Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp - Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Vietcombank chi nhánh Chương Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.1 KB, 87 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD: TS.Nguyễn Thị Hoài

MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân..............................................................................................lxx

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….83

Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH – HĐH

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

DN


Doanh nghiệp

NHTM

Ngân hàng thương mại

NH

Ngân hàng

TCTD

Tổ chức tín dụng

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

VHĐ

Vốn huy động

NVHĐ

Nguồn vốn huy động

KCN

Khu công nghiệp


Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

ii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

DANH MỤC BẢNG BIỂU
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân..............................................................................................lxx
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân..............................................................................................lxx

Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

iii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì vốn là vấn
đề không thể thiếu. Nó là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế vì mức tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc vào quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Trong doanh
nghiệp vốn là một trong những yếu tố quyết định tới sự thành công trong quá
trình hoạt động. Trong lĩnh vực ngân hàng thì yếu tố vốn lại càng quan trọng
do đặc điểm của ngân hàng là một đơn vị kinh doanh tiền tệ.
Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy
nhiên trong điều kiện thị trường tài chính nước ta thì huy động vốn qua kênh
ngân hàng vẫn là phổ biến và hiệu quả nhất. Với vai trò trung gian tài chính,
Ngân hàng thương mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế và phân phối chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và
các nhu cầu khác của các doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế
theo các nguyên tắc tín dụng.
Đứng trước những yêu cầu trong đề án tái cơ cấu của chính phủ về lĩnh
vực tài chính ngân hàng, việc huy động và sử dụng vốn thế nào cho hiệu quả,
thu hút đủ nguồn vốn phục vụ cho việc đầu tư luôn được chú trọng đặc biệt.
Trong điều kiện khó khăn như hiện nay, các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu
quả và các cá nhân không có nguồn tiền tiết kiệm tích lũy thì việc thu hút vốn
vào hệ thông ngân hàng càng trở nên khó khăn. Chính vì vậy, các Ngân hàng
thương mại không ngừng tung ra các chính sách ưu đãi để thu hút vốn từ khu
vực dân cư và doanh nghiệp. Không nằm ngoài quy luật chung đó, Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương (Vietcombank) đã và đang không ngừng
đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường và trở thành một
trong những Ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam hiện nay cũng như
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

iv


Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

Vietcombank Chi nhánh Chương Dương luôn cố gắng giữ vững vai trò quan
trọng và cũng là một trong những đơn vị hàng đầu trong địa bàn trong việc
cung ứng vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế trong sự nghiệp CNH – HĐH,
phục vụ quá trình hội nhập và phát triển.
Xuất phát từ ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn nêu trên, vấn
đề “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Vietcombank chi nhánh Chương
Dương” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của chuyên đề.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về huy động vốn và hiệu quả huy động vốn
của Ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn và hiệu quả huy động vốn
tại Viecombank Chi nhánh Chương Dương từ đó rút ra những kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả huy
động vốn của Chi nhánh.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh trong
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là công tác huy động vốn từ tiền gửi tại
Viecombank Chi nhánh Chương Dương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của một

Ngân hàng thương mại có phạm vi khá rộng. Do đó, chuyên đề chỉ giới hạn
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao hiệu quả huy động vốn
tại Ngân hàng thương mại vận dụng vào phân tích thực tế trong việc nâng cao
hiệu quả huy động vốn tại Vietcombank Chi nhánh Chương Dương nhằm đề
ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh .
+ Về thời gian: số liệu được thu thập là hoạt động của Chi nhánh
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

v

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

Chương Dương trong 3 năm 2010- 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập bằng phương pháp tổng hợp tài liệu.
Nguồn tài liệu thu thập chủ yếu từ các báo cáo tổng kết hàng năm của
Vietcombank, của Chi nhánh, các nghiên cứu trước có liên quan, các tạp chí
và các Websites.
Các số liệu sơ cấp chủ yếu được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn
trực tiếp cán bộ quản lý Chi nhánh; Kế toán trưởng, các nhân viên phụ trách
huy động vốn tại Chi nhánh.

- Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích, thống kê có kết hợp các công thức, bảng biểu để
tính toán, minh họa, phân tích và rút ra kết luận.
Phương pháp so sánh được áp dụng để so sánh các chỉ tiêu nghiên cứu
qua các năm, so sánh thực hiện so với kế hoạch, với tiêu chuẩn.
- Phương pháp chuyên gia được sử dụng để khai thác các kinh nghiệm
trong việc phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp.
5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, Chuyên đề được trình bày theo
ba chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động huy động vốn và hiệu quả huy
động vốn tại Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng
Vietcombank chi nhánh Chương Dương.
Chương 3: Các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động huy động
vốn tại ngân hàng Vietcombank chi nhánh Chương Dương.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

vi

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ
HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại.
1.1.1

Khái niệm về Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm
gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân
hàng thương mại đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển
của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến
giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì ngân hàng thương mại cũng
ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể
thiếu được.
Trên thực tế, mỗi cá nhân trong nền kinh tế đều ít nhiều có mối quan hệ
với ngân hàng trên danh nghĩa là người gửi tiền, người đi vay hoặc người sử
dụng các tiện ích ngân hàng. Các dịch vụ ngân hàng ngày càng được mở rộng
để đáp ứng nhu cầu ngày càng nhiều của người dân. Người ta thường dựa vào
tính chất và mục đích hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường tài
chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tuợng hoạt động để
đưa ra các khái niệm về ngân hàng thương mại. Vì vậy trên thế giới hiện nay
tồn tại rất nhiều định nghĩa về ngân hàng thương mại.
Theo Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930: “Những nhà băng thiết yếu
bao gồm những nghiệp vụ nhận tiền gửi, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực
hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm...”
Theo luật Ngân hàng Mỹ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh
doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công
nghiệp dịch vụ tài chính.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh

51

vii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

Đạo luật Ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức
khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính”.
Còn ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại cũng được thay đổi
để phù hợp hơn với sự phát triển của hệ thống Ngân hàng.
Theo sắc lệnh số 018 CT/LDGCQL/SL ngày 20-10-1969 của chính
quyền Sài Gòn cũ cho rằng: Ngân hàng thuơng mại là một xí nghiệp công hay
tư lập, kể cả chi nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động
thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài
chính với tiền ký thác của tư nhân hay của xí nghiệp hay cơ quan công quyền.
Theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-05-1990 của Hội đồng nhà nước xác
định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện
thanh toán”.
Tuy những định nghĩa trên có phần khác nhau nhưng nó đều khẳng định

ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, là một trong những định chế
tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các loại dịch vụ tài chính với nghiệp
vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.2

Đặc điểm của ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại cũng giống như các doanh nghiệp khác, hoạt
động Ngân hàng thương mại cũng nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Do đặc điểm là đơn vị kinh doanh tiền tệ
nên Ngân hàng thương mại có một số đặc điểm khác biệt như sau:

Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

viii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

- Ngân hàng là một đơn vị kinh doanh tiền tệ do đó vốn vừa là phương
tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời cũng là đối tượng kinh
doanh của Ngân hàng thương mại.
-


Ngân hàng thương mại kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn của

người khác. Vốn tự có chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn vốn nhằm
mục đích chủ yếu là mua sắm tài sản cố định, nguồn vốn huy động bên ngoài
chiếm tỷ lệ lớn và là nguồn tài trợ chính cho các nghiệp vụ hoạt động, đem lại
lợi nhuận cho ngân hàng.
- Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại có liên quan đến
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác
nhau. Do đó, tình hình tài chính của Ngân hàng thương mại có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các DN, tâm lý của người dân cũng
như của cả nền kinh tế.
- Do hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại gắn liền với tiền
tệ, một loại sản phầm kinh doanh nhạy cảm, do đó chứa nhiều rủi ro đồng thời
rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có thể gây ảnh hưởng lớn cho
nền kinh tế vì tính chất lây lan của nó đến toàn bộ hệ thống tài chính và ngân
hàng. Để tránh rủi ro xảy ra, nhằm kiểm soát, làm giảm nhẹ những tổn hại do
ngân hàng vỡ nợ gây ra, chính phủ các quốc gia đặt ra những đạo luật riêng,
nhằm đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng được vận hành an toàn, hiệu quả
trong nền kinh tế thị trường.
1.1.3
-

Chức năng của ngân hàng thương mại

Chức năng trung gian tín dụng

Thực hiện chức năng trung gian tín dụng,ngân hàng thương mại đóng vai
trò là “cầu nối” giữa người dư thừa vốn và người cần vốn.
Thông qua việc huy động các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi, ngân hàng
thương mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

ix

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay
vừa đóng vai trò là người cho vay. Qua đó đã góp phần tạo lợi ích cho các bên
tham gia, bao gồm người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng thời thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế.


Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản tiền tạm thời nhàn

rỗi của mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa,
ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các
dịch vụ thanh toán tiện lợi.


Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn để kinh

doanh, chi tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian
để tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.



Đối với Ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ

chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi
giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng
thương mại.


Đối với nền kinh tế, đây là chức năng có vai trò quan trọng trong việc

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng yêu cầu vốn để mở rộng quy mô
sản xuất và đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục. Với chức
năng này, ngân hàng thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành
vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển.
Trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là “đi
vay để cho vay”, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, động
thời là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

x

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp

Phương

-

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

Chức năng trung gian thanh toán

Ngân hàng thương mại là trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh
toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi để
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo yêu cầu của họ.
Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là người giữ tài khoản của các
cá nhân và doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên
cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận
tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các
khoản thu, chi. Đó là lượng tiền để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân
hàng, đặt ngân hàng vào vị trí trung gian thanh toán. Hơn nữa, việc thanh toán
trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro
trong vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là những khách hàng ở
xa nhau, điều nay đã tạo nên nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Việc các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán
có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân
hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận
lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức
thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà chủ thể kinh tế giảm được các chi phí và rủi ro
về thời gian, không gian và vật chất. Như vậy, ngân hàng thúc đẩy lưu thông
hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần

phát triển kinh tế. Đồng thời, việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân
hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí
trong lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản tiền…
Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xi

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu phí thanh toán. Mặt khác, nó lại làm
tăng nguồn vốn của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản của
khách hàng. Đây cũng là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng
thương mại.
-

Chức năng tạo tiền

Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân
hàng không còn họat động riêng lẻ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó Ngân
hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng và là ngân hàng của các
ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ
thống, các ngân hàng thương mại đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.

Quá trình tạo ra tiền của ngân hàng thương mại được thực hiện thông
qua tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt
chẽ với hệ thống Ngân hàng trung ương mỗi nước. Từ một số dự trữ ban đầu
thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản của ngân hàng
thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban đầu
gấp nhiều lần.
Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi
của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại
một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó sẽ
chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Vòng quay của vốn thông qua
chức năng tín dụng và thanh toán ngân hàng thương mại thực hiện được chức
năng tạo tiền.
1.2

Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại

1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Nguồn vốn huy động bên ngoài là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng
thương mại, là tài sản bằng tiền mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng
nhưng phải có nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. Vốn
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương


GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

huy động là vốn mà ngân hàng cần phải dự trữ bắt buộc theo tỷ lệ quy định
của nhà nước, tuy nhiên lại đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Vốn huy động được chuyển đến ngân hàng thông qua
các kênh khác nhau dưới nhiều hình thức khác nhau. Lãi suất của vốn huy
động phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường cũng như các quyết định về lãi
suất theo quy định của từng ngân hàng.
Nguồn vốn huy động là nguồn tài nguyên to lớn nhất, bao gồm:
- Vốn huy động tiền gửi:
 Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân
 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
 Tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
 Các khoản tiền gửi khác
Ðối với tiền gửi của cá nhân và đơn vị, ngoài lãi suất, thì nhu cầu giao
dịch với những tiện ích, nhanh chóng và an toàn là yếu tố cơ bản để thu hút
nguồn tiền này.
Ðối với tiền gửi tiết kiệm, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu thì lãi suất
là yếu tố quyết định. Người gửi tiết kiệm hay mua kỳ phiếu đều nhằm mục
đích kiếm lời.
-

Nguồn vốn đi vay: Đây là nguồn vốn có vị trí quan trọng trong tổng

nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Thuộc loại này bao gồm:
 Vốn vay trong nước.
 Vay các ngân hàng thương mại khác thông qua thị trường liên ngân
hàng (Interbank Market).

 Vốn vay ngân hàng nước ngoài.
 Vay Ngân hàng trung ương: Ngân hàng trung ương sẽ tiếp vốn cho
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xiii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

ngân hàng thương mại thông qua biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu nếu các
hồ sơ tín dụng cùng các chứng từ xin tái chiết khấu có chất lượng. Làm như
vậy, Ngân hàng trung ương sẽ trở thành người cho vay cuối cùng đối với ngân
hàng thương mại.
- Vốn khác: Ðó là các nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động
của ngân hàng (đại lý, chuyển tiền, các dịch vụ ngân hàng…)
1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
- Nghiệp vụ ngân quỹ
Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng
luôn giữ một lượng tiền mặt dưới các dạng sau:


Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng: Tùy theo quy mô hoạt động, tính

thời vụ, các ngân hàng phải duy trì mức tồn trữ tiền mặt để thực hiện chi trả

trong ngày.


Tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại khác: để thực hiện các

nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng.


Tiền gửi tại Ngân hàng trung ương: bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc

và tiền gửi thanh toán để phục vụ các hoạt động thanh toán giữa các ngân
hàng thông qua vai trò trung gian thanh toán của Ngân hàng trung ương.


Tiền mặt trong quá trình thu: Là khoản phát sinh do quan hệ thanh

toán vãng lai giữa các ngân hàng, khi ngân hàng đã ghi vào bên nợ nhưng
thực chất lại chưa nhận được tiền.
Ngoài tiền mặt, ngân hàng còn giữ các chứng khoán ngắn hạn, có tính
lỏng cao để có thể chuyển thành tiền mặt nhanh chóng khi cần như thương
phiếu, tín phiếu…
- Nghiệp vụ cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Ngân
hàng thương mại đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xiv

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp



Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

đề mà mọi ngân hàng thương mại đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường
lợi nhuận từ hoạt động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận
của ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách:
theo thời gian có cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn; theo hình
thức đảm bảo có cho vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo; theo mục
đích có cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay
nông nghiệp, cho vay thuê mua...
Thông qua hoạt động tín dụng các ngân hàng thương mại đã và đang
thực hiện chức năng xã hội của mình, góp phần làm cho sản phẩm xã hội tăng
lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó đời sống dân chúng được cải thiện.
- Chiết khấu
Ðây là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp) mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín
dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân
hàng. Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu
và các giấy nợ có giá khác.
- Cho thuê tài chính
Là hoạt động tín dụng trung gian, dài hạn trên cơ sở các hợp đồng cho
thuê tài sản giữa bên cho thuê là ngân hàng thương mại với khách hàng. Khi
kết thúc hợp đồng khách hàng có thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời gian thuê các bên
không được đơn phương chấm dứt hợp đồng.
- Nghiệp vụ đầu tư tài chính
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng thương mại còn dùng số

vốn huy động được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào
nền kinh tế dưới các hình thức như: hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng
khoán trên thị trường... và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
- Nghiệp vụ đầu tư
Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay,
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xv

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của ngân hàng thương mại. Trong
nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định
khác để đầu tư dưới các hình thức như: mua cổ phần, cổ phiếu của các công
ty, hùn vốn mua cổ phần, mua trái phiếu Chính phủ, chính quyền địa phương,
trái phiếu công ty…Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích
mang lại thu nhập, nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân
hàng sẽ được phân tán, mặt khác đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ
rủi ro sẽ rất thấp.
- Tài sản Có khác
Những khoản mục còn lại của tài sản Có trong đó chủ yếu là tài sản lưu
động nhằm: Xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng, trang
thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển, xây dựng hệ thống kho quỹ…

ngoài ra còn các khoản phải thu, các khoản khác.
- Các nguồn khác
Các nguồn này được hình thành từ nghiệp vụ mua, bán, quản lý tài sản
hộ. Khi NHTM càng phát triển, nghiệp vụ trung gian càng nhiều thì nguồn
này chiếm tỷ trọng càng lớn.
Các nguồn vốn khác thường không lớn, việc gia tăng các nguồn này nằm
trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi
khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
1.2.3. Các nghiệp vụ cung ứng dịch vụ
Ngoài hoạt động huy động vốn và cho vay các NHTM còn cung ứng một
số các dịch vụ khác cho khách hàng
- Dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước
Ngày nay, khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động thương mại càng
trở nên đa dạng. Nhu cầu thanh toán qua ngân hàng không dùng tiền mặt ngày
càng tăng trong các hoạt động kinh tế. Các phương thức thanh toán chủ yếu
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xvi

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

được thực hiện như ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thanh toán séc, thực hiện
chuyển tiền nhanh qua mạng, thanh toán qua thẻ tín dụng,…Đồng thời, các

ngân hàng cũng chú trọng đầu tư các trang thiết bị, cơ sở vật chất, áp dụng
ngày càng nhiều công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng để đảm bảo
thời gian thanh toán nhanh, chính xác và an toàn.
Thực hiện tốt các dịch vụ thanh toán góp phần tăng nguồn thu nhập cho
ngân hàng. Nguồn thu về dịch vụ thanh toán ngày càng tăng và chiếm một tỷ
lệ lớn trong tổng doanh thu hoạt động kinh doanh, đồng thời góp phần làm
tăng tốc độ chu chuyển nguồn vốn, tiết kiệm thời gian, làm giảm khối lượng
tiền tệ lưu thông, tiết kiệm chi phí in ấn, kiểm đếm tiền,… Ngân hàng có công
tác thanh toán tốt và đảm bảo sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng
đến giao dịch từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác huy động vốn và
cho vay của ngân hàng.
- Dịch vụ bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên
có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghiệp vụ tài chính thay cho
khách hàng (bên được bảo lãnh) trong trường hợp khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Thông thường các ngân hàng thương mại áp dụng các hình thức bảo lãnh như:
bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng,…
- Bảo quản vật có giá
Đây là một trong những dịch vụ lâu đời nhất được các NHTM thực hiện.
Có hai hình thức bảo quản vật có giá là két sắt bảo quản ký thác và bảo quản
an toàn vật có giá.
Két sắt bảo quản ký thác được lập ra để cho khách hàng thuê, khách
hàng có quyền kiểm tra tài sản có giá của họ bất kỳ thời điểm nào. Ngân hàng
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xvii


Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

chỉ cung cấp kho bảo quản, két sắt và điều kiện an toàn.
Bảo quản an toàn vật có giá là nhiệm vụ trông nom, quản lý giấy tờ có
giá như là một đại lý đối với khách hàng.
- Các dịch vụ khác
Ngoài những nghiệp vụ chủ yếu nêu trên, NH còn thực hiện các dịch vụ khác
như mua bán, trao đổi ngoại tệ, dịch vụ ủy thác, quản lý tiền mặt,…
Các hoạt động của NHTM đều có mối quan hệ mật thiết hữu cơ, làm tiền
đề, điều kiện cho nhau. Vì vậy NHTM phải thực hiện tốt, đồng bộ tất cả các
hoạt động của mình.
1.3.

Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại

1.3.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ chủ yếu dưới hình thức huy
động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ. Huy động vốn - hoạt động tạo
nguồn vốn cho ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng
đến chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn và những người
thiếu vốn, ngân hàng đã điều hòa được sự mất cân đối về nhu cầu vốn này dựa
vào hoạt động huy động các nguồn vốn trong xã hội. Như vậy, hoạt động huy
động vốn là các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng nhằm thu hút các nguồn

vốn nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức kinh tế xã hội dưới dạng tiền gửi tiết
kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hành séc và các giấy tờ có giá khác tạo nên
một nguồn tài chính để ngân hàng sử dụng và có trách nhiệm phải hoàn trả. Vì
vậy nguồn vốn huy động cũng được coi là tài sản nợ của ngân hàng.
Nguồn vốn ngân hàng huy động được sử dụng để tiến hành cho vay phục
vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế của
địa phương và của cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng
mở rộng và phát triển sẽ tạo uy tín và nguồn tiền cho ngân hàng mở rộng quan
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xviii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

hệ tín dụng với các thành phần kinh tế từ đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Do đó, NH phải căn cứ vào các chiến lược phát triển của địa phương cũng như
của cả nước để đưa ra các chính sách huy động vốn thích hợp nhất, đáp ứng nhu
cầu vốn cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
1.3.2. Đặc điểm của vốn huy động
Vốn huy động trong ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong

-


tổng nguồn vốn. Các ngân hàng thương mại hoạt động được chủ yếu là nhờ
nguồn vốn này.
-

Đây là nguồn vốn không ổn định vì khách hàng có thể rút bất cứ

lúc nào, do đó các NHTM cần phải duy trì một khoản dự trữ thanh toán để sẵn
sàng đáp ứng như cầu rút tiền của khách hàng, để đảm bảo an toàn cho hoạt
động ngân hàng, tránh sự sụt giảm đột ngột về nguồn vốn.
-

Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh. Các ngân hàng để thu hút

khách hàng đến với mình đã không ngừng hoàn thiện khung lãi suất thật hấp
dẫn nên nguồn vốn này có chi phí cho vay khá cao.
1.3.3. Sự cần thiết cuả hoạt động huy động vốn
Đối với nền kinh tế:
- Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm
và đầu tư có mối quan hệ nhân quả. Tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng
phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư. Ngược lại, đầu tư cũng góp
phần khuyến khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế, các khoản tiết kiệm
thường nhỏ lẻ và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính
là các ngân hàng thương mại. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn của hệ
thống NHTM mà các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế được đưa vào
phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế
quốc dân. Do đó làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong quá trình
đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51


xix

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

-

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

Nghiệp vụ phát hành các giấy tờ có giá trong công tác huy động vốn

của các Ngân hàng thương mại đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập và
đa dạng hóa các loại hàng hóa trên thị trường chứng khoán.
- Góp phần đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư và đẩy nhanh quá trình hội
nhập vào thị trường chứng khoán quốc tế thông qua nghiệp vụ phát hành trái
phiếu quốc tế, vay mượn vốn trung và dài hạn từ các ngân hàng nước ngoài.
Đối với bản thân Ngân hàng thương mại:
- Vốn là cơ sở để Ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với
những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự án lớn luôn dễ dàng
hơn các ngân hàng nhỏ. Hoạt động của các NHTM với đặc thù kinh doanh
tiền tệ thì vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh
doanh chủ yếu. Do vậy, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được
các nghiệp vụ kinh doanh của mình. Ngân hàng muốn mở rộng kinh doanh,
thu được lợi nhuận thì ngoài vốn ban đầu, cần phải thường xuyên quan tâm
tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng.
- Vốn quyết định năng lực thanh toán của ngân hàng, đảm bảo uy tín

của ngân hàng trên thương trường. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy
tín của ngân hàng chính là vốn. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của ngân
hàng luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao
thiệp với ngân hàng. Trong nền kinh tế bất ổn như hiện nay, khả năng thanh
toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng đầu và để được như vậy thì các
ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn. Do vậy, vốn quyết
định năng lực cạnh tranh của các ngân hàng.
- Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng. Hoạt động tín dụng của NH phụ thuộc vào vốn. Có được nhiều
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xx

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

vốn, NH sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có điều
kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng. Các ngân hàng lớn,
nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ tiện ích. Phạm vi hoạt động kinh
doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các NH nhỏ. Nguồn vốn đủ lớn còn giúp các
NH nâng cao chất lượng dịch vụ, đầu tư vào nguồn công nghệ hiện đại đem
lại hiệu quả hoạt động cao.
1.3.4. Các phương thức huy động vốn
- Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi

Nguồn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn
vốn, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng thực hiện kinh doanh. Nguồn vốn huy
động qua tài khoản tiền gửi gồm những hình thức sau:


Tiền gửi không kỳ hạn (Tiền gửi thanh toán)

Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào.
Tiền gửi không kỳ hạn được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai.
Người gửi tiền có thể gửi thêm tiền vào hoặc rút tiền ra khỏi tài khoản bất cứ lúc
nào nên dạng tiền gửi này thường được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được
trả lãi nhưng người gửi tiền được hưởng các dịch vụ thanh toán với mức phí thấp.
Với loại tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ
yếu nhằm mục đích đảm bảo an toàn cho khoản tiền và thực hiện các hoạt
động thanh toán qua ngân hàng. Chính vì vậy mà lại tiền gửi này còn được
gọi là tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi không kỳ hạn là một nguồn vốn quan trọng của ngân hàng. Tuy
nhiên do người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào nên nguồn vốn này thương
xuyên biến động, vì vậy ngân hàng thường dùng nó để cho vay ngắn hạn.


Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội

Là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một thời hạn nhất định.
Khi các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội có nhiều khoản thu sẽ được chi
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xxi


Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

trả sau một thời gian xác định thì họ thường chọn hình thức tiền gửi này. Tiền
gửi thanh toán tuy thuận tiện song lãi suất thấp vì vậy mục đích chủ yếu của
những người gửi tiền có kỳ hạn là để lấy lợi tức, không quan tâm tới dịch vụ
thanh toán do ngân hàng cung cấp. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến NH
để rút ra. Tuy không thuận tiện bằng tiền gửi thanh toán nhưng tiền gửi có kì
hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kỳ hạn.
Để tăng tỷ lệ tiền gửi có kỳ hạn, NH có thể sử dụng các công cụ lãi suất
và các chính sách khuyến khích lợi ích vật chất khác như xổ số hoặc bốc thăm
trúng thưởng… để tạo ra sự quan tâm thu hút của khách hàng.
Với đặc tính ổn định của tiền gửi có kỳ hạn, NH có thể chủ động trong
việc sử dụng nguồn vốn, tìm kiếm những khoản đầu tư có thời gian hợp lý và
thu lợi nhuận cao.


Tiền gửi tiết kiệm

Là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào NH nhằm mục đích
hưởng lãi theo định kỳ. Các mức lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn được NH
công bố sẵn. Hình thức phổ biến nhất và cổ điển nhất của tiền gửi tiết kiệm là
loại tiền gửi tiết kiệm có sổ. Ngoài ra, còn có những hình thức khác như
chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, trái phiếu tiết kiệm.
Ở Việt Nam, tiền gửi tiết kiệm bao gồm ba loại sau:

 Tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi tiết kiệm mà người gửi
tiền có thể gửi vào và rút ra theo nhu cầu sử dụng mà không cần báo trước
cho NH. Ngân hàng trả lãi cho loại tiền gửi này nhưng rất thấp. Loại tiền gửi
này gần giống với tiền gửi không kỳ hạn, chỉ khác là nó luôn được hưởng lãi,
nhưng đổi lại không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.
Người gửi tiền chỉ nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền, dự phòng các nhu
cầu chi tiêu trong thời gian ngắn đồng thời được hưởng lãi dù rất thấp.
 Tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn gửi cố định
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xxii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

trước. Loại tiền gửi này tương tự như tiền gửi có kỳ hạn ở các điểm là không
được phép rút trước hạn (nếu rút trước sẽ chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi
không kỳ hạn), được hưởng lãi suất cao hơn các dạng tiền gửi không kỳ hạn
và không được hưởng các được thanh toán qua NH. Với dạng tiền gửi này,
người gửi chỉ được gửi tiền vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi khi
đến hạn. Không cho phép bổ sung thêm vào số tiền đã gửi khi chưa hết hạn.
Mỗi lần gửi được coi là một lần gửi riêng biệt. Mức tối thiểu cho mỗi lần gửi
tiền do từng NH qui định.
 Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Là hình thức tiết kiệm trung và dài

hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Ngoài việc được hưởng lãi thì người gửi
còn được NH cho vay nhằm bổ sung thêm vốn cho mục đích xây dựng nhà ở
của họ. Mức cho vay tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn là nguồn vốn quan trọng
nhất của Ngân hàng thương mại. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định vì NH
nắm được những kỳ luân chuyển của vốn, vì vậy NH có thể sử dụng để cho
vay cả ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn.
-

Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá

Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người
mua. Vì vậy, Ngân hàng thương mại cũng có thể phát hành giấy tờ có giá để
huy động vốn.
Một giấy tờ có giá trường kèm theo các thuộc tính sau đây:


Mệnh giá: Là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá

phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở
hữu đối với các giấy từ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ.


Thời hạn giấy tờ có giá: Là thời gian được ghi trên giấy tờ có giá.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51


xxiii

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

Nó được tính từ khi giấy tờ có giá được phát hành đến khi đáo hạn.


Lãi suất của giấy tờ có giá: Lãi suất áp dụng để tính lãi cho người

mua giấy tờ có giá được hưởng.
Giấy tờ có giá có thể chia thành nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào quyền sở hữu có thể chia giấy tờ có giá thành giấy tờ có giá
ghi danh và giấy tờ có giá vô danh. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá
phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có tên người sở hữu. Giấy tờ
có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ nó.
Căn cứ vào thời hạn, tương ứng với thời gian huy động, giấy tờ có giá có
thể chia thành hai loại: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn.
•Huy động vốn ngắn hạn
Để huy động vốn ngắn hạn, các NHTM có thể phát hành giấy tờ có giá ngắn
hạn. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới 12 tháng, bao gồm
chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Muốn phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng thương mại phải lập
hồ sơ đề nghị phát hành. Nội dung thông báo phát hành gồm có:
 Tên tổ chức phát hành.

 Tên gọi giấy tờ có giá (tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi…).
 Tổng mệnh giá của đợt phát hành.
 Thời hạn của giấy tờ có giá.
 Ngày phát hành.
 Ngày đến hạn thanh toán.
 Lãi suất, phương thức trả lãi, thời điểm và địa điểm trả lãi.
 Phương thức hoàn trả và địa điểm trả tiền gốc của giấy tờ có giá.
•Huy động vốn trung và dài hạn
Muốn huy động vốn trung và dài hạn (3, 5, hay 10 năm) các ngân hàng
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xxiv

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


Chuyên đề tốt nghiệp
Phương

GVHD:TS.Nguyễn Thị Hoài

thương mại có thể phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và cổ phiếu. Trái phiếu do
NH phát hành có thể được xem là một loại trái phiếu công ty. So với trái
phiếu chính phủ thì trái phiếu NH rủi ro hơn nên chi phí để huy động vốn cao
hơn so với trái phiếu chính phủ hay trái phiếu kho bạc.
- Vay ngắn hạn các khoản dự trữ từ các TCTD khác
Đây là hình thức vay mượn lẫn nhau của các tổ chức tín dụng trên thị
trường liên ngân hàng. Các NH đang có dự trữ vượt yêu cầu do có sự kết dư
gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ cho các

NH khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các NH đang thiếu hụt
dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Thời hạn của
loại cho vay này rất ngắn, thường không quá một tuần. Quá trình vay mượn
này lại rất đơn giản. Vì vậy hoạt động này nhằm tận dụng đến mức cao nhất
các khả năng sẵn có của các tổ chức tín dụng, giúp điều hòa nhu cầu vốn và
đảm bảo nguồn vốn luân chuyển thông suốt liên tục trong hệ thống NH, trước
khi có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng Trung ương.
- Vay nước ngoài
Các ngân hàng thương mại cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ
việc phát hành phiếu nợ để vay vốn ở nước ngoài.
- Vay vốn từ Ngân hàng trung ương
Trong quá trình hoạt động, ngoài các hình thức vay trên thì NH còn có
thể vay vốn của Ngân hàng trung ương. Đây được coi là hình thức vay cuối
cùng của các ngân hàng thương mại.
Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được Ngân hàng trung ương cho
phép thành lập hoạt động đều được hưởng quyền vay vốn tại Ngân hàng trung
ương trong trường hợp thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt. Ngân hàng trung
ương cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại chủ yếu dưới 2 hình thức, đó là:
 Chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Thanh
51

xxv

Lớp: Tài chính doanh nghiệp Pháp


×