Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN NHỮNG đặc TRƯNG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT của NGUYỄN TUÂN QUA tùy bút NGƯỜI lái đò SÔNG đà TRÊN một số PHƯƠNG DIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.53 KB, 12 trang )

I. MỞ ĐẦU
Xuất hiện trên đàn văn vào cuối thập niên 30 và đầu 40, Nguyễn Tuân đã
khẳng định ngay lập tức tên tuổi của mình ở một văn phẩm gần như thâu tóm và kết
tinh mọi tinh hoa làm nên sự hoàn thiện và hoàn mỹ của một phong cách viết. Là
nhà văn có phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo, bất cứ tác phẩm nào của ông
cũng in đậm dấu vết con người ông- con người như một pho tiểu thuyết hấp dẫn kể
mãi không hết. Mỗi khi gặp được đối tượng miêu tả phù hợp, ngòi bút của ông như
nở hoa. Lúc đó, ta được đọc những kiệt tác. Con người suốt đời đi tìm cái đẹp và
cái thật ấy (Nguyễn Đình Thi), có thể nói rằng trong suốt cuộc đời, bằng ngòi bút
điêu luyện của mình, Nguyễn Tuân đã làm cho cái đẹp thăng hoa và sáng chói.
Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có
màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ;
vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội
tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết
hiện sinh...Ngông là biểu hiện của sự chống trả mọi thứ nền nếp, phép tắc, định
kiến cứng nhắc, hẹp hòi của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chơi ngông một cách cực đoan.
Mọi sở thích, quan niệm riêng đều được đẩy lên thành các thứ chủ nghĩa : chủ
nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực,.... Thực
ra, chủ nghĩa độc đáo trong đời sống cũng như trong nghệ thuật mà biểu hiện là thú
chơi ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản ứng tâm lý của một cá
nhân trước tấn kịch xã hội. Nó còn bao hàm cái khí khái của người trí thức yêu
nước không cam tâm chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để
tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của những kẻ xu thời, thỏa mãn với thân
phận nô lệ. Như vậy, từ bản chất, cái ngông đó bao hàm một nội dung luân lý đạo
đức truyền thống. Sau 1945, Nguyễn Tuân không còn lý do để mà gây sự, mà ném
đá vào đời như trước nữa. Cái ngông tự mất đi phần cực đoan, chỉ giữ lại cái cốt
cách vốn tạo nên nét độc đáo cho trang biết. Thói quen và sở thích tìm cách nói mới
lạ, không giống ai khiến ngòi bút ông luôn tràn đầy sáng tạo và có sức hấp dẫn


mạnh mẽ. Do đó, hoàn toàn có thể khẳng định : cái ngông tồn tại như hạt nhân, chi
phối toàn bộ các phương diện khác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ; từ đề
tài, hệ thống nhân vật cho đến thể loại, giọng điệu, ngôn ngữ. Có thể nói rằng: với
tùy bút Người lái đò sông Đà, một lần nữa Nguyễn Tuân đã khẳng định như một
cách đóng đinh vào nền văn học dân tộc một phong cách tài hoa độc đáo mà không
có phiên bản nào có thể lặp lại. Nó thể hiện đầy đủ những gì là độc đáo, là bền
vững, những cách tân trong sự thống nhất làm nên một khuôn mặt rất riêng. Tìm
hiểu những nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tùy
bút này ta có thể thấy được những nét tài hoa uyên bác của ông, đồng thời cũng
thấy được những nét chuyển biến trong sự thống nhất trong phong cách nghệ thuật
của nhà văn qua một số phương diện nhất định.


II. NHỮNG ĐẶC TRƯNG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA
NGUYỄN TUÂN QUA TÙY BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ TRÊN MỘT SỐ
PHƯƠNG DIỆN
1. Cảm hứng chủ đạo
Sau 1945, tên tuổi Nguyễn Tuân lại một lần nữa rực sáng với thể loại tùy bút
mà trong đó Sông Đà góp một giai điệu ấm áp và hào sảng đó vào một thời khó
quên trong lịch sử văn học thế kỷ XX. Xuất phát từ cảm hứng về thiên về cái phi
thường, cái cảm giác mạnh, chán ghét những gì là nhàm chán, bằng phẳng và đơn
điệu ta có thể hiểu được vì sao mà Nguyễn Tuân lại tìm đến với sông Đà và say mê
với nó một cách nồng cháy như thế. Những cái gì gây nên cảm giác mạnh là nguồn
sống của văn ông, với lòng đam mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc
sống, đến với sông Đà, Nguyễn Tuân đã thực sự bị cuốn hút bởi sự khác thường
của nó:
"Chúng thuỷ giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu"
Nếu sông Đà cứ chảy xuôi dòng như bao con sông khác thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ
Nguyễn Tuân viết về nó, bởi không có gì đặc biệt thì làm sao có thể hấp dẫn ngòi

bút của nhà văn?! Một dòng sông hung bạo và trữ tình, khám phá nó như trèo lên
một cái cây đầy gai, nhưng trên ngọn là quả ngọt, không ít khó khăn nhưng cũng
đầy thú vị. Nguyễn Tuân đã chọn đúng đối tượng miêu tả để mang lại cho người
đọc cảm giác kỳ thú, tò mò khi ở nơi thượng nguồn sông Đà và chợt khoan khoái,
yên bình khi về đến hạ lưu. Màu nước sông cũng rất độc đáo tưởng như những
chiếc khăn với màu sắc khác nhau mà núi rừng Tây Bắc quàng lên mình mỗi khi
chuyển mùa: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu
xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da
mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực
bội gì mỗi độ thu về".
Ông đến với sông Đà như đến với một người bạn tương đắc. Sự dữ dội, mãnh
liệt và thơ mộng tuyệt vời của nó thu hút ông hết sức mạnh mẽ. Không phải ngẫu
nhiên mà ông dốc toàn bộ tài hoa ngôn ngữ của mình ra để tái hiện nó và làm
truyền lan đến người đọc niềm thán phục, ngưỡng mộ sâu sắc đối với sông Đà và
người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân , hai đặc tính nổi bật của
sông Đà là “hung bạo “ và “trữ tình” hiện lên đầy ấn tượng. Sông Đà hung bạo với
những con thác vô cùng “độc dữ , nham hiểm”, với những “hút nước” chết người
và vô vàn “thạch trận” quyết không cho con người vượt qua.Qua tai nghe của tác
giả, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu
khích , giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một nhàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa đang gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
Tương xứng với con sông Đà là hình ảnh người lái đò sông Đà. Đối với
Nguyễn Tuân, đây cũng là hình ảnh gây cảm giác mãnh liệt phi thường. Người lái
đò đã dũng cảm vượt qua vòng vây trùng trùng của thác nước: “Nắm chặt lấy được


cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghè cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng
mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Cứ
theo nhan đề tác phẩm, chính người lái đò mới là hình tượng trung tâm của bút kí

này. Cực tả sự dữ dội của thác nước sông Đà chính là một cách Nguyễn Tuân xưng
tụng chiến công phi thường của con người lao động ấy. Ở đây, sông và người đã
thực sự thống nhất với nhau trong tư cách là một nguồn kích thích lớn đối với ngòi
bút của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân nổi tiếng trong đời và trên văn đàn trước hết như một con người
của chủ nghĩa “xê dịch” và ưa viết về những chuyện “xê dịch”, suốt đời say mê cái
đẹp và mải miết truy tìm cái đẹp. Ông ưa “quan sát, khám phá”, đến với Tây Bắc
dường như ông đã thỏa mãn được cái khát vọng ấy với vẻ đẹp của sông Đà. Đẹp
trong sự dữ dội hào hùng. Đẹp trong sự hiền hòa êm ả. Nhìn khái quát, sông Đà là
một tuyệt tác của thiên nhiên, nó “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”; để làm nên một
nốt nhấn đặc sắc trên cả hai chiều hiện tại và quá khứ của một dân tộc đang hào
hứng đi vào một sự nghiệp dựng xây, sau một lịch sử có quá nhiều hy sinh, nhọc
nhằn, gian khổ… Cái cảnh “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng
như bạc rơi thoi” cũng thật thi vị , gieo vòa lòng người những cảm giác phấn khíc,
hân hoan. Cả với ông lái đò đẹp như một nghệ sĩ tài hoa đã mưu mẹo, khéo léo
vượt qua muôn vạn thác ghềnh, một tay lái ra hoa, sản phẩm độc đáo của dòng sông
đầy biến ảo.Trên hành trình của người lữ khách văn chương ấy, Nguyễn Tuân
không còn là một lữ khách ham vui, mà tự nhận mình là một người đi tìm vàng, tìm
“cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang
nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và
vững bền”.
Mặt khác, với Nguyễn Tuân, vùng đất Tây Bắc thực sự gắn bó với ông như
máu thịt, như một cố nhân mà “xa thì thấy nhớ thương mà gặp lại thì thấy vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng”. Vì thế ông tìm đến với sông Đà cũng chính là hành
trình trở về với cái bản ngã, trở về gặp lại bà mẹ thiên nhiên Tây Bắc chốc thì làm
mình làm mẩy với con người, chốc lại hiền dịu như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa,

hoang dại như một bờ tiền sử để làm nên cái sức hút đầy ma lực với cá tính đầy
chất Nguyễn ấy.
2. Trên phương diện lựa chọn chủ đề, đề tài
Mới, lạ, không giống ai - là những đặc điểm dễ nhận thấy ở hệ thống đề tài.
Mọi thứ Nguyễn Tuân bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những nguồn "chưa
ai khơi" nên thường tạo được cảm giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu. Ðến với
những trang viết của ngòi bút tài hoa ấy một mặt người đọc thấy say sưa trước
cảnh, tình và tri thức phong phú các các loại được bày biện một cách đẹp đẽ ; mặt
khác, khi cảm giác nhất thời qua đi, bao giờ người ta cũng thấy như quý yêu thêm


một chút, tự hào thêm một chút về dân tộc mình, về thời đại mình đang sống. Hóa
ra những điều tưởng chừng tủn mủn, lặt vặt kia được Nguyễn Tuân gọi về để làm
sống dậy trong chúng những ý nghĩa có tính tư tưởng cao cả, chứ không nhằm thỏa
mãn cảm giác hiếu kỳ, hời hợt.
Những nhà văn lớn phải là những nhà phong cách lớn. Sinh thời Nguyễn từng
ao ước khi chết đi sẽ mang theo nguyên cảo của mình và không để lại bất cứ bản
sao nào khác trên cuộc đời. Có lẽ, cái Nguyễn Tuân sợ mất đi nhất chính là phong
cách, cá tính của mình. Phong cách nghệ thuật chính là diện mạo thẩm mĩ độc đáo,
riêng biệt của nhà văn trong cách sáng tác, được tạo thành bởi sự thống nhất của
các phương tiện biểu hiện, phù hợp với cái nhìn riêng biệt của nhà văn về đời sống.
Phong cách nghệ thuật được hình thành nhờ sự lặp đi lặp lại một số yếu tố thuộc
phạm trù nội dung và hình thức một cách có thẩm mĩ, xuyên suốt sự nghiệp sáng
tác của tác giả. Đặc trưng nhất quán đầu tiên của phong cách nghệ thuật là tính
thống nhất, ổn định, bền vững. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân không nằm
ngoài đặc điểm này.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp văn học Nguyễn Tuân, ta thấy các sáng tác của ông
hướng tới nhiều chủ đề khác nhau: ca ngợi truyền thống văn hoá, phong cảnh đất
nước, cách mạng,… những đề tài này được triển khai ở nhiều thể loại như truyện
ngắn, tuỳ bút, ký, tiểu luận… Văn ông có thể viết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau:

những chuyến đi phiêu bạt để "thay đổi thực đơn cho các giác quan", trong một
xóm cô đầu, một con thuyền trên sông hương… Còn sau cách mạng, ông viết trong
những chuyến đi thực tế lên Tây Bắc, khi hành quân cùng bộ đội lên Việt Bắc… thế
nhưng ta vẫn tìm thấy trong những sáng tác ấy có một cốt cách chung.
Trước hết, ta thấy một Nguyễn Tuân luôn say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của
con người và cuộc sống. Sông nước Việt Nam đã chảy qua nhiều trang văn của
Nguyễn Tuân, có sông Bến Hải, sông Gianh nhưng đặc biệt nhất vẫn là Sông Đà
bởi đó là con sông đem lại cho nhà văn cảm giác mạnh, máu phiêu lãng giang hồ.
Sau nhiều lần đến với Tây Bắc đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958 tại nơi đây
Nguyễn Tuân đã viết tập tuỳ bút "Sông Đà". "Người lái đò sông Đà" được coi là
một trong những tác phẩm thành công xuất sắc nhất của tập tuỳ bút này. Với khát
khao truy tìm "chất vàng mười của tâm hồn vùng Tây Bắc" - "thứ vàng mười đã
được thử lửa", Nguyễn Tuân đã viết lên bài ca cuộc sống của con người và thiên
nhiên Tây Bắc với nhiều nét độc sáng mới lạ. Nguyễn Tuân đã tìm đến sông Đà
như một địa chỉ lớn của thi ca, nhạc hoạ để rồi biến vùng sông nước ấy thành nghệ
thuật. Và cũng từ đó ta bắt gặp một Sông Đà như một sinh thể có linh hồn, có tâm
trạng phức tạp, một sông Đà của bản tình ca trữ tình nên thơ, một sông Đà của
thiên anh hùng ca của bà mẹ thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội để từ đó nhà văn
nâng người lái đò Sông Đà lên bậc nghệ sĩ tài hoa, anh hùng trên sông nước, biểu
tượng, vẻ đẹp của những con người trong thời đại mới. Nhưng bao trùm lên tất thảy
vẫn là một tình yêu tha thiết, cháy bỏng với thiên nhiên đất nước và sự tôn kính
công sức lao động của con người một biểu hiện của tinh thần dân tộc, biểu hiện của
tấm lòng yêu nước thầm kín của người nghệ sĩ.


3. Quan niệm về cái đẹp, về con người
Sự vận động, đổi mới trong phong cách nghệ thuật tồn tại song song với tính
thống nhất, ổn định của phong cách nghệ thuật. Quy luật sáng tạo đòi hỏi người
nghệ sĩ phải biết vượt lên chính mình và không được dẫm lên dấu chân người khác.
Phong cách Nguyễn Tuân cũng có sự vận động theo chiều hướng tích cực ấy. Trước

và sau cách mạng là cả một sự thay đổi kì diệu trong văn ông. Cách mạng đã giải
thoát cho tâm hồn và nghệ thuật Nguyễn, hướng nhà văn tới cuộc sống và nhân
dân.
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề cao cái
đẹp thuần tuý, không vụ lợi. Ông nâng niu, trân trọng và khao khát cái đẹp. Nhưng
trong đêm tối trước cách mạng, cái đẹp đâu dễ tìm, vây bủa xung quanh người nghệ
sĩ toàn cái xấu xa, lừa lọc, với xã hội "kim tiền, chó đểu" (Vũ Trọng Phụng).
Nguyễn đã quay ngược thời gian tìm cái đẹp trong quá khứ, ít quan tâm đến thực
tại mà chỉ chú trọng tới cảm giác chủ quan của mình. Ông tìm đến những con người
mang nét tài hoa thiên về lĩnh vực nghệ thuật. Ngợi ca cái đẹp nhưng ông vẫn vẽ
lên một bức tranh héo úa, tàn tạ, hắt hiu về một thế giới tàn lụi trong "Chữ người tử
tù". Nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân không còn nhấm nháp, say sưa chắt chiu
cái đẹp trong những tiểu thế giới tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn cảm nhận được cái
khoẻ đẹp, rộng rãi, bao la của đất trời đổi mới. Có lẽ bởi Nguyễn sinh ra để tôn thờ
cái đẹp, mà cách mạng chính là cái chân - thiện - mĩ, chân chính nhất. Cái nhìn của
nhà văn với cuộc sống, con người trở nên đôn hậu hơn. Quan niệm của ông về cái
đẹp vì thế mà bớt đi sự phù phiếm, phiến diện, từng bước tiếp cận với cái đẹp chân
chính và tiến bộ. Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một trong những cái mốc quan
trọng của Nguyễn Tuân trong quá trình chuyển từ phương pháp sáng tác lãng mạn
sang phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông đi tìm cái đẹp trong cuộc sống
đời thường, trong cảnh sắc hiện tại của quê hương đất nước, trong con người lao
động bình thường.
Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, con Sông Đà hiện lên không còn là
dòng sông vô tri vô giác mà là một sinh thể có hồn, có tâm trạng , ở đó luôn có sự
hội tụ hai đặc điểm hung bạo và trữ tình làm nên vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc.
Trước hết phải nói đến vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của sông Đà . Nếu đã có một
lần xuôi ngược trên dòng sông này, ắt hẳn không mấy ai quên được tính cách dữ
dội của sông Đà dù đi vào mùa đông nước cạn hay mùa hè nước nổi . Cái đáng sợ
của sông Đà còn ở toàn bộ môi trường và cảnh quan hùng vĩ với vẻ huyền bí hoang
sơ của dòng sông chảy giữa chốn núi non trùng điệp của Tây Bắc xa xôi . Sông Đà

dữ, cát sông Đà cũng dữ “Nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà đục
thủng đáy tàu thuyền” . Bờ sông Đà chẳng hiền hoà mà “Nó dựng vách thành , mặt
sông chỉ lúc đúng ngọ mới trông có mặt trời . Có vách thành chẹt lòng sông lại như
mọt cái yết hầu .Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ bên này sang bờ bên
kia . Ngồi trong khoang đò qua chỗ ấy giữa mùa hè cũng cảm thấy lạnh, cảm thấy
mình như đứng dưới một cái ngõ mà ngóng lên khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà
thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện ... ” Tổng hợp các giác quan khác nhau và có


những so sánh táo bạo, mới mẻ, bất ngờ, Nguyễn Tuân đã tạo được ấn tượng sâu
sắc về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng . Tất cả các chuyển động
đều náo động . Người đọc như có cảm giác đang ngồi trên một con đò mà phóng đi
vun vút trên sông, băng băng xuống thác để thấy được quanh mình tiếng nước hò
reo bốn mặt và cả những hòn đá ngỗ ngược phía trước như “nhất tề nhổm cả dậy để
vồ lấy thuyền”, để ra oai hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi chiến đấu, để
thách thức chiếc thuyền có giỏi thì tiến vào ...Cái dáng đá hất hàm ấy trông ngỗ
ngược, hỗn hào, du côn một cách rất hiện đại . Những hòn đá nằm, ngòi, nổi, chìm
tưởng như tuỳ thích lại được sông Đà giao cho mỗi hòn một nhiệm vụ để bày thạch
trận tiêu diệt chiếc thuyền .
Sông Đà hung bạo không chỉ ở thạch trận , ở bờ sông dựng vách thành mà
nước sông Đà cũng vào hùa như tiếp thêm cái oai linh hùng vĩ đó . Và sự dữ dội
của nó cứ thế nhân mãi lên .“Nước xô đá, đá xô sóng , sóng xô gió gùn ghè suốt
năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua
đấy ”. Rồi “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc . Trên mặt cái hút xoáy
tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn” ... Những cái giếng nước sâu
nước ặc ặc như vừa rót dầu sôi vào . Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới dòng sông đến
mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới .
Nói đến sông Đà không thể bỏ qua những con thác nguy hiểm . Sông Đà có cả
thảy bảy mươi ba cái thác như bảy mươi ba cạm bẫy luôn rình rập tàu thuyền .

Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật
hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá . Ban đầu là cung bậc nỉ non của dòng
thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích . Thế
rồi âm thanh đó bất ngờ được phóng to hết cỡ , các nhạc khí bừng bừng hét lên như
một khúc nhạc của một thiên nhiên dang ở đỉnh điểm của sự phấn khích mạnh mẽ
và man dại . Trong đó âm vang cuồng loạn của núi rừng được đưa vào để thanh
viện cho sự diễn tả con thác giận dữ ầm ầm và va đập vào bờ đá . Tiếng sóng thác
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa
đổ lửa , đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng . Nước, đá, sóng hỗ trợ cho nhau tạo nên thế thạch trận, mai phục hết
trong lòng sông . Chúng hung hăng , bạo ngược, hùng vĩ và hiểm trở, trở thành
hiểm hoạ của con người , trở thành kẻ thù số một của những người lái đò trên sông
Đà .
Bên cạnh tính cách hung bạo, Nguyễn Tuân còn chú trọng khắc hoạ vẻ đẹp
trữ tình, đằm thắm của sông Đà . Lời văn Nguyễn Tuân như bồng bềnh với bầu trời
của mùa xuân, mùa thu , nơi tác giả từ trên tàu bay mà nhìn xuống từng nét sông
núi tải ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình . Con sông Đà được ví
như một mĩ nhân kiều diễm, xinh đẹp . Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một
áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân . Miêu tả
dòng sông từ nhiều góc độ, nhiều không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đã phát hiện


ra một cách tinh tế màu sắc của nước sông Đà . Khi xuân về , dòng sông xanh màu
ngọc bích, còn khi thu sang thì nước sông lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì
rượu bữa ... Hơn thế, sông Đà còn hiền từ, dịu dàng đằm đằm âm ấm như một cố
nhân xa lâu thì nhớ mà gặp lại thì cuống quýt mừng vui . Lúc đầu chỉ là cảm giác
mơ hồ về sự thèm chỗ thoáng, do đi rừng dài ngày, thậm chí còn quên đi là mình
đang đổ ra sông Đà . Rồi dòng sông hiện ra , nhưng chỉ một chút thôi, loang loáng
như trẻ con nghịch gương chiếu vào mắt . Để rồi kịp nhận ra được dòng sông,

người bạn cũ thì sao mà nó ngẩn ngơ đến thế trong cái màu nắng rất Đường thi
“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” . Tác giả khéo làm cho cái ùa vui đó trải dài
ra thành nhịp điệu : bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông
Đà . Ít nhiều hiểu được vì sao cái vui của tác giả khi gặp lại sông Đà lại đằm đằm
âm ấm như gặp lại cố nhân đến vậy , nó cứ thấm thía thêm niềm hạnh phúc , niềm
hân hoan được sống và tồn tại trên đất nước này của nhà văn .
Nhưng ấn tượng nhất đối với người đọc có lẽ là đoạn văn bắt đầu từ câu :
Thuyền tôi trôi trên sông Đà ... Câu văn viết toàn thanh bằng đẹp như một lời thơ .
Mà cả đoạn văn ấy cũng là một đoạn thơ . Nguyễn Tuân đã tạo được sự lặng lẽ đầy
thơ mộng của một mũi đò lừ lừ trôi giữa đôi bờ sông tiền sử, về một nỗi niềm cổ
tích hay hoài niệm về thời Lí, thời Lê ...Và cả cái lặng lẽ mơ màng đến độ con
người chờ mong một sự giật mình để rũ bỏ ra khỏi giấc mơ xưa mà không được .
Mùa xuân dòng sông Đà được nhà văn cho e ấp tỏ mình qua mấy lá non nhú lên
trên một nương ngô và những nõn búp của tranh đồi núi . Cả dòng nước lững lờ trôi
vì nhớ thương những con thác trên thượng nguồn ... cũng góp phần làm cho dòng
sông thêm trữ tình , thơ mộng .
Ở phương diện quan niệm về con người, về nhân vật, Nguyễn Tuân luôn nhìn
nhận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Hệ thống nhân vật của Nguyễn
Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc đáo và rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của
nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn luôn trân trọng những "đấng tài
hoa" và say mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở
một thú chơi hoặc một ngón nghề nào đó, đầy tính nghệ thuật. Ðó là cụ Kép, cụ
Sáu, cụ Nghè Móm, ông Phó Sứ, ông Cử Hai,... những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ
thuật uống trà, uống rượu, chơi đèn kéo quân và đánh bạc bằng thơ (trong "Vang
bóng một thời"). Là ông Thông Phu lắm tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết trên
một ván cờ đất vì uất ức (trong "Chiếc lư đồng mắt cua"). Tài hoa, một khi đi kèm
với nhân cách cao thượng thì càng đáng kính trọng.
Hình ảnh người lao động mới trong "Sông Ðà (1960) cũng thật đẹp đẽ, lung
linh giữa vùng hào quang của tài hoa. Chính họ, chứ không ai khác, là những kỹ sư,
nghệ sĩ đang tự nguyện tự hào góp cái tài cái trí của mình để đắp xây cuộc sống

mới, nền văn hóa nghệ thuật mới. Ở Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã mang
đến cho người đọc một định nghĩa mới về người nghệ sĩ, về tài hoa và cả về người
anh hùng. Ông quan niệm những người bình thường khi thực hiện những công việc
bình thường trong phạm vi nghề nghiệp của mình nếu đạt tới một trình độ tinh xảo,
nhuần nhuyễn, khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một kẻ tài


hoa: "mỹ thuật vốn không có bà con luận lí với thời đại, một thằng ăn cắp cũng trở
lên đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh".
Viết về vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân cũng có cách cảm nhận về
ngoại hình người lái đò rất độc đáo. Người lái đò ấy dù gần 70 tuổi, nhưng vẫn
tráng kiện, có thân hình "cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun" cùng với
"cái đầu quắc thước", "đôi cánh tay trẻ tráng"… Nét riêng ấy của ông lái đò đã cho
ta một cách cảm nhận về những con người lao động khoẻ khoắn, từng trải nơi rừng
núi Tây Bắc. Những vẻ đẹp độc đáo trong văn Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng với
người đọc ngay từ những trang đầu tiên, là nét phong cách dễ nhận ra nhất của ông.
Miêu tả tư thế vượt thác hiên ngang, anh dũng của ông lái đò, Nguyễn Tuân ca ngợi
phẩm chất của người lao động thời đại mới, chủ động trước thiên nhiên, dám tấn
công vào những thế lực dữ dội nhất của thiên nhiên. Đây là khám phá mới mẻ, độc
đáo của Nguyễn về hình ảnh con người mới.
Ở ông lái đò nổi bật lên vẻ đẹp của con người tài trí, dũng cảm. Sống với con
sông quanh năm làm mình, làm mẩy với con người Tây Bắc mà bộ mặt hung bạo
của kẻ thù số một ấy luôn đe dọa và thách thức con người. Con người chỉ có tinh
thần lao động thôi thì không đủ, chung quy lại giữa cái môi trường sông nước mà
nơi nào cũng hiểm nguy ấy, ông lão lái đò đã thể hiện được bản lĩnh của mình. Nói
cách khác cũng chỉ môi trường ấy mới xứng danh với tài nghệ của ông, chỉ có ở đó
ông mới có cơ hội để phô diễn tất cả tài nghệ trí dũng của mình. Nhà văn đã đặt
nhân vật vào một hoàn cảnh hết sức độc đáo để bộc lộ mình. Cái trí dũng của người
lái đò trước hết biểu hiện qua trí nhớ tinh anh của ông. Ông vừa thuộc dòng sông,
thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần

sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy
cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp
nhàng, chính xác. Ông đò quả thực là một dũng tướng trên sông, là một nghệ sĩ tài
hoa trong nghệ thuật chèo đò, vượt thác.
Đọc trang tuỳ bút Nguyễn Tuân ta thấy hiện lên không phải là một ông lái đò
bình thường mà là một nghệ sĩ trong nghề sông nước, như một nhạc sĩ thiên tài chỉ
huy giàn nhạc trên con thuyền để vượt lên bản trường ca sóng nước ào ạt kia. Ông
đò không chịu được cảnh phẳng lặng của sông nước mà vẫn muốn tìm đến nơi
nhiều ghềnh lắm thác để thử sức. Ý nghĩ giản dị mà đáng quý biết bao: "chạy
thuyền trên khúc sông không có thác, nó dễ dại tay, dại chân và buồn ngủ". Luôn
muốn vượt qua những thử thách khó khăn như không sống một cuộc sống mờ mờ,
nhàn nhạt, hời hợt như đĩa đèn - ấy là cái cốt cách tài hoa trong một nghệ sĩ chèo
đò. Với kinh nghiệm dạn dày, ông đò điều khiển chiếc thuyền vượt thác dữ một
cách điêu luyện: "thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái lượn được". Đó là nét đẹp kết tinh, là chất "vàng mười" đáng
quý nhất của tâm hồn Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ
sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa
rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn, hay là những người biểu diễn trên


sân khấu mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng
được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm.
Trong “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người
lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là một
nghệ thuật đặc biệt: Nghệ thuật chèo đò nơi nguy hiểm. Tay lái của ông lão đã đạt
trình độ điêu luyện : “lái miết một đường chéo về phía cửa đá” và con thuyền “như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn
được”. Con thuyền của ông lão chẳng khác nào nét bút của thư pháp gia, hay nét cọ
của hoạ sĩ tài ba đang biểu diễn những đường tuyệt mĩ. Quy luật ở trên con sông Đà

là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay,
quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có
thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên
đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo.
Sau khi chiến thắng con sông Đà, lúc nào ông cũng ung dung, thanh thản như
chưa từng vượt thác : sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh
bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá
anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như
mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những
nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không
mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời
nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày
nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi
hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có
lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ gặp trong trang viết của Nguyễn
Tuân.Và lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm! Sự chuyển dịch của ý thức
nghệ thuật theo hướng đưa văn học về với cuộc sống, phục vụ công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước đã dẫn tới việc mở rộng thế giới nhân vật của trang viết Nguyễn
Tuân. Nhưng không vì thế mà nhà văn đánh mất tính độc đáo, bất biến của phong
cách. Ðó là niềm say mê phát hiện và ngợi ca những vẻ đẹp của tài hoa, khí phách,
của văn hóa dân tộc.
4. Cách lựa chọn thể loại và những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng cho
phong cách Nguyễn Tuân
Tìm đến với tùy bút cũng là con đường tất yếu của cá tính và phong cách
Nguyễn Tuân. Dường như ông chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và
chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Trong tay ông, thể tùy bút đã đạt
đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống. Và để thể hiện vẻ đẹp của
sông Đà, dường như cũng chỉ có thể loại tùy bút mới giúp Nguyễn Tuân thực hiện
được trọn vẹn ý tưởng của mình, mới ghi nhận được hết vẻ đẹp của thiên nhiên và

con người miền Tây Bắc.
Xét đến cùng, cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai bắt chước được của tùy
bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng điệu văn


chương. Có nhiều chi tiết tưởng rất bình thường nhưng bằng giọng điệu độc đáo,
khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm hỉnh cộng với hệ thống lý lẽ khúc
chiết, những triết lý có chiều sâu. Ðặc điểm nổi bật của giọng điệu tùy bút Nguyễn
Tuân chính là sự phong phú, đa thanh, thỏa mãn đến hoàn hảo những sắc thái tình
cảm tinh tế nhất. Trong mọi tình huống nhà văn luôn có cách nói phù hợp, không
chung chung, tạo được không khí cần thiết cho ý đồ nghệ thuật của mình. Dường
như một khi đã bắt đúng giọng thì không còn giản đơn là viết nữa, nhà văn trở
thành nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng múa lượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Dòng
sông Ðà "vừa hung bạo vừa trữ tình" được hiện lên trong mạch văn có lúc cuồn
cuộn, ầm ào, gân guốc ; có lúc đằm thắm, sâu lắng, thiết tha : "Còn xa lắm mới đến
cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước
thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tung rừng lửa, rừng
lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc
sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá". " Con sông Ðà tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ ; sự vật được miêu tả
trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ
Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn
Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc,
điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh
động. “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm
thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn

quay phim táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi
lao xuống “đáy hút sông Đà” để quay phim… Tất cả những gì nhà văn viết ra,
những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều như được dựng lại trước người
đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang
đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng
kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn
sông êm ả, trữ tình.
Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học…
Cuộc chiến đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì:
“Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó
“bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả
những từ ngữ và hình ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước
mắt ta quan cảnh một cuộc hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.
Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác.
Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường
được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta
đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được


Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh
được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La,Hát Loóng… Tất
cả, tất cả chứng tỏ sự hiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về sông Đà…
Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ
ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã
sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn
trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên
những trang văn đầy tài hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ
cho đời. Đọc những dòng viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng,
ngạc nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.
Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn

Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và
thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng,
ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà
văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến
hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn
Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám
đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên
trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.
Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn
bay và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới
mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần
sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một
chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của
sự tài hoa và uyên bác…
III. KẾT LUẬN
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ
nhà văn lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất
mực tài hoa và độc đáo. Không thể tưởng tượng nổi sẽ lạnh lẽo và tiêu điều tới mức
nào nếu đại ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng những nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy
như nhà văn Nguyễn Tuân. Ðặc biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc
đời cũ đến cuộc đời mới ; vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn
trước năm 1945 với đủ thứ "tật bệnh điển hình", vừa ở trong hàng ngũ những nhà
văn thành tâm chào đón và chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành
trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải
tự "lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫn luôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của
mình. Cái ngông, suy đến cùng, lại như một giá trị, được đảm bảo bởi sức bền vững
của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chói lòa
vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức lực để
không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách nghệ thuật.
"Người lái đò sông Đà" là một trong những thành công xuất sắc của tuỳ bút

Nguyễn Tuân. Sự chuyển hướng này phù hợp với cái tôi, bản lĩnh Nguyễn Tuân.


Nếu cần phải minh hoạ cho bản chất sáng tạo của văn học thì có lẽ với văn phẩm
này, Nguyễn Tuân - người với những trang văn tài hoa, độc đáo đã tạo ra không chỉ
một con đường, một lối đi riêng mà phải nói là một "đại lộ" riêng trên các ngả khai
phá của văn học Việt Nam. Trên "đại lộ" ấy ta bắt gặp nét quen thuộc và cả những
điều mới mẻ - cái làm nên hồn cốt mang tên phẩm chất Nguyễn.
Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh
động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ
dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như
sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn
nghiệp của ông. Do đó, vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một
cách viết mang chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc, đặc biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị
truyền thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi,
khơi nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là
"chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Tố Hữu). Trong
lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ nhận ra phần
chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân.



×