1
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC
T×NH TR¹NG THIÕU M¸U, THIÕU VITAMIN A
Vµ MéT Sè YÕU Tè LI£N QUAN CñA TRÎ 6 – 59 TH¸NG
TUæI
T¹I MéT Sè TØNH MIÒN NóI N¡M 2014 - 2015
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
HÀ NỘI – 2015
2
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC
T×NH TR¹NG THIÕU M¸U, THIÕU VITAMIN A
Vµ MéT Sè YÕU Tè LI£N QUAN CñA TRÎ 6 – 59 TH¸NG
TUæI
T¹I MéT Sè TØNH MIÒN NóI N¡M 2014 - 2015
Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 60720301
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Trần Thúy Nga
PGS.TS. Phạm Văn Phú
HÀ NỘI – 2015
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CC/T
Chiều cao theo tuổi
CN/CC
Cân nặng theo chiều cao
CN/T
Cân nặng theo tuổi
HPCL
High Performance Liquid Chromatography
(Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao)
NCHS
National Center for Health Statistics
SD
(Standard Deviation)
Độ lệch chuẩn
SDD
Suy dinh dưỡng
TTDD
Tình trạng dinh dưỡng
UNICEF
The United Nations Children’s Fund
(Quỹ Nhi Đồng Liên Hợp Quốc)
VCDD
Vi chất dinh dưỡng
WHO
World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)
4
MỤC LỤC
5
DANH MỤC BẢNG
6
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ từ sơ sinh đến 5 tuổi là thời kỳ phát triển thể lực và trí lực quan
trọng, nhiều hệ thống cơ quan của cơ thể được hoàn chỉnh đặc biệt là hệ thống
thần kinh trung ương và hệ vận động. Để đảm bảo cho sự phát triển của cơ
thể, giai đoạn này nhu cầu dinh dưỡng của trẻ cũng tăng cao. Do đó, việc
cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho trẻ trong giai đoạn này là vấn đề hết sức
quan trọng.
Các nghiên cứu trong và ngoài nước về tình trạng dinh dưỡng (TTDD)
trẻ dưới 5 tuổi cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) và thiếu vi chất dinh
dưỡng (VCDD) vẫn đang là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng
(YNSKCĐ). Trong số các VCDD, sắt và Vitamin A là hai loại vi chất quan
trọng thường hay bị thiếu ở trẻ em và có ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe,
bệnh tật của trẻ [1]. Trẻ em là đối tượng có nguy cơ cao bị thiếu vi chất, dù
chỉ thiếu hụt một lượng nhỏ các VCDD và SDD ở giai đoạn này sẽ ảnh hưởng
tới sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tâm sinh lý của trẻ, không những ở hiện
tại mà còn để lại hậu quả nặng nề cho bản thân và xã hội trong tương lai [2].
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội,
Đảng và Nhà nước ta đã triển khai các chính sách y tế nhằm nâng cao sức
khỏe bà mẹ và trẻ em, trong đó các chương trình phòng chống SDD trẻ em và
thiếu VCDD đã đạt được những kết quả khả quan. Tỷ lệ SDD trẻ em đã giảm
xuống một cách đáng kể, năm 2010 là 17,5% SDD thể nhẹ cân, 29,3% SDD
thể thấp còi đến năm 2014 tương ứng giảm còn 14,5% và 24,9%. Mặt khác,
cũng theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng năm 2010 tỷ lệ thiếu máu là
29,4%, tỷ lệ thiếu Vitamin A tiền lâm sàng là 14,2% [3], [4]. Thực trạng SDD
và VCDD tại các vùng nông thôn, miền núi, dân tộc ít người vẫn đang còn là
một vấn đề nổi cộm, cần được quan tâm và khắc phục. Thống kê của Viện
7
Dinh dưỡng năm 2014 cho thấy, tỷ lệ SDD ở một số tỉnh đồng bằng đã giảm
xuống thấp như: Hà Nội 6,1% trẻ SDD thể nhẹ cân và 15,0% trẻ SDD thể
thấp còi, Thành phố Hồ Chí Minh tương ứng là 4,1% và 7,1%. Trong khi đó,
khu vực Tây Nguyên, miền Trung và các tỉnh miền núi phía Bắc tỷ lệ SDD rất
cao: trên 30% trẻ thấp còi và trên 20% trẻ nhẹ cân, như Lai Châu, Hà Giang,
Lào Cai, Đắk Lắk... [4]. Song song với SDD, tình trạng thiếu VCDD tại các
tỉnh miền núi cũng ở mức cao và rất cao mặc dù chương trình bổ sung
Vitamin A liều cao cho trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi vẫn duy trì 2 lần trong năm.
Gần đây đã có nhiều nghiên cứu về TTDD trẻ dưới 5 tuổi và các vấn đề
liên quan tại các địa bàn khác nhau trên cả nước [5], [6], [7], [8]. Những
nghiên cứu này đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong việc
nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em và cải thiện TTDD của trẻ. Hiện nay, các nghiên
cứu vẫn đang được tiếp tục triển khai nhằm phục vụ cho công tác phòng
chống SDD và thiếu VCDD, đặc biệt là tại các khu vực miền núi khó khăn.
Vì vậy, nghiên cứu: “Tình trạng thiếu máu, thiếu Vitamin A và một số
yếu tố liên quan của trẻ 6 – 59 tháng tuổi tại một số tỉnh miền núi năm
2014 - 2015” được tiến hành với các mục tiêu:
1
Đánh giá tình trạng thiếu máu, thiếu Vitamin A của trẻ 6 – 59 tháng
tuổi tại một số tỉnh miền núi năm 2014 - 2015.
2
Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu máu, thiếu Vitamin A
của trẻ 6 – 59 tháng tuổi tại một số tỉnh miền núi năm 2014 - 2015.
8
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tình trạng thiếu máu
1.1.1. Vai trò và nhu cầu của sắt
- Vai trò của sắt trong cơ thể:
Sắt là một trong những chất khoáng rất quan trọng đối với cơ thể. Sắt là
nguyên liệu để tổng hợp nên hemoglobin, có vai trò vận chuyển oxy trong
máu đến các mô trong cơ thể.
Sắt cũng là thành phần của myoglobin, có trong cơ vân, có tác dụng dự
trữ oxy cho hoạt động của cơ vân, chúng sẽ kết hợp với các chất dinh dưỡng
khác để giải phóng năng lượng cho sự co cơ.
Sắt là thành phần cấu tạo của một số loại protein và enzyme, có vai trò
trong quá trình giải phóng năng lượng khi oxy hóa các chất dinh dưỡng và
ATP [9].
- Nhu cầu về sắt:
Nhu cầu về sắt trong cơ thể thay đổi tùy theo độ tuổi, giới và tình trạng
cơ thể đặc biệt ở phụ nữ như khi có thai hoặc khi cho con bú. Chúng ta có thể
tính nhu cầu sắt theo nhu cầu năng lượng hàng ngày của cơ thể và giá trị sinh
học của sắt trong khẩu phần [1].
Bảng 1.1. Nhu cầu khuyến nghị sắt cho trẻ em theo giá trị
sinh học khẩu phần [10]
Nhóm tuổi
1
– 6 tháng
Nhu cầu (mg/ngày)
0,27
7 – 12 tháng
11
1 – 2 tuổi
7
3 – 8 tuổi
10
9
1.1.2. Nguyên nhân thiếu máu
Nguyên nhân thiếu sắt thường liên quan đến chuyển hóa sắt. Có thể phân
thành 4 loại nguyên nhân chính:
-
Cung cấp sắt thiếu: Chế độ ăn thiếu sắt như thiếu sữa mẹ, ăn bột nhiều và
quá sớm, thiếu thức ăn nguồn gốc động vật. Trẻ đẻ non, thiếu cân, sinh
đôi, mẹ chảy máu trước khi đẻ cũng làm cho lượng sắt được cung cấp qua
tuần hoàn nhau thai ít.
-
Do hấp thu kém: như giảm độ toan dạ dày, tiêu chảy kéo dài, hội chứng
kém hấp thu, dị dạng dạ dày, ruột.
-
Mất sắt quá nhiều do chảy máu từ từ qua đường tiêu hóa: như loét dạ dày
– tá tràng, giun móc, polyp ruột,…
-
Nhu cầu sắt cao ở các giai đoạn trẻ lớn nhanh: như giai đoạn trẻ tiền học
đường, dậy thì mà lượng cung cấp không tăng [10].
1.1.3. Phương pháp đánh giá thiếu máu ở trẻ em
- Một số khái niệm thiếu máu thiếu sắt
Thiếu máu dinh dưỡng: Là tình trạng bệnh lý xảy ra khi hàm lượng
Hemoglobin (Hb) trong máu xuống thấp hơn bình thường do thiếu một
hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu, bất kể do
nguyên nhân gì.
Thiếu sắt: Là tình trạng thiếu hụt dự trữ sắt trong cơ thể, có thể biểu
hiện thiếu máu hoặc chưa có biểu hiện thiếu máu.
Thiếu máu do thiếu sắt: Là loại thiếu máu dinh dưỡng hay gặp nhất,
xảy ra cùng một lúc với tình trạng thiếu máu và thiếu sắt. Thiếu máu do thiếu
sắt có thể kết hợp cùng thiếu a.folic, thiếu vitamin B12 [9].
10
- Phương pháp đánh giá thiếu máu thiếu sắt
+ Đánh giá về lâm sàng:
Thiếu máu dinh dưỡng biểu hiện của các triệu chứng của thiếu máu mạn
tính. Bao gồm:
•
•
Da xanh, niêm mạc nhợt
•
Người mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, đau đầu
•
Nhịp tim nhanh, đánh trống ngực
•
Khó thở khi gắng sức, nhịp thở nhanh
Rối loạn tiêu hóa, kém ăn, gầy sút
Đối với trẻ em nhiều khi các dấu hiệu thiếu máu không rõ ràng, chỉ
được phát hiện khi có các bệnh nhiễm trùng khác. Những triệu chứng thiếu
máu ở giai đoạn đầu rất khó phát hiện cho đến khi mức độ thiếu máu nặng
lên [9].
+ Đánh giá về xét nghiệm:
Đánh giá thiếu máu bằng định lượng nồng độ Hemoglobin trong máu
của trẻ. Phân loại mức độ thiếu máu theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) [11]. Trẻ được coi là thiếu máu khi nồng độ Hemonglobin trong
máu dưới 110g/L.
Cụ thể:
Mức độ thiếu máu
Nồng độ Hemoglobin (g/L)
Bình thường
Từ 110 trở lên
Nhẹ
Từ 100 đến dưới 110
Vừa
Từ 70 đến dưới 100
Nặng
Dưới 70
11
1.1.4. Thực trạng thiếu máu của trẻ em dưới 5 tuổi
- Thế giới:
Bệnh thiếu máu ảnh hưởng tới 1,62 tỉ người, tương ứng khoảng 24,8%
dân số. Phổ biến nhất là ở trẻ em lứa tuổi trước khi tới trường (47,4%), và ít
phổ biến nhất là ở nam giới (12,7%) [12].
Bảng 1.2. Tỷ lệ thiếu máu trẻ em dưới 5 tuổi các khu vực
từ năm 1993 đến 2005 [60].
Khu vực
Tỷ lệ (%)
Châu Phi
74,6
Châu Mỹ
76,7
Đông - Nam Á
85,1
Châu Âu
26,5
Phía đông Địa Trung Hải
67,4
Phía tây Thái Bình Dương
90,4
Chung
76,1
Thiếu máu xảy ra ở tất cả các khu vực. Tỷ lệ thiếu máu chung là 76,1%.
Chiếm tỷ lệ thấp nhất là khu vực châu Âu với 26,5%; cao nhất là khu vực phía
tây Thái bình Dương (90,4%); các khu vực còn lại tỷ lệ này cũng rất cao
(châu Phi: 74,6%; châu Mỹ: 76,7%; Đông - Nam Á: 85,1% và phía đông Địa
Trung Hải: 76,4%).Các nước đang phát triển tỷ lệ thiếu sắt thiếu máu ở trẻ em
vẫn rất cao: 53% ở Ấn Độ, 45% ở Indonesia, 37,9% ở Trung quốc, và 31,8%
ở Phillipines, trong khi đó các nước phát triển tỷ lệ này tương đối thấp: Mỹ
(3-20%); Hàn Quốc (15%) [12], [13].
12
- Việt Nam:
Dựa vào kết quả điều tra, tác giả đã ước tính tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em
dưới 5 tuổi từ 30-50% tùy theo vùng và thiếu sắt là nhân tố quan trọng nhất
[14]. Năm 2006, Nguyễn Xuân Ninh và cộng sự điều tra trên 1.775 trẻ em
dưới 5 tuổi tại 6 tỉnh thành đại diện của Việt Nam, kết quả tỷ lệ thiếu máu
trung bình ở trẻ em là 36,7%, tỷ lệ thiếu máu nhiều nhất trong nhóm 6-12
tháng tuổi (56,9%), có xu hướng giảm dần khi tuổi của trẻ tăng lên: 45% ở
nhóm 12 - 24 tháng, 38% ở nhóm 24 - 36 tháng, 29% ở nhóm 36 - 48 tháng,
và 19,9% ở nhóm 48 - 59 tháng. Vùng nội thành tỷ lệ thiếu máu thấp hơn
ngoại thành [15].
Một nghiên cứu khác tại 3 xã ngoại thành và 3 phường nội thành tại Hà
Nội cho thấy, tỷ lệ thiếu máu chung của trẻ dưới 5 tuổi là 34,4%, cao nhất ở
nhóm trẻ dưới 12 tháng tuổi và giảm dần theo độ tuổi của trẻ [16]. Điều tra
tương tự được tiến hành tại Thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy tỷ lệ thiếu máu
của trẻ dưới 5 tuổi là 11,6% [17]. Điều tra năm 2008 trên 8.152 trẻ dưới 5 tuổi
tại 56 tỉnh thành trên cả nước thấy rằng tỷ lệ thiếu máu (Hb < 110g/L) là
29,4%, thuộc mức trung bình về YNSKCĐ [18].
Theo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng 2009 – 2010 cho thấy ở nhóm
tuổi càng nhỏ trẻ càng có nguy cơ thiếu máu cao, và trẻ lớn có ít nguy cơ
thiếu máu hơn: nhóm trẻ 0 - 12 tháng và 12 - 24 tháng có tỷ lệ thiếu máu cao
nhất là 45,3% và 44,4%; trong khi đó ở nhóm 24 - 35 tháng tỷ lệ này chỉ còn
27,5% [3]. Tỷ lệ thiếu máu ở nước ta vẫn ở mức vừa và nặng về YNSKCĐ tại
hầu hết các tỉnh trên các nhóm nguy cơ. Tỷ lệ thiếu máu trung bình ở trẻ em ở
mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng là 36,7%, cao nhất ở Bắc Kạn
73,4%, thấp nhất ở An Giang 17%, Bắc Ninh và Đắk Lắk 25,6%, Hà Nội
32,5%, Huế 38,6%. Tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở nhóm 6 - 12 tháng tuổi, tới
13
56,9%; có xu hướng giảm khi tuổi của trẻ tăng lên: 45% ở nhóm 12 - 24 tháng
tuổi, 38% ở nhóm 24 - 36 tháng tuổi, 29% ở nhóm 36 - 48 tháng tuổi; 19,7%
ở nhóm 48 - 59 tháng tuổi [19],[20],[21]. Điều tra về thiếu máu do thiếu sắt ở
trẻ em của tác giả Lê Thị Hợp năm 2005 tại một số vùng nông thôn ở ngoại
thành Hà Nội [22] của tác giả Nguyễn Xuân Ninh tại vùng núi miền Bắc [23]
và Cao Thị Thu Hương [24] cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em Việt Nam vẫn
còn ở mức rất cao tới 60-90%.
Kết quả điều tra về tình trạng thiếu đa vi chất dinh dưỡng ở trẻ nhỏ tại
các vùng nông thôn Việt Nam của Nguyễn Văn Nhiên và CS [25]: 55,6% trẻ
bị thiếu máu và 11,3% số trẻ bị thiếu vitamin A. Thiếu đồng thời từ 2 vi chất
dinh dưỡng trở lên chiếm tới 79,4% trẻ. Các tác giả cũng tìm thấy mối tương
quan có ý nghĩa thống kê giữa thiếu máu và thiếu selenium, thiếu retinol
huyết thanh. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy thiếu đa vi chất dinh dưỡng
ở trẻ nhỏ vẫn là vấn đề rất phổ biến ở Việt Nam.
1.2.Tình trạng thiếu Vitamin A
1.2.1. Vai trò và nhu cầu của Vitamin A
Vitamin A là một loại Vitamin tan trong dầu, tồn tại dưới dạng một số
hợp chất. Ba dạng có hoạt tính sinh học của Vitamin A là: retinol, retinal và
retinoid acid .
Vitamin A được hấp thuở ruột non với sự có mặt của muối mật và các
men của dịch ruột và dịch tụy. Quá trình chuyển hóa Vitamin A trong cơ thể
diễn ra khá phức tạp với sự tham gia của nhiều enzyme và các yếu tố vi
lượng. Protein trong khẩu phần ăn cần thiết cho quá trình tạo các enzyme để
hấp thu Vitamin A và các carotene, cũng như chuyển các carotene thành các
retinol và vận chuyển retinol trong máu. Trong trường hợp bị suy dinh dưỡng
14
protein năng lượng, hoạt tính của các enzyme giảm, do đó quá trình chuyển
hóa retinol cũng giảm [9].
- Vai trò của Vitamin A đối với cơ thể
Vitamin A có vai trò quan trọng tham gia vào nhiều chức năng trong cơ thể.
•
Vai trò tăng trưởng: Vitamin A có vai trò trong quá trình tăng trưởng trẻ
em cần đủ Vitamin A để phát triển bình thường.
•
Chức năng thị giác: Vitamin A tham gia vào chức năng thị giác của
mắt, đó là khả năng nhìn thấy trong điều kiện ánh sáng yếu. Sở dĩ như vậy
là do cấu tạo võng mạc mắt gồm hai loại tế bào: tế bào hình nón và tế bào
hình que. Tế bào hình nón với sắc tố cảm thụ ánh sáng là Iodopsin giúp
cho mắt nhìn và phân biệt màu sắc trong điều kiện ánh sáng rõ, còn tế bào
hình que với sắc tố Rhodopsin giúp cho mắt nhìn thấy ánh sáng yếu.
Rhodopsin được tạo nên từ hợp chất protein và carotenoit (dẫn chất của
Vitamin A), vì vậy khi thiếu Vitamin A khả năng nhìn của mắt lúc ánh
sáng yếu sẽ bị giảm, hiện tượng này thường xuất hiện vào lúc trời nhá
nhem tối nên được gọi là “Quáng gà”. Quáng gà là biểu hiện lâm sàng
sớm của thiếu Vitamin A.
•
Bảo vệ biểu mô: Vitamin A cần thiết cho sự bảo vệ toàn vẹn của biểu
mô giác mạc, biểu mô dưới da, khí quản, các tuyến nước bọt, ruột non,
tinh hoàn... Khi thiếu Vitamin A, sản xuất các niêm dịch giảm, da bị khô
và xuất hiện sừng hóa, biểu hiện này thường thấy ở mắt, lúc đầu là khô kết
mạc rồi tổn thương đến giác mạc. Các tế bào biểu mô bị tổn thương cùng
với sự giảm sút sức đề kháng tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập.
•
Miễn dịch cơ thể: Mối quan hệ giữa Vitamin A với nhiễm trùng đã được
biết từ lâu và có khả năng Vitamin A tham gia vào quá trình đáp ứng miễn
15
dịch cơ thể. Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy, viêm đường ho hấp ở trẻ thiếu
Vitamin A nhiều hơn trẻ bình thường.
•
Vitamin A còn có vai trò trong quá trình sinh sản, tạo máu.
Hiện nay Vitamin A vẫn đang được các nhà khoa học nghiên cứu phát
hiện thêm những giá trị quan trọng của nó đối với sức khỏe con người [9].
- Nhu cầu của Vitamin A
Nhu cầu Vitamin A phụ thuộc vào từng nhóm tuổi [26].
Bảng 1.3. Nhu cầu khuyến nghị Vitamin A theo từng nhóm tuổi
Nhóm tuổi
Trẻ em(tháng tuổi)
Trẻ nhỏ(năm)
<6
6 - 11
1-3
4-6
7-9
Vị thành niên
Trường thành
Phụ nữ có thai
Phụ nữ cho con bú
Nhu cầu (µg/ngày)
375
400
400
450
500
600
800
850
1.2.2. Nguyên nhân thiếu Vitamin A
Khẩu phần ăn bị thiếu hụt Vitamin A: Cơ thể không thể tự tổng hợp được
Vitamin A mà phải do thức ăn cung cấp, vì vậy nguyên nhân chính của thiếu
Vitamin A là do ăn uống các loại thức ăn nghèo Vitamin A và Caroten. Bữa ăn
thiếu dầu mỡ sẽ làm giảm hấp thu Vitamin A (vì Vitamin A tan trong dầu). Ở
trẻ nhỏ đang bú thì nguồn Vitamin A là sữa mẹ, trong thời kỳ cho con bú nếu
bữa ăn của mẹ thiếu Vitamin A sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến con. Thiếu Vitamin
A thường xảy ra trong giai đoạn cho ăn bổ sung vì vậy khi cho trẻ ăn bổ sung
cần chú ý chọn các thực phẩm giàu Vitamin A.
16
Các bệnh nhiễm khuẩn đặc biệt là Sởi. Tiêu chảy, viêm đường hô hấp
làm tăng nhu cầu Vitamin A gây nguy cơ thiếu Vitamin A. Nhiễm giun, nhất
là giun đũa cũng là yếu tố góp phần làm thiếu Vitamin A.
Suy dinh dưỡng Protein năng lượng thường kèm thiếu Vitamin A vì
Protein giữ vai trò trong chuyển hóa và vận chuyển Vitamin A. Ngoài ra, thiếu
một số vi chất khác như kẽm cũng ảnh hưởng tới chuyển hóa Vitamin A [10].
1.2.3. Phương pháp đánh giá thiếu Vitamin A
Tình trạng thiếu Vitamin A biểu hiện qua các dấu hiệu lâm sàng và các
xét nghiệm. Ở trẻ em, đánh giá thiếu Vitamin A thường dựa vào các xét
nghiệm hóa sinh hoặc định lượng Vitamin A trong khẩu phần ăn.
- Đánh giá thiếu Vitamin A bằng các chỉ tiêu hóa sinh:
Vitamin A được dự trữ trong gan, tuy nhiên việc định lượng Vitmin A
trong gan rất khó thực hiện. Do đó, người ta tiến hành định lượng Vitamin A
trong huyết thanh.
Hàm hượng Vitamin A huyết thanh ≤ 0,70 µmol/L (≤ 20µg/dL) là tình
trạng cơ thể thiếu Vitamin A [1].
Bảng 1.4. Phân loại tình trạng thiếu Vitamin A tiền lâm sàng trên cộng
đồng theo WHO [27]
Mức độ
Tỷ lệ thiếu Vitamin A huyết thanh (≤ 0,7 µmol/L)
Nhẹ
2- 10%
Trung bình
10 - 20%
Cao
≥ 20%
- Đánh giá các dấu hiệu lâm sàng:
Thiếu Vitamin A có biểu hiện toàn thân, song biểu hiện ở mắt vẫn là đặc
hiệu hơn cả. Theo WHO, có nhiều mức độ thiếu Vitamin A trên lâm sàng:
• Quáng gà: (kí hiệu XN): Là hiện tượng giảm thị lực trong điều kiện thiếu
ánh sáng. Đây là biểu hiện sớm nhất của bệnh khô mắt do thiếu vitamin A,
17
phát hiện bệnh thông qua các biểu hiện: vào lúc chậm choạng tối, đứa trẻ
trở nên nhút nhát, chỉ ngồi yên tại chỗ, không dám đi lại hoặc chạy đùa
theo bạn. Trẻ lớn thường phải lần tường khi đi lại và hay va vấp vào những
đồ vật trên lối đi và hay bị vấp ngã. Quáng gà do thiếu vitamin A khi được
điều trị bằng vitamin A liều cao sẽ khỏi nhanh chóng sau 2-3 ngày.
• Vệt Bito (ký hiệu X1B): Là những vệt trắng bóng trên màng tiếp hợp mắt
(còn gọi là kết mạc hay lòng trắng), thường có hình tam giác như đám bọt
xà phòng, hay gặp ở sát rìa giác mạc ở vị trí 3 giờ hoặc 9 giờ, có thể thấy ở
cả 2 mắt. Vệt Bito chính là những đám tế bào biểu mô kết mạc bị khô, dày
lên, sừng hóa và bong vảy. Vệt Bito là triệu chứng đặc hiệu của tổn thương
kết mạc do thiếu vitamin A.
• Khô giác mạc (ký hiệu là X2): Giác mạc (lòng đen) trở nên mất độ bóng
sáng, mờ đục như làn sương phủ, có thể sần sùi. Khô giác mạc hay xảy ra
ở nửa dưới giác mạc. Thường khô giác mạc hay kèm theo khô kết mạc, có
khi kèm vệt Bito. Biểu hiện quan trọng nhất là trẻ sợ ánh sáng, hay cụp
mắt nhìn xuống, ra sáng thường nhắm mắt, ở giai đoạn này nếu được phát
hiện và điều trị kịp thời, có thể hồi phục hoàn toàn không để lại di chứng.
• Loét nhuyễn giác mạc (ký hiệu là X3A và X3B): Loét giác mạc là sự mất tổ
chức một phần hay tất cả các lớp của giác mạc. Khi loét giác mạc được
phát hiện và điều trị kịp thời thì vết loét sẽ liền nhanh, sẹo để lại nhỏ
và mỏng, thị lực bị giảm ít. Nếu để loét giác mạc sâu và rộng sẽ bị mù
vĩnh viễn.
• Sẹo giác mạc do khô mắt (ký hiệu là XS): Là di chứng sau khi bị loét giác
mạc, tùy theo vị trí và mức độ sẹo (sẹo lồi, sẹo dúm) sẽ ảnh hưởng đến thị
lực hoặc mù hoàn toàn.
18
• Tổn thương đáy mắt do khô mắt (ký hiệu là XF): Là tổn thương của võng
mạc do thiếu vitamin A, biểu hiện tình trạng thiếu vitamin A mạn tính. Tổn
thương thường gặp ở trẻ tuổi đi học, có thể kèm theo quáng gà. Phát hiện
bằng soi đáy mắt, cho thấy hình ảnh các chấm nhỏ màu trắng hoặc vàng
nhạt rải rác, dọc theo các mạch máu võng mạc. Điều trị bằng vitamin A sẽ
hồi phục nhanh chóng [10].
1.2.4. Thực trạng thiếu Vitamin A
- Thế giới:
Năm 2000, ước tính 75 triệu trẻ em tuổi tiền học đường thiếu Vitamin A
lâm sàng và 140 triệu trẻ thiếu Vitamin A tiền lâm sàng. Cho đến nay, Vitamin
A là vấn đề YNSKCĐ của 118 nước, với bệnh khô giác mạc có mặt trên 73
nước [28].
Theo Tổ chức Y tế thế giới ước tính có 45 nước (năm 1995) và 122
nước (năm 2005), trên thế giới có vấn đề thiếu vitamin A ở mức có YNSKCĐ
dựa trên tỷ lệ quáng gà và thiếu Vitamin A sinh hóa (nồng độ retinol huyết
thanh <0,70 µmol/l), ở trẻ trước tuổi học đường [13],[29].
Theo báo cáo của UNICEF (2005), hàng năm trên thế giới có 140 triệu
trẻ em ở tuổi tiền học đường bị thiếu Vitamin A và ước tính 1,2 – 3 triệu trẻ bị
chết, khoảng 4,4 triệu trẻ có nguy cơ bị khô giác mạc. Gần một nửa số trường
hợp thiếu Vitamin A và bệnh khô mắt là ở vùng Nam và Đông Nam Á. Ngoài
ra, có khoảng 6 – 7 triệu trẻ em bị thiếu Vitamin A thể nhẹ, làm cho trẻ dễ bị
cảm nhiễm với các bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, viêm đường hô hấp [2].
Một số nghiên cứu tại các nước đang và kém phát triển cho thấy thiếu
Vitamin A vẫn là phổ biến:
19
Nghiên cứu trên trẻ 5 tuổi mắc viêm phổi sống tại vùng nghèo nhất của
Mexico cho thấy tỷ lệ thiếu Vitamin A là 17,8%, 24,6% thiếu dự trữ Vitamin ở
gan và 7,3% có liên quan thiếu Vitamin A với tình trạng nhiễm khuẩn [30].
Nghiên cứu của Baingana và cộng sự tại Uganda (2006) cho thấy tỷ lệ
thiếu Vitamin A ở trẻ em 5 – 59 tháng là 20,4% [31].
- Việt Nam
Kết quả điều tra tình trạng vitamin A ở trẻ em dưới 5 tuổi năm 2000 và
2005 cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em, biểu hiện bằng
nồng độ vitamin A huyết thanh thấp, dao động ở mức 10-25%, tỷ lệ thấp ở
những vùng có độ bao phủ viên nang Vitamin A cao, tỷ lệ này cao hơn
ở những vùng núi có độ bao phủ viên nang thấp. Ngay tại một số vùng thành
phố, vào thời điểm trước chiến dịch uống Vitamin A, tỷ lệ thiếu vitamin A tiền
lâm sàng vẫn dao động xung quanh 10% (thuộc mức trung bình về YNSKCĐ)
[32].
Kết quả điều tra toàn quốc năm 2008-2009 cho thấy khoảng 14,2% trẻ
em dưới 5 tuổi bị thiếu vitamin A. Tình trạng thiếu vitamin A tiền lâm sàng
vẫn còn ở mức YNSKCĐ. Tỷ lệ thiếu Vitamin A tiền lâm sàng có sự chênh
lệch giữa các vùng, một số địa phương miền núi, tỷ lệ này lên tới trên 20%,
xếp ở mức nặng về YNSKCĐ theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới. Tỷ lệ
vitamin A trong sữa mẹ thấp vẫn ở mức 35%, chứng tỏ khẩu phần ăn của cộng
đồng chưa đáp ứng nhu cầu vitamin A, tỷ lệ thiếu vitamin A giảm hiện nay
phụ thuộc vào biện pháp uống bổ sung viên nang vitamin A liều cao cho trẻ
em. Tổ chức Y tế thế giới vẫn xếp Việt Nam vào danh sách 19 nước có tình
trạng thiếu vitamin A tiền lâm sàng mức độ nặng (trên 10% trẻ dưới 5 tuổi)
[32].
20
Nghiên cứu của Nguyễn Công Khẩn, Phan Văn Huân và CS năm 2010
ở 682 trẻ nhỏ ở các vùng miền núi phía Bắc của Việt Nam đã phát hiện thấy tỷ
lệ thiếu máu và thiếu vitamin A ở những vùng này vẫn rất cao với tỷ lệ 53,7 %
và 7,8 % [33].
Năm 2006, điều tra tại 6 tỉnh đại diện Việt Nam cho thấy, tỷ lệ thiếu
Vitamin A tiền lâm sàng vẫn còn ở mức cao 29,8%, thuộc mức nặng về
YNSKCĐ, tỷ lệ cao ở nhóm trẻ không uống Vitamin A trong chương trình
quốc gia phòng chống thiếu Vitamin A ở trẻ em. Trẻ em sống ở vùng nông
thôn, miền núi và trẻ càng nhỏ thì nguy cơ thiếu Vitamin A càng cao. Nghiên
cứu còn cho thấy tỷ lệ thiếu Vitamin A ở trẻ em dưới 5 tuổi cao nhất ở Bắc
Kạn 61,8%, thấp nhất ở Bắc Ninh 17,0% [34].
Các kết quả trên cho thấy tình trạng thiếu Vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ
dưới 5 tuổi ở nước ta vẫn ở mức cao và là vấn đề có YNSKCĐ, đi kèm với nó
cũng là tình trạng SDD cũng ở mức rất cao. Vì vậy việc cải thiện TTDD của
trẻ dưới 5 tuổi luôn là vấn đề được ngành y tế và Nhà nước ta quan tâm với
nhiều chiến lược khác nhau.
1.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu máu, thiếu Vitamin A
1.3.1. Thiếu dinh dưỡng Protein – năng lượng (suy dinh dưỡng)
Định nghĩa: Thiếu dinh dưỡng Protein – năng lượng là loại thiếu dinh
dưỡng quan trọng nhất ở trẻ em, với biểu hiện là tình trạng chậm lớn và hay
đi kèm với các bệnh nhiễm khuẩn.
- Suy dinh dưỡng protein năng lượng nặng thường kèm theo thiếu
vitamin A vì thiếu protein ảnh hưởng tới chuyển hoá, vận chuyển vitamin A
trong cơ thể. Ngoài ra, thiếu các vi chất khác như thiếu kẽm cũng ảnh hưởng
tới chuyển hoá vitamin A.
21
1.3.2. Nuôi con bằng sữa mẹ
UNICEF coi nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp hàng đầu bảo vệ sức
khoẻ trẻ em, do sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ [35]. Thống kê năm 2009
của WHO thấy có sự khác nhau rõ rệt giữa các nước về tỷ lệ trẻ bú mẹ trong
vòng giờ đầu sau sinh: Cuba 70,0%, Mozambique 63,1%, Việt Nam 57,8%,
Bangladesh 35,6%, Lào 29,8%, Yemen 29,6%, Cameroon 19,6% [36].
Trong 6 tháng đầu, trẻ cần được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ mà không
cần thêm thức ăn nào khác [37]. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu theo WHO công bố năm 2009, có sự khác biệt rất lớn ở nhiều nước
trên thế giới như Rwanda 88%, Srilanka 76%, Peru 73,0%, Triều Tiên 65%,
Bolivia 60,0%; nhưng Belarus chỉ 9,0%, Nam Phi 7,0%, Thái Lan 5,0%,
Djibouti 1,0%, Bỉ 1,0% [36] và ở Việt Nam, tỷ lệ này là 19,6% [37].
Với trẻ dưới 12 tháng tuổi, sữa mẹ là thức ăn quý giá nhất mà không một
thức ăn nhân tạo nào có thể so sánh được [38]. Nhiều nghiên cứu chỉ rõ tỉ lệ
SDD và mắc các bệnh nhiễm trùng hô hấp, tiêu chảy cao hơn một cách có ý
nghĩa ở nhóm trẻ mẹ bị thiếu sữa mẹ [39], [40].Nhiều nghiên cứu có nhận
định là ở vùng nông thôn tình hình nuôi con bằng sữa mẹ luôn có xu hướng
tích cực hơn so với ở thành thị [41], [42], nhất là vùng nông thôn ở các nước
đang phát triển [42].Trẻ cần được bú mẹ thường xuyên, nên bú kéo dài đến 18
- 24 tháng tuổi và không nên quá 24 tháng. Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú mẹ đến 2
tuổi theo UNICEF khảo sát năm 2009 có sự khác biệt giữa các nước rất rõ:
Nepal 95,0%, Benin 92,0%, Bangladesh 91,0%, Ethiopia 88,0%, Myanmar
67,0%, nhưng Jordan chỉ 11,0%, Bosnia 6,0% [43]. Việt Nam có đến 93% bà
mẹ nuôi con bằng sữa mẹ [37]. Tỷ lệ bà mẹ Việt Nam cho con bú từ 18-24
tháng rất cao trong những năm gần đây [44], [45] cho thấy công tác truyền
22
thông giáo dục sức khỏe cùng với thực tiễn về lợi ích của sữa mẹ đã thay đổi
căn bản thực hành nuôi con bằng sữa mẹ ở nhiều vùng miền trên cả nước.
1.3.3. Ăn bổ sung
Thời gian bắt đầu ăn bổ sung theo khuyến cáo chung là khi trẻ tròn 6
tháng tuổi [37]. Trong một bữa ăn bổ sung hợp lý cho trẻ, cần có sự phối hợp
đầy đủ giữa 4 nhóm thực phẩm theo một tỷ lệ cân đối: Protein/Lipit/Gluxit
=1/1/4-5 cùng rau, củ, quả và tập cho trẻ thích nghi dần với từng loại thức ăn
mới theo nguyên tắc từ ít đến nhiều; từ lỏng đến đặc [46]. Chất lượng bữa ăn
có vai trò rất quan trọng đối với phát triển thể chất trẻ em [45], [47].
Nghiên cứu của WHO cho thấy những đứa trẻ bắt đầu ăn bổ sung thêm
sữa hộp ngay trong tuần đầu, có nguy cơ bị tiêu chảy cao gấp 3 lần và nguy
cơ nhập viện cao gấp 5 lần so với trẻ chỉ bú sữa mẹ; đối với trẻ cai sữa trong
tuần đầu sau đẻ có nguy cơ bị tiêu chảy cao gấp 5 lần và nguy cơ phải vào
viện do tiêu chảy cao gấp 12 lần so với trẻ bình thường [42]. Nguyễn Thị Hải
Anh, Lê Thị Hợp và cộng sự thấy trẻ ăn bổ sung không hợp lý có nguy cơ
SDD tăng 2,7-4 lần [44]. Lê Phán nghiên cứu thấy có đến 68,8% trẻ ăn bổ
sung trước 4 tháng tuổi bị SDD và 59,8% trẻ SDD do ăn không đủ 4 nhóm
thực phẩm hàng ngày [48]. Nhiều nghiên cứu khác đều khẳng định hậu quả
của ăn bổ sung sớm đến tình trạng SDD, bệnh tật trẻ em [49], [50], [51]. Bà
mẹ cho con ăn bổ sung sớm là hiện trạng chung của nước ta [5], [6].
1.3.4. Cách chăm sóc trẻ
Nếu như việc cung cấp chất dinh dưỡng đóng vai trò quyết định trong
việc phát triển thể chất trẻ em, thì cách chăm sóc trẻ quyết định sự phát triển
tinh thần và góp phần rất quan trọng vào việc đảm bảo phát triển thể chất trẻ
em toàn diện. Trẻ em cần được chăm sóc chu đáo về vệ sinh; tiêm chủng mở
23
rộng; theo dõi tăng trưởng; tình thương yêu; học hành và được chăm sóc dinh
dưỡng đúng khi ốm như tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp... [47], [52].
Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến TTDD của trẻ em đã được các tác
giả trong và ngoài nước đề cập đến như: tình trạng kinh tế xã hội, tình trạng
giàu nghèo, chăm sóc sức khỏe bà mẹ khi mang thai,…Được đề cập đến nhiều
nhất chính là sự thiếu kiến thức và thực hành của bà mẹ trong nuôi dưỡng trẻ.
Ở Việt Nam, có nhiều nghiên cứu đánh giá TTDD của trẻ dưới 5 tuổi và tìm
hiểu các yếu tố liên quan ở nhiều vùng miền khác nhau.Tỷ lệ SDD khác nhau
giữa các vùng miền, tình hình kinh tế xã hội và thực hành chăm sóc nuôi
dưỡng trẻ. Nguyên nhân gây SDD ở các vùng cũng khác nhau nhưng đều tuân
theo mô hình chung như UNICEF đã xác định.
Các nghiên cứu của tác giả Lê Thị Hương được thực hiện tại huyện Cẩm
Thủy, Lăng Chánh tỉnh Thanh Hóa và huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị năm
2007 và 2008 cho thấy có mối liên quan giữa SDD và trình độ học vấn của bà
mẹ, tỷ lệ mắc bệnh đường hô hấp trong hai tuần qua [7], [8].
Ngoài ra, còn một số yếu tố khác tác động đến TTDD của
trẻ như điều kiện kinh tế của gia đình, tình trạng thiếu ăn, các yếu tố về vệ
sinh môi trường, đặc biệt là tình trạng bệnh tật của trẻ. Các bệnh được xếp
hàng đầu thường gặp ở trẻ em đó là ỉa chảy và nhiễm khuẩn hô hấp cấp. Số
lần mắc trung bình của trẻ em Việt Nam trong 1 năm đối với ỉa chảy là 2,2
lần, viêm phổi là 1,6 lần [53]. Nhiễm khuẩn dễ đưa đến SDD do rối loạn tiêu
hoá và ngược lại, SDD dễ dẫn tới nhiễm khuẩn do đề kháng giảm. Khi trẻ bị
bệnh cơ thể tiêu hao nhiều năng lượng và các chất dinh dưỡng, cảm giác thèm
ăn giảm, tiêu hoá, hấp thu kém, mức cung cấp chất dinh dưỡng giảm, các chất
dinh dưỡng không đủ đáp ứng nhu cầu của cơ thể, do đó bệnh tật trở thành
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD trẻ em.
24
1.3.5. Tình trạng mắc bệnh
Tình trạng nhiễm trùng đặc biệt là lên sởi, viêm đường hô hấp, tiêu chảy
hoặc nhiễm ks sinh trùng đường ruột (nhất là giun đũa) cũng là các nguyên
nhân quan trọng dẫn tới tình trạng thiếu vitamin A.
- Tình trạng nhiễm giun móc và các bệnh nhiễm khuẩn: Ở Việt Nam
nhiễm giun móc khá phổ biến, tỷ lệ mắc cao ở nhiều vùng liên quan tới tập
quán canh tác nông nghiệp và thói quen vệ sinh, tình trạng môi trường và
nước sạch đóng góp đáng kể vào nguyên nhân thiếu máu thiếu sắt ở Việt
Nam. Ngoài ra, các bệnh nhiễm trùng, nhất là nhiễm trùng đường tiêu hoá còn
khá phổ biến cũng gây thiếu máu thiếu sắt.
25
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại ba tỉnh Bắc Kạn, Quảng Ngãi, Kon Tum
thuộc ba vùng: miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên.
- Mỗi tỉnh chọn 4 xã điều tra
2.2 Đối tượng nghiên cứu
-
Trẻ từ 6 – 59 tháng tuổi (tính đến thời điểm điều tra)
-
Mẹ hoặc người nuôi dưỡng chính của trẻ thường trú trên địa bàn nghiên cứu.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
-
Đối tượng nghiên cứu sinh sống trên địa bàn nghiên cứu và có mặt
tại thời điểm nghiên cứu.
-
Trẻ có ngày tháng năm sinh chính xác
-
Trẻ không bị mắc dị tật bẩm sinh
-
Trẻ không mắc các bệnh về máu, bệnh mạn tính hoặc nhiễm trùng
nặng tại thời điểm điều tra.
-
Trẻ không có những bất thường ảnh hưởng đến nhân trắc
-
Các bà mẹ hay người nuôi dưỡng chính của trẻ không bị mắc các
bệnh về tâm thần, có khả năng cung cấp thông tin sau khi đã giới
thiệu mục đích nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
-
Trẻ và mẹ hoặc người nuôi dưỡng chính của trẻ không đủ tiêu
chuẩn lựa chọn trên.