, cung cấp

những bằng chứng về sự hiệu quả của mô hình viện dưỡng lão trong việc
CSSK cho NCT [32].
Roberto Bernabei và các cộng sự tiến hành nghiên cứu về tác động của
mô hình chăm sóc và quản lý người lớn tuổi sống tại cộng đồng. Nghiên cứu
được tiến hành trên 200 NCT sống tại thị trấn Rovereto, phía Bắc nước Ý cho
thấy hiệu quả của mô hình chăm sóc sức khỏe cho NCT tại cộng đồng, làm
giảm nguy cơ mắc bệnh, giảm thời gian nằm viện và tiết kiệm chi phí cho
NCT [34].


×