Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

CƠ sở lý LUẬN tổ CHỨC và THỰC HIỆN xã hội hóa GIÁO dục ở các TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.16 KB, 49 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC VÀ THỰC HIỆN XÃ
HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON

1


Tổng quan về việc nghiên cứu
Lịch sử nghiên cứu về vấn đề xã hội hóa giáo dục
Xu thế XHHGD đã mang tính phổ biến ở nhiều nước trên thế
giới. Từ những nền kinh tế kém phát triển đến những quốc gia có
nền kinh tế phát triển, xã hội văn minh đều phải quan tâm đến
giáo dục. Quan tâm đến giáo dục là huy động mọi nguồn lực, huy
động cộng đồng nhằm hiện đại hóa giáo dục. Mỗi nước vận dụng
sáng tạo XHHGD vào điều kiện cụ thể của nước mình, cách khai
thác nguồn lực cũng rất phong phú nhằm nâng cao chất lương
nguồn lực con người và cơ sở hạ tầng để phục vụ các mục tiêu
phát triển kinh tế, xã hội.
Ở Hàn Quốc, hệ thống pháp luật về giáo dục là một hệ thống
khá hoàn chỉnh, thực hiện dân chủ hóa giáo dục ở trình độ cao.
Luật giáo dục đã thể chế hóa giáo dục suốt đời và xây dựng một
XH học tập cho mọi người. Giáo dục Hàn Quốc đạt chuẩn chất
lượng tương đối cao so với nước Đông Bắc Á và châu Á. Hàn
Quốc tiến hành cải cách cả về hệ thống giáo dục, chương trình
giáo dục, hệ thống quản lý GD đồng thời sửa đổi các điều luật liên
quan đến giáo dục cũng như thay đổi cả ý thức và quan niệm về
GD trong toàn thể nhân dân. Hoạt động cải cách GD được thực
hiện sâu rộng, thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức và cá nhân.
2


Cải cách GD không chỉ là trách nhiệm riêng của Bộ Giáo dục và


phát triển nhân lực mà là của cả bộ máy chính phủ, là nghĩa vụ và
quyền lợi của mỗi gia đình, mỗi cơng dân. Có thể nói, cuộc cải
cách GD lần này của Hàn Quốc là một cuộc cải cách tồn diện,
năng động có quy mơ lớn và được xã hội hóa cao nhất so với tất
cả các cuộc cải cách giáo dục trước đây.
Ở Nhật Bản, đã qua nhiều lần cải cách giáo dục nhưng Nhật
có hai Bộ Luật quan trọng với hệ thống GD quốc dân thực hiện
vai trị của nhà nước trong chính sách đầu tư cho GD rất rõ rệt
nhưng không thể thiếu vai trị của các địa phương, các cơng ty,
doanh nghiệp và người học.
Ở Mỹ, ngành giáo dục được coi là tiên tiến nhất thế giới.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục quốc gia được khẳng
định:khơng có trường học nào, thầy cơ nào, hay bất cứ một ai
khác có thể làm điều này một mình.Với quan điểm GD của Hoa
Kỳ là GD thực dụng, nhiều loại hình lớp học và trường học ra đời
đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của các bộ phận dân cư nhằm
mục đích thiết thực là tồn tại và phát triển trên đất nuớc được cho
là thế giới mới.
Ở Việt Nam, XHHGD xuất phát từ tư tuởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Tư tuởng của Nguời thể hiện rất rõ trong bức thư gửi
3


cán bộ, thầy giáo, cô giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên
nhân dịp bắt đầu năm học mới, đăng trên Báo Nhân Dân, số 5299,
ngày l6/l0/l968. Trong thư, Người viết: "Giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng". Khi mà thực chất, đây là trủ trương XHHGD,
đến Hội nghị Trung ươnglần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam
(Khóa VII) thì tinh thần đó mới chính thức trở thành một trong
những quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách XH

trong xây dựng và phát triển sự nghiệp GD.
Công tác XHHGD là một chủ trương rất đúng đắn của Đảng
và Nhà nuớc ta nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan, đó là khắc
phục cơ chế tổ chức tập trung quan liêu bao cấp đã lỗi thời, đảm
bảo cho GD&ĐT phát triển theo đúng bản chất XH và các quy
luật vốn có của nó.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu:
tiếp tục nâng cao chất lượng GD toàn diện, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học.Việc thực hiện "Chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa". Phát huy khả năng độc lập suy nghĩ và sáng tạo
của học sinh, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay
nghề. Thực hiện phương châm học đi đôi với hành, GD kết hợp
với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với đời sống XH. Nội
dung nêu trên có nghĩa:
4


Về chuẩn hóa: do chúng ta đã có một hệ thống GD tương đối
hoàn chỉnh, một nền quốc học nhân dân, đủ sức để chuẩn hóa tất
cả trường, hoạt động dạy và hoạt động học, các phương tiện
GD&ĐT nhằm vào mục tiêu GD. Thế mà mọi thứ từng bước, từng
phần, từ cán bộ tổ chức, giáo viên, nội dung chuơng trình, phương
tiện, phương pháp dạy học phải tiến tới đạt được.
Về hiện đại hóa: phương pháp dạy học, nội dung chương
trình, cơ sở vật chất, trang thiết bị phải hiện đại hóa. Ngày nay,
nhiềunước coi cá thể hóa phương pháp dạy học và phương pháp
"Giải quyết vấn đề" là hướng chủ yếu hiện đại hóa phương pháp
dạy học bộ mơn, theo nguyên lý GD nhằm thức tỉnh tối đa tiềm
năng của người học và hình thành ở người học khả năng thích
nghi tốt nhất, nhanh nhất, tinh thần phê phán khách quan, khoa

học và đầu óc sáng tạo.
Xã hội hóa giáo dục: GD là sự nghiệp của toàn XH. Mọi
người cùng làm GD, Nhà nước và XH, trung ương và địa phương
cùng làm GD, tạo nên một cao trào học tập trong toàn dân.
XHHGD là một trong những con đường thực hiện dân chủ hóa,
trước hết là nâng cao trách nhiệm của mọi người đối với thế hệ
trẻ, tạo nên một môi trường GD thống nhất tốt đẹp của XH, gia
đình, nhà trường. Động viên về tinh thần và vật chất tạo thêm
5


động lực cho người dạy, người học. XHHGD là nhằm tăng thêm
nhiều nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính cho giáo dục.
XHHGD gắn liền với đa dạng hóa các nguồn lực cho giáo dục.
Như vậy, XHHGD là một hệ thống định hướng hoạt động
của mọi người, mọi lực lượng XH nhằm trả lại bản chất XH
choGD, trả lại nhiệm vụ XH cho chính GD, nhằm xây dựng một
XH học tập. XHHGD cũng chính là giải pháp mang ý nghĩa chiến
lược nhằm thực hiện đổi mới GD, nhất là khi thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VIII BCH Trung ương Đảng (Khóa XI) về
Đổi mới căn bản, tồn diện GD & ĐT. Đây chính là lý do khiến
nhiều cơng trình đã tập trung nghiên cứu để thấy được tính ưu việt
của Tổ chức và thực hiện XHHGD, góp phần thực hiện 3 mục
tiêu: Để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Bên cạnh đó khuyến khích, huy động sự ủng hộ của tồn XH với
sự phát triển GD, tạo cơ hội cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi
trình độ được học thường xuyên, học suốt đời, xây dựng XH học
tập.
Trong thời gian qua, về XHHGD nói chung đã được nhiều
nhà nghiên cứu khoa học và tổ chức và thực hiện giáo dục quan

tâm nghiên cứu ở nhiều đề tài khác nhau. Đặc biệt tác giả Phan
Minh Hạc đã viết nhiều tài liệu về xã hội hóa giáo dục, nhiều bài
6


phát biểu chỉ đạo phong trào xã hội hóa giáo dục. Khi trong cuốn
“Xã hội hóa cơng tác giáo dục” xuất bản năm l997 do ông làm
tổng chủ biên đã khẳng định “Xã hội hóa cơng tác giáo dục là một
tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối GD, một con
đường phát triển giáo dục nước ta. Trong cuốn “Giáo dục Việt
Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, tác giả Phan Minh Hạc
một lần nữa khẳng định “Sự nghiệp GD không phải chỉ của nhà
nước mà là của toàn xã hội: Mọi người cùng làm GD, nhà nước và
xã hội, trung ương và địa phương cùng làm GD, tạo nên một cao
trào học tập cho toàn dân”. Tác giả Phạm Tất Dong trong cuốn
“Xã hội hóa cơng tác giáo dục ” đã làm rõ khái niệm về XHH
công tác giáo dục và coi XHH là một khái niệm đã vận động trong
thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Qua mỗi giai đoạn,
khái niệm đó lại được phát triển thêm, nội hàm phong phú hơn.
Trong lời giới thiệu cuốn sách “Những nhân tố mới về giáo dục
công cuộc đổi mới” tác giả đã nhấn mạnh phải “Phát triển giáo
dục theo tinh thần xã hội hóa”. Tư tưởng XHHGD được thừa nhận
như một yếu tố mới trong sự phát triển giáo dục hiện nay. Hơn
thế, với tư cách là yếu tố mới của sự phát triển giáo dục, tư tưởng
xã hội hóa cơng tác giáo dục lại tạo ra những điều kiện để xuất
hiện những cái mới, khác trong quá trình vận độngđi lên của các
phong trào GD. Điều kiện đó chính là những kinh nghiệm rút ra từ
7



thực tế sinh động của GD, trên cơ sở đó tư duy giáo dục trở lên
sâu sắc, làm nền tảng đểnhiềubài toán GD-ĐT được giải quyết
một cách hợp lý.
Cơ quan nghiên cứu của Bộ GD&ĐT là Viện khoa học GD
Việt Nam đã triển khai một hệ thống đề tài về xã hội hóa giáo dục,
tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ chế xã hội hóa
giáo dục. Năm l999, cuốn sách “Xã hội hóa giáo dục, nhận thức
và hành động” do tập thể tác giả Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang,
Nguyễn Thanh Bình là một bước hồn thiện về nhận thức lý luận
và hướng dẫn thực tiễn. Bộ GD&ĐT cũng đã có “Đề án XHHGD
và đào tạo” đánh giá thực trạng và đưa ra những giải pháp xã hội
hóa giáo dục ở tầm vĩ mơ, nhằm tạo ra những chuyển biến cơ bản
trong GD-ĐT, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước trong hai chục năm đầu thế kỷ XXI. Nhân dịp kỷ
niệm 40 năm thành lập Viện khoa học giáo dục Việt Nam-năm
20ll, từ góc độ giáo dục học, cuốn sách “Xã hội hóa giáo dục” do
Võ Tấn Quang chủ biên cùng tập thể các tác giả Trần Kiểm,
Nguyễn Thanh Bình, Lê Đức Phúc, Thái Duy Tuyên, Đào Huy
Ngận, Nguyễn Văn Đản đã khẳng định: xã hội hóa cơng tác giáo
dục - một phương thức thực sự giáo dục nhằm xã hội hóa cá nhân.
Lần đầu tiên cuốn sách với ý nghĩa một chuyên khảo đã đề cập
đến đặc trưng của xã hội hóa giáo dục ở các cấp học, bậc học và ở
8


địa bàn nông thôn, vấn đề tổ chức và thực hiện nhà nước trong
việc thực hiện xã hội hóa giáo dục để có sự định hướng đứng đắn
hoạt động tổ chức và thực hiện xã hội hóa giáo dục ở các nhà
trường.
Lịch sử nghiên cứu xã hội hóa giáo dục mầm non

Trước năm l945, dưới thời Pháp thuộc, ở Việt Nam khơng có
nền GD trước tuổi đi học: cả nước chỉ có vài trại tế bần ni trẻ
mồ cơi. Sau cách mạng Tháng Tám, cùng với việc hình thành chế
độ mới, lần đầu tiên ở Việt Nam, bậc GD trước tuổi đi học chính
thức ra đời. Trải qua những tháng gian khổ của hai cuộc kháng
chiến, vượt qua thời kỳ chao đảo trong sự chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhờ thực
hiện chủ trương xã hội hóa, giáo dục mầm non từ chỗ cịn rất khó
khăn đã khắc phục được tình trạng suy giảm, giữ được sự ổn định
trên diện rộng, phát triển ở những khu vực có điều kiện, tạo nên
sự chuyển biến khá rõ rệt.
Hình thức giáo dục mầm non có thể khẳng định là bậc học
được xã hội hóa cao hơn bất kỳ bậc học nào. Giáo dục mầm non
là sự thể hiện sinh động nguyên tắc nhà nước, xã hội hóa và nhân
dân cùng làm. Song việc nghiên cứu về xã hội hóa giáo dục mầm
non cịn hạn chế. Báo cáo tổng quan và tình hình nghiên cứu xã
9


hội hóa giáo dục của Ban Khoa giáo Trung ương đã nhận định: từ
đó có thể thấy đã có một số nghiên cứu chuyên đề về xã hội hóa
sự nghiệp giáo dục. Các nghiên cứu này góp phần làm rõ, bổ sung
thêm những nghiên cứu chung. Tuy nhiên vẫn còn có những vấn
đề cần được nghiên cứu sâu như xã hội hóa đối với giáo dục mầm
non... là những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
Trong đề án xã hội hóa giáo dục và đào tạo năm l998, Vụ
Giáo dục mầm non - Bộ GD&ĐT đã đánh giá những thành tựu và
hạn chế, thiếu sót của hơn mười năm trong hoạt động xã hội hóa
giáo dục và đào tạo. Trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ xã
hội hóa đi với giáo dục mầm non. Từ những năm l999-2000, Ban

nghiên cứu mầm non, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục đã có
đề tài: Nghiên cứu các giải pháp phát triển giáo dục mầm non
nơng thơn, trong đó xã hội hóa giáo dục cũng chỉ được đề cập là
một trong những giải pháp của hệ thống mà chưa đi sâu nghiên
cứu riêng giải pháp xã hội hóa giáo dục mầm non.
Đứng trước những yêu cầu và thách thức của việc thực hiện
chiến lược phát triển giáo dục mầm non, nhằm phát triển giáo dục
mầm non theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, ngày 25/6/2002
Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Hội nghị bàn về cơng tác giáo
10


dục mầm non. Hội nghị đã đề ra những giải pháp cơ bản trong đó
nhấn mạnh: đến việc đẩy mạnh biện pháp xã hội hóa giáo dục
mầm non, đa dạng hóa các loại hình giáo dục mầm non. Ngày
l5/ll/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số l6l/2002/QĐTTg về một số chính sách phát triển giáo dục mầm non đã khẳng
định rõ ở điều l nhiệm vụ phát triển giáo dục mầm non đến năm
20l0: Nhà nước tiếp tục đầu tư phát triển giáo dục mầm non, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non, mở rộng
hệ thống nhà trẻ và trường, lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân
cư... Quyết định này được coi như chiếc chìa khóa vàng để mở
cánh cửa cho giáo dục mầm non phát triển đến năm 20l0.
Hệ thống khái niệm cơ bản
Tổ chức và thực hiện quán lý
Khi nghiên cứu về lý luận tổ chức và thực hiện quản lý các
nhà nghiên cứu với những cách tiếp cận khác nhau, đã đưa ra các
quan niệm không giống nhau về tổ chức và thực hiện. W.Taylor,
người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động đã nêu ra hệ thống
tổ chức lao động, nhằm khai thác tối đa thời gian lao động, sử

dụng hợp lý nhất công cụ và phương tiện lao động nhằm tăng
năng suất lao động thì cho rằng: ‘‘Tổ chức và thực hiện là nghệ
thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần và làm cái gì đó thế nào
11


bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất’’. A.Fayon-nhà lý luận tổ
chức và thực hiện quản lý kinh tế người Pháp cho rằng: ‘‘Tổ chức
và thực hiện quản lýlà đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt
và đúng các nguồn lực của nó’’.
Khi nghiên cứu cơ sở khoa học tổ chức và thực hiện quản lý
hiệu quả, những nhà khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
-Lênin đã lý giải một cách đầy đủ và phản ánh chính xác những
nét đặc trưng cơ bản của hoạt động tổ chức và thực hiệnquản lý:
"là sự tác động có ý thức của chủ thể đối với toàn bộ hay những
hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội, trên cơ sở vận dụng đúng
đắn những quy luật và xu hướng khách quan vốn có của nó nhằm
đảm bảo cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt
ra”. Harold Koontz trong tác phẩm "những vấn đề cốt lõi của tổ
chức và thực hiện quản lý" thì tổ chức và thực hiện quản lý được
hiểu "là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những
nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được các nội dung mục đích của
nhóm" [26, 4l].
Việc một xã hội, một tổ chức hay một cộng đồng muốn phát
triển thì trước hết phải có một cơ chế tổ chức và thực hiện quản lý
tốt. Khi cơ chế quản lý ấy phải chi phối và tác động vào mọi lĩnh
vực hoạt động của hệ thống tổ chức, xã hội và làm cho nó vận
12



động theo chiều hướng tích cực mà chủ thể tổ chức và thực hiện
quản lý đã định hướng từng bước.
Trong nước ta, khái niệm tổ chức và thực hiện quản lý đã được
nhiều tác giả đề cập với các cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn
chung nội dung là thống nhất, theo tác giả Trần Kiểm: “Tổ chức và
thực hiện quản lý là những tác động hoạch định của chủ thể tổ chức
và thực hiện quản lý trong việc huy động, kết hợp, sử dụng, điều
chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và
ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhất nhằm đạt
mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”.
Như vậy, tổ chức và thực hiện quản lý là những nội dung và
phương thức hoạt động cơ bản, mà nhờ đó,chủ thể tổ chức và
thực hiện quản lý tác động đến đối tượng tổ chức và thực hiện
quản lý, nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Do đó, có thể coi
chức năng tổ chức và thực hiện quản lý là những "nhiệm vụ lớn"
có tính nghề nghiệp mà các nhà tổ chức và thực hiện bất cứ ngành
nào cũng phải thực hiện.
Tổ chức và thực hiện quản lý giáo dục
Tổ chức và thực hiện quản lý giáo dục là một bộ phận của tổ
chức và thực hiện quản lý xã hội cùng với sự đi lên của tổ chức xã
hội. Khoa học tổ chức và thực hiện quản lý ngày càng phát triển
13


mạnh mẽ và có ý nghĩa quyết định trong mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội và đã hình thành phát triển khá sớm, trở thành yếu
tố quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Khi phát
huy sức mạnh tổng hợp và các chức năng đặc biệt của hoạt động
giáo dục, các nhà khoa học quan tâm đặc biệt đến vấn đề tổ chức
và thực hiện quản lý giáo dục - tức là vấn đề điều khiển q trình

giáo dục, rèn luyện con người nói chung, đặc biệt là hệ thống nhà
trường, nơi giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ nói riêng và cho mọi
người học tập thường xuyên.
Theo M.I.Kônzacôvi: ‘‘Tổ chức và thực hiện quản lý giáo
dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích
của chủ thể tổ chức và thực hiện quản lý ở các cấp khác nhau đến
tất cả các mắt xích của hệ thống, nhằm mục đích bảo đảm việc
hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận
dụng những quy luật chung của xã hội cũng như những quy luật
của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em
[33, 45]. Tác giả Nguyễn Ngọc Quang: "Tổ chức và thực hiện
quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể tổ chức và thực hiện nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam
mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đưa
14


hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất’’
[33, 50].
Theo tác giả Phạm Khắc Chương trong bài giảng ‘‘những
vấn đề cơ bản về quản lý giáo dục’’ cho rằng ‘‘tổ chức và thực
hiện quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là điều hành, phối hợp
các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo
dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn cho thế
hệ trẻ mà cho mọi người. Tuy nhiên, trọng tâm vẫn là giáo dục thế
hệ trẻ cho nên tổ chức và thực hiện quản lý giáo dục được hiểu là
sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ

thống giáo dục quốc dân’’ [l1, 29].
Tổ chức và thực hiện quản lý giáo dục là quá trình hoạt động
của chủ thể tổ chức và thực hiện quản lý vào toàn bộ hoạt động
của giáo dục, nhằm thức đẩy giáo dục phát triển theo mục tiêu mà
Đảng và Nhà nước đã xác định. Tổ chức và thực hiện GD được
biểu hiện thông qua quản lý mục tiêu đào tạo, chương trình đào
tạo, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học, quản
lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, quản lý người học và chất lượng giáo
dục, đào tạo...Từ đó có thể nhận thấy ‘‘tổ chức và thực hiện quản
lý giáo dục là hoạt động điều hành các nhà trường để giáo dục,
15


vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế’’ [7,8].
Những định nghĩa đã nêu, có thể thống nhất quan niệm: Tổ
chức và thực hiện quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục,
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của một xã hội.
Với bản chất của giáo dục mang tính XHH cao nên tổ chức và
thực hiện quản lý GD mang tính XH và chịu sự chi phối rất sâu sắc
của XH. Thực tiễn đã chứng minh khơng có ngành nào mà có mối
quan hệ tác động hai chiều giữa GD và XH, nhạy cảm và sâu sắc
như GD&ĐT. Do đó, tổ chức và thực hiện quản lý giáo dục có vị trí
cao nhất trong việc tạo điều kiện XHH cá nhân, hình thành và phát
triển nhân cách, nhằm giúp cho con người đảm nhận và những yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Xã hội hóa
Theo khái niệm đã được các nhà xã hội học sử dụng, xã hội
hóa (socialization) là cách để mô tả những phương cách mà con
người học hỏi, tuân thủ theo các chuẩn mực, các giá trị, các vai trò

mà xã hội đã đề ra và chính q trình xã hội hóa này tạo cơ sở cho
việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Khái niệm xã
hội hóa chủ yếu được xem xét và hiểu biết ở bình diện xã hội học.
Đó là một lý thuyết khoa học về sự hình thành và phát triển nhân
16


cách con người. Lý thuyết này được đề xuất từ những năm cuối
thế kỳ XIX, mà người dùng thuật ngữ này đầu tiên là là Emili
Durkheim (l858-l9l7) - nhà khoa học xã hội học Pháp.
Từ góc độ đến kinh tế - chính trị học, khi nói XHH người ta
hiểu đó là quá trình phát triển của lực lượng sản xuất từ trình độ
hợp tác giản đơn lên trình độ hợp tác có phân cơng, chun mơn
hóa cao trên phạm vi tồn xã hội.
Cịn trong tâm lý học thuật ngữ XHH được dùng để chỉ quá
trình cá nhân đưa trẻ từ lúc sơ sinh đến trưởng thành tiếp thu
những kinh nghiệm xã hội - lịch sử lồi người đã tích lũy được,
biến nó thành kinh nghiệm riêng. Từ đó hình thành những năng
lực người, đảm bảo mỗi người có thể sống và hoạt động với tư
cách là một thành viên tích cực của xã hội. Như vậy nội hàm
XHH được hiểu:
Xã hội hóa là một q trình tương tác giữa cá nhân và xã hội,
trong đó cá nhân học hỏi và thực hành những tri thức, kỹ năng và
những phương thức cần thiết để hội nhập xã hội.
Xã hội hóa được hiểu như một q trình, trong đó suốt cả đời
cá nhân học hỏi và biến các kinh nghiệm xã hội lịch sử tiếp thu
được thành những kinh nghiệm của bản thân để thích nghi với
mơi trường xã hội mà cá nhân đang sống ởđó.
17



Mặc dù cách hiểu XHH theo nhiều hướng khác nhau nhưng
cốt lõi của nó vấn được thể hiện là sự tương tác thuộc tính vốn có
của con người, của cộng đồng nhằm đáp ứmg lại xã hội và chịu
ảnh hưởng của xã hội. Hoạt động của con người, của cộng đồng
diễn ra trên tất cả lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Có thể hiểu xã hội hóa
một cách đầy đủ nhất theo định nghĩa sau:
Xã hội hóa là một q trình mang tính cá nhân nhờ hoạt
động, tiếp thu giáo dục, giao lưu... mà học hỏi được cách sống
trong cộng đồng, trong đời sống xã hội và phát triển được khả
năng đảm nhiệm các vai trò xã hội với tư cách vừa là cá thể vừa
có thể là một thành viên của xã hội.
Khái niệm xã hội hóa cá nhân, ngày nay chúng ta mở rộng
khái niệm xã hội hóa một loại hình hoạt động, một lĩnh vực hoạt
động, ví dụ: xã hội hóa hoạt động giáo dục - thường gọi tắt là xã
hội hóa giáo dục. Về vấn đề này sẽ được phân tíchdưới đây như
sau.
- Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục là một q trình tương tác giữa GD và
XH, trong đó GD gia nhập và hòa nhập vào xã hội, vào cộng
đồng, đồng thời XH tiếp nhận GD như là công việc của mình, do
18


mình và vì mình.
Khi bàn về cơng tác giáo dục, Hồ Chủ Tịch đã chỉ rõ: “Giáo
dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ
giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa trò với nhau, giữa cán bộ

các cấp, giữa nhà trường và nhân dân hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ đó”.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ nhấn
mạnh: “Giáo dụcl à chìa khóa đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa thì việc thực hiện chủ trương xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là
chìa khóa góp phần mở cánh cửa của giáo dục trên các bình diện
quy mô, chất lượng, hiệu quả và công bằng xã hội”.
Xã hội hóa giáo dục là một quan điểm cơ bản, có tính chiến
lược trong việc xây dựng và phát triển giáo dục của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay. Đó là sự thể hiện đường lối vận động quần
chúng, huy động sức mạnh của toàn xã hội vào việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị mà Đảng ta ln coi trọng trong suốt quá trình
lãnh đạo đấu tranh cách mạng. Tùy từng thời kỳ cách mạng và tùy
từng lĩnh vực cơng tác, tư tưởng đó được thể hiện trong những nội
dung khác nhau.
Để đặt vấn đềXHHGD là tìm cách hồn nguyên bản chất XH
19


của GD, gắn GD với XH, với cộng đồng. Cơ sở tư duy của
XHHGD là đặt giáo dục vào đúng vị trí của nó. Khi nền GD là bộ
phận khơng thể tách rời của hệ thống xã hội. Giáo dục cùng với
khoa học và công nghệ là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ: thực hiện XHH nhằm
hai mục tiêu lớn: thứ nhất là phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất
trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo
dục... thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối
tượng chính sách, người nghèo đượcthụ hưởng thành quả giáo
dục. ở mức độ ngày càng cao.
Vì lẽ đó, trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt rõ tính chất

xã hội của giáo dục và xã hội hóa giáo dục, hai cái đó khơng phải
là một và khơng đồng nhất. Nếu khơng có định hướng rõ ràng thì
tự thân hoạt động giáo dục vẫn có tính chất xã hội nhưng khơng
bao giờ đạt tới trình độ xã hội hóa đích thực và cũng phải nhận
định rằng: nội hàm xã hội hóa giáo dục nói ở đây thuộc phương
thức, phương châm, cách làm giáo dục. Nên nó thuộc phương
thức tổ chức và thực hiện xã hội hóa giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục là một quá trình mà cả cộng đồng và xã
hội cùng tham gia vào giáo dục. Trong đó, mọi tổ chức, gia đình
và cơng dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp
20


với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng mơi trường
giáo dục được lành mạnh và an tồn. Nói cách khác huy động
tồn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng
góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà
nước để xây dựng một xã hội học tập.
Có thể nói XHHGD là một cách làm giáo dục được xác định
bởi những đặc điểm cơ bản như sau:
Huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan
đến GD vào việc phát triển sự nghiệp GD.
Huy động các lực lượng của cộng đồng tham gia vào giáo
dục.
Đa dạng hóa các hình thức GD và các loại hình nhà trường.
Huy động các nguồn đầu tư trong xã hội vào sự nghiệp giáo
dục.
XHHGD là cuộc vận động lớn trong XH, có sự lãnh đạo chặt
chẽ của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và giữ vai trò nòng cốt là
ngành GD.

Nói về những chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn,
Nghị quyết 04-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương
Đảng khóa VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo
21


đã ghi: “Huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ
của các tổ chức quốc tế, kể cả vay vốn của nước ngoài để phát
triển GD”.
“ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã
hội, mọi gia đình và mọi người cùng với ngành GD - ĐT chăm lo
xây dựng sự nghiệp giáo dục theo phương châm: “ Nhà nước và
nhân dân cùng làm”, xây dựng mơi trường giáo dục nhà trường,
gia đình và xã hội”.
Quan điểm này đã được thể chế hóa ở Điều ll của Luật giáo
dục về “xã hội hóa sự nghiệp giáo dục”.“Mọi tổ chức, gia đình và
cơng dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây
dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, phối
hợp với nhà trường và cả gia đình thực hiện mục tiêu giáo dục.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo
dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình nhà trường và các hình
thức giáo dục; khuyến khích huy động và tạo điều kiện để tổ chức,
cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.
Vậy, Luật giáo dục đã xác định vai trò chủ đạo của Nhà
nước, vai trò tham gia của xã hội, vai trò chủ động của giáo dục,
nhà trường. Cụ thể là nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển
GD; Nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân đều có trách nhiệm góp
22



phần xây dựng GD một cách đa dạng trên mọi mặt: Từ việc mở
các loại hình trường cơng lập, bán công, dân lập, tư thục, đến việc
xây dựng phong trào học tập và môi trường GD lành mạnh, từ
Nhà nước ưu tiên đầu tư và giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn
lực đầu tư cho giáo dục, đến khuyến khích mọi nguồn đầu tư phi
Nhà nước trong và ngồi nước. Giáo dục nói chung và nhà trường
nói riêng ln giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp với các
lực lượng xã hội, với gia đình thựchiện phát triển giáo dục về các
mặt: quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục; nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho nhà trường và gia đình
vả cho xã hội của người Việt Nam.
Xã hội hóa giáo dục không phải là một ý đồ chiến thuật được
vận dụng một cách nhất thời cho một giải pháp tình thế, mà là một
tư tưởng chiến lược, có sức mạnh của toàn xã hội là điều kiện
“cần” và “đủ” để giáo dục phát triển có chất lượng và hiệu quả.
XHHGD đòi hỏi phải huy động mọi nhân lực, vật lực, tài lực,
tiềm năng của xã hội tham gia giải quyết mọi nhiệm vụ, mọi vấn
đề của giáo dục. Trên cơ sở đó, mọi người có cơ hội được hưởng
quyền lợi về giáo dục, được học tập, học tập suốt đời, xây dựng
một xã hội học tập nhằm đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa cho đất nước nhà.

23


- Xã hội hóa giáo dục mầm non
Xã hội hóa giáo dục mầm non được xây dựng từ khái niệm
xã hội hóa giáo dục và vận dụng vào đặc thù của ngành học mầm
non.
Xã hội hóa giáo dục mầm non là một quá trình huy động

mọi lực lượng xã hội cùng làm giáo dục mầm non dưới sự quản lý
thống nhất của Nhà nước.
Đó là việc huy động nhân lực, tài lưc, vật lực của xã hội vào
quá trình chăm sóc giáo dục trẻ thơ (dưới 6 tuổi) và đưa mục tiêu
GDMN vào đời sống cộng đồng để trẻ trong lứa tuổi này việc
“phát triển cơ thể cân đối khỏe mạnh, nhanh nhẹn, biết kính trọng
yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy cô và người trên, yêu
quý anh chị em, bạn bè; thật thà, mạnh dạn, ngây thơ, hồn nhiên,
yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết, thích đi học ”.
Xã hội hóa giáo dục mầm non là một tư tưởng giáo dục lớn
của Đảng và củachủ trương đúng Nhà nước nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để giáo dục tạo ra lớp
người lao động mới phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo đáp
ứng địi hỏi của nền cơng nghiệp hóa nước nhà vào năm 2020 và
định hướng 2025: mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
24


lần thứ VII và IX đã nêu ra.
Những năm qua,công tác XHHGDMN đã trở thành quan
niệm phổ biến và rộng rãi trong tồn xã hội, nhất là những ai làm
cơng tác tổ chức và quản lý trực tiếp giáo dục trẻ thơ. Trong thực
tế, vẫn còn nhiều điều phải bàn để làm sáng tỏ phạm trù khái niệm
và cách tiếp cận thực tiễn cho đúng, nhằm biến chủ trương này
của Đảng và Nhà nước thành hiện thực. Ở đây, công tác
XHHGDMN cần được hiểu:
Một là, giáo dục là một sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước tổ chức quản lý, mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức
xã hội đều phải chăm sóc, giáo dục trẻ em. Có như vậy trẻ em

hôm nay mới trở thành người lao động xây dựng và bảo vệ tổ
quốc mai sau. Vì vậy, phải huy động mọi nguồn lực của XH để
làm công tác tổ chức và thực hiệnXHHGDMN.
Hai là, trẻ em không chỉ được quyền nhận sự ưu đãi và quan
tâm chăm sóc, giáo dục của tồn xã hội mà cịn phải biến sự chăm
sóc, giáo dục của tồn xã hội thành chất lượng giáo dục của chính
mình, phải có nghĩa vụ đối với xã hội, trước hết trở thành con
ngoan, trị giỏi.Có như thế sau này mới trở thành người công dân tốt
của đất nước.
Đây là hai mặt của một vấn đề, vừa có tính nhân văn sâu sắc,
25


×