Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TÌNH HÌNH CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CHO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI QUA KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.27 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ

LƯU NGUYỄN NGÂN HÀ

TÌNH HÌNH CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CHO
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
QUA KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV4

TIỂU LUẬN MÔN THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
PGS.TS: Phạm Minh Sơn
Thạc sĩ: Đỗ Thị Hùng Thúy

Hà Nội, tháng 6 – năm 2019

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:...................................................................4
2.1. Mục đích nghiên cứu:...............................................................................4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:...............................................................................5
3. Kết cấu tiểu luận:............................................................................................5
CHƯƠNG 1:.............................................................................................................7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI
NGOẠI CHO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI QUA
KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV4...............................................................................7


1.1. Cơ sở lý luận và một số điểm cơ bản của thông tin đối ngoại.................7
1.1.1. Khái niệm thông tin đối ngoại...............................................................7
1.1.2. Vai trò của thông tin đối ngoại..............................................................8
1.1.3. Đặc điểm của thông tin đối ngoại........................................................10
1.2. Vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong công tác
thông tin đối ngoại..............................................................................................14
1.2.1. Khái niệm cộng đồng nguời Việt Nam ở nước ngoài.........................14
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ TRONG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA
KÊNH VTV4...........................................................................................................20
3.1. Định hướng phát triển thông tin đối ngoại trên kênh VTV4.................20
3.2. Những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế giúp nâng cao hiệu quả
công tác thông tin đối ngoại qua các chương trình trên kênh VTV4.............21
3.2.1. Kỹ năng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ phóng viên và biên tập
viên 21
3.2.2. Tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhiều thể loại tin và phóng sự
21
3.2.3. Nghiên cứu về nhóm công chúng người Việt Nam ở nước ngoài.....22
Công chúng có vai trò quyết định với sự tồn tại và phát triển của một tờ báo,. 22
2


KẾT LUẬN.............................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................27

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất nước Việt Nam ta – dải đất hình chữ S – gồm 55 dân tộc anh em đồng
bào, hình thành nên dân tộc Việt Nam với nhiều ngôn ngữ riêng nhưng lại có
tiếng nói chung, bản sắc văn hóa riêng nhưng góp phần xây dựng nền văn
hóa chung truyền thống đặc sắc bao đời nay.
Trong suốt hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta, trải qua
nhiều giai đoạn biến động của lịch sử đất nước, cộng đồng dân tộc Việt Nam
đã cùng nhau gây dựng và phát triển đất nước. Nhiều thế hệ người Việt Nam
đã ra nước ngoài làm ăn, định cư, hình thành cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài. Hiện nay cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có khoảng
hơn 4 triệu người, sinh sống và làm việc tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh
thổ lớn nhỏ khác nhau trên toàn thế giới.
Cộng đồng người Việt Nam bao gồm đông đảo nhân dân trong nước và cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài đều là những người con đất Việt, mang
trong mình dòng máu “con rồng cháu tiên”, khoác trên vai một niềm kiêu
hãnh, tự hào dân tộc và luôn ý thức được trách nhiệm của bản thân trong
công cuộc gìn giữ và phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước. Và đối
với công tác thông tin đối ngoại, họ là hai trong những đối tượng quan trọng
và chủ yếu.
Nếu như nhân dân trong nước là đối tượng hướng tới cũng như chính là lực
lượng thực hiện công tác thông tin đối ngoại thì cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài là bộ phận không thể tách rời, đồng thời chính là một nguồn lực
của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố góp phần tăng cường quan hệ
hợp tác hữu nghị song phương với các quốc gia khác. Đảng và nhà nước ta
luôn có chính sách quan tâm, chú trọng, tạo điều kiện cho đồng bào ta ở
4


nước ngoài về mặt thông tin đối ngoại, giúp cho cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài thỏa mong muốn nắm bắt rõ tình hình chính trị, kinh tế, văn
hóa ở quê nhà; đồng thời giúp kiều bào giữ gìn, duy trì những nếp sinh hoạt,

văn hóa bản sắc của dân tộc, gắn bó tình cảm với quê hương, xứ sở.
Vì vậy, có thể nói công tác thông tin đối ngoại giữ vai trò chủ chốt trong việc
làm cầu nối giữa cộng đồng người Việt Nam với đất nước, qua đó cung cấp
cho kiều bào những thông tin thời sự nhanh nhất, chính xác nhất về Việt
Nam. Hoạt động thông tin đối ngoại cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài
gần đây đã đạt được nhiều những thành tích nổi bật, tuy nhiên cũng vẫn còn
những khó khăn chưa khắc phục được. Với một cộng đồng lớn và trải rộng
khắp như vậy, việc công tac thông tin đối ngoại từ các phương tiện thông tin
đại chúng còn gặp nhiều khó khăn do quy mô còn hạn chế; tạo cơ hội cho
những phàn tử thù địch tạo dựng nhiều tờ báo, nhiều trang thông tin, nhiều
chương trình truyền hình nhằm đưa thông tin sai lệch về tình hình nước nhà,
gây chia rẽ, sứt mẻ tình dân tộc.
Nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng cũng như cần thiết, đề tài tiểu luận
“Tình hình công tác thông tin đối ngoại cho cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài qua kênh truyền hình VTV4” ra đời nhằm góp phần xây dựng
công tác thông tin đối ngoại cho kiều bào Việt Nam qua một kênh truyền
hình chính thống ngày một phát triển tốt hơn, tích cực đẩy mạnh phát huy ưu
điểm, khắc phục tối đa nhược điểm, nhanh chóng đưa ra giải pháp trước các
vấn đề còn tồn tại trong hoạt động này; nâng cao hiệu quả công tác thông tin
đối ngoại cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1.

Mục đích nghiên cứu:

Đề tài đưa ra tình hình thực tế của công tác thông tin đối ngoại cho cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài qua kênh truyền hình VTV4, tổng hợp
những kênh truyền hình chính thống, những chương trình nổi bật dành cho
5



người Việt Nam ở nước ngoài; nêu qua những nhận xét cũng như ưu, nhước
điểm và đề xuất giải pháp ban đầu.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tình hình công tác
thông tin đối ngoại cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
qua kênh truyền hình VTV4
- Khảo sát, phân tích, đánh giá những chương trình phục vụ công tác
thông tin đối ngoại trên sóng VTV4; tổng kết, đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại của các chương trình.

3. Kết cấu tiểu luận:
Tiểu luận gồm có 3 phần chính: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận.
Trong đó, phần nội dung bao gồm chương và tiết như sau:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH CÔNG TÁC
THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CHO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở
NƯỚC NGOÀI QUA KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV4
1.1.

Cơ sở lý luận và một số điểm cơ bản của thông tin đối ngoại

1.2.

Vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong công tác
thông tin đối ngoại.

1.3.


Đài truyền hình Việt Nam, kênh truyền hình VTV 4 và công tác thông
tin đối ngoại.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CỦA KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV4
2.1.

Giới thiệu các chương trình phát sóng trên kênh VTV4.

2.2.

Thực trạng công tác thông tin đối ngoại đối với cộng đồng người Việt

Nam ở nước ngoài qua kênh truyền hình VTV4
2.3.

Những thành tựu và hạn chế trong công tác thông tin đối ngoại của kênh

VTV4
6


CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TRONG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA KÊNH
VTV4
3.1.

Định hướng phát triển thông tin đối ngoại trên kênh VTV4

3.2.


Những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế giúp nâng cao hiệu quả công
tác thông tin đối ngoại qua các chương trình trên kênh VTV4
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

7


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI
NGOẠI CHO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI QUA
KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV4
1.1.

Cơ sở lý luận và một số điểm cơ bản của thông tin đối ngoại

1.1.1. Khái niệm thông tin đối ngoại
Định nghĩa công tác thông tin đối ngoại, quy định: “Thông tin đối ngoại bao gồm
thông tin chính thức về Việt Nam, thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam và thông
tin tình hình thế giới vào Việt Nam.”1. Trong đó, thông tin chính thức về Việt Nam
là thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; thông tin về tình hình Việt Nam trên các lĩnh vực; thông tin về lịch sử Việt
Nam và các thông tin khác2. Thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về
đất nước, con người, lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam 3. Thông tin tình hình thế
giới vào Việt Nam là thông tin về tình hình quốc tế trên các lĩnh vực, về quan hệ
giữa Việt nam với các nước và các thông tin khác nhằm thúc đẩy quan hệ chính trị,
xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam với các nước, phục vụ phát
triển kinh tế đất nước, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam 4. Ngoài ra,

thông tin đối ngoại còn bao gồm cả việc cung cấp thông tin giải thích, làm rõ, tức là
những tư liệu, tài liệu, hồ sơ, lập luận nhằm giải thích, làm rõ các thông tin sai lệch
về Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực5.
Thông tin đối ngoại còn được hiểu như sau: “Thông tin đối ngoại là một bộ phận
quan trọng trong công tác tư tưởng và đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta nhằm làm cho thế giới hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước; những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, đất nước, con
1 Điều
2 Điều
3 Điều
4 Điều
5 Điều

6, Nghị định 72/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại.
7
8
9
10
8


người, lịch sử, văn hóa, những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam;
đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam; tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, sự đồng thuận và đóng góp
của đồng bào ta ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”6
Trên cơ sở hiểu được khái niệm này, ta thấy rõ thông tin đối ngoại là một hoạt động
có nội dung và phạm vi rất rộng, không đơn thuần là thông tin ra ngoài các nước,
các tổ chức quốc tế mà còn bao gồm cả thông tin của các nước vào Việt Nam;
thông tin quảng bá kết hợp với đấu tranh, trên cơ sở vừa bảo vệ, phát huy những giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân

loại.
1.1.2. Vai trò của thông tin đối ngoại
Việc thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại có vai trò to lớn; nhằm nâng
cao vai trò, vị thế của nước ta trên trường quốc tế, giúp cho nhân dân các
nước hiểu hơn về Việt Nam cũng như nhân dân Việt Nam hiểu biết về bạn bè
trên thế giới, từ đó củng cố việc xây dựng, bảo vệ đất nước; xây dựng mối
quan hệ giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực, thúc đẩy kinh tế phát triển. trong
thời chiến cũng như thời bình, công tác tuyên truyền đối ngoại giúp cho nhân
dân ta cũng như thế giới hiểu về Việt Nam, gạt đi những hiểu lầm, những
luận điệu xuyên tạc của kẻ thù nhằm bôi nhọ Việt Nam; từ đó giúp đỡ Việt
Nam trong những lĩnh vực khác nhau.
Trong chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 – 2020 xác
định: Thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng của công tác đối ngoại
và công tác tư tưởng nhằm làm cho thế giới hiểu rõ đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước; quan điểm và lập trường của Việt Nam trong các vấn đề
quốc tế và khu vực; giới thiệu những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới;
về đất nước, con người, lịch sử, văn hoá dân tộc; đấu tranh chống lại những
luận điệu sai trái, xuyên tạc về Việt Nam, qua đó tranh thủ sự đồng tình, ủng
6 Giáo

trình Thông tin đối ngoại đại cương, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
9


hộ, hợp tác, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, sự đồng thuận và đóng góp của đồng
bào ta ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thông tin đối ngoại còn giúp nhân dân trong nước tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm, tinh hoa văn hoá của nhân dân thế giới, góp phần cùng
nhân dân thế giới đấu tranh vì hoà bình, hợp tác và phát triển. Thông tin đối
ngoại là một bộ phận của công tác tư tưởng, tuyên truyền của Đảng, Nhà

nước: Thông tin đối ngoại là sự tiếp tục của công tác tư tưởng, tuyên truyền
trên phạm vi quốc tế, với một đối tượng phức tạp và đa dạng hơn. Thông tin
đối ngoại nhằm tranh thủ dư luận thế giới, góp phần thực hiện nhiệm vụ cách
mạng được xác định cho một giai đoạn nhất định. Hiện nay, mục tiêu của
cách mạng Việt Nam là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện. Để thực hiện được mục
tiêu này, Việt Nam cần phát huy tối đa nội lực, đồng thời phải tận dụng mọi
khả năng hợp tác quốc tế nhằm tạo sức mạnh tổng hợp.
Thông tin đối ngoại là một nhiệm vụ của công tác đối ngoại: Mục đích của
thông tin đối ngoại cũng là mục đích của hoạt động đối ngoại. Một mặt, làm
cho bạn bè, đối tác trên thế giới hiểu rõ nước mình; mặt khác, góp phần thực
hiện mục tiêu cách mạng đề ra. Thông tin đối ngoại không thể nằm ngoài và
độc lập với công tác đối ngoại. Khi hoạch định chính sách, các nước đều đề
ra chủ trương, hoặc chiến lược thông tin đối ngoại. Thông tin đối ngoại góp
phần quan trọng trong việc giành lấy “trái tim và khối óc” của đa số nhân
dân thế giới.
Thông tin đối ngoại góp phần nâng cao vị thế quốc gia và xây dựng hình ảnh
quốc gia trong thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện. Thông tin đối ngoại là
công cụ chủ yếu thực hiện mục tiêu nâng cao vị thế đất nước, nhất là trong
bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện. Nghị quyết Đại hội Đảng XII đã nhấn
mạnh yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền
đối ngoại trong tình hình mới.
10


1.1.3. Đặc điểm của thông tin đối ngoại
Thông tin đối ngoại được xác định vừa là một bộ phận của công tác tư tưởng,
vừa là một bộ phận của công tác đối ngoại, với một số đặc điểm, tính chất cụ
thử như sau:
Đối tượng của công tác thông tin đối ngoại bao gồm 4 nhóm: Một là, nhân

dân, chính phủ các nước, bao gồm bộ máy nhà nước của các quốc gia; các tổ
chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quần chúng, giới doanh
nhân, báo chí, học giả, bạn bè Việt Nam, các nhà hoạt động xã hội. Hai là lực
lượng đông đảo hơn 4,5 triệu người Việt Nam ở trên 100 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Ba là, người nước ngoài ở Việt Nam gồm Đoàn ngoại giao, các tổ
chức quốc tế, các đoàn khách quốc tế; giới doanh nhân, các nhà đầu tư,
chuyên gia, công nhân, giới học giả, nghiên cứu, lưu học sinh, giới báo chí,
nghệ sỹ, vận động viên và khách du lịch. Bốn là, nhân dân trong nước, các
cơ quan, tổ chức hoạt động thông tin đối ngoại đột xuất.
Như khái niệm đã trình bày, địa bàn hoạt động thông tin đối ngoại rất rộng
lớn, được phân làm hai địa bàn ngoài nước và trong nước. Địa bàn ngoài
nước là các nước láng giềng và các nước trong khu vực (ASEAN, Châu
Á...); các nước có đông cộng đồng người Việt Nam sinh sống, làm việc; các
nước có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Việt Nam. Địa bàn trong
nước là các tỉnh, thành phố, nhất là khu vực có danh lam thắng cảnh, các
thành phố lớn, các khu công nghiệp có đầu tư nước ngoài; các vùng biên
giới, cửa khẩu, hải đảo.
Lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại bao gồm: các cơ quan chỉ đạo;
các tổ chức, đơn vị, địa phương thực hiện và các cơ quan báo chí, truyền
thông đại chúng. Mỗi nhóm lực lượng này căn cứ vai trò, chức năng, nhiệm
vụ được phân công, tiến hành tham mưu, tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ
thông tin đối ngoại cụ thể. Có 2 kênh tiến hành thông tin đối ngoại chủ yếu
là, kênh thông tin trực tiếp và kênh thông tin gián tiếp. Kênh trực tiếp thông
11


qua gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi đoàn; vận động hành lang, họp báo, hội thảo,
hội nghị quốc tế; du học, lao động; du lịch, biểu diễn văn hóa - nghệ thuật,
thể thao; mit tinh, tuần hành; hội chợ, triển lãm, từ thiện... Và gián tiếp qua
các phương tiện thông tin đại chúng (báo in, phát thanh, truyền hình, báo

mạng internet...) và truyền thông mới (Facebook, Instagram; Twitter...); sách;
điện ảnh; khẩu hiệu, biểu ngữ, tranh cổ động; quảng cáo; tờ rơi... Tùy mục
đích, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các tổ chức, cơ quan, đơn vị tiến hành một
hoặc kết hợp cả hai kênh thông tin nêu trên nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước nước ta thực hiện phương châm thông tin đối
ngoại: Chính xác, kịp thời, linh hoạt, phù hợp từng đối tượng. Nắm và hiểu
rõ được các khái niệm, phạm vi, lực lượng, hình thức hoạt động phù hợp sẽ
là căn cứ để cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại tham mưu và tổ chức
các hoạt động thông tin đối ngoại phù hợp với tình hình thực tế, thực tiễn tại
địa phương, đơn vị, đem lại hiệu quả cao đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay.
1.1.4. Đối tượng của công tác thông tin đối ngoại:
Đối tượng của thông tin đối ngoại khác cơ bản đối tượng của thông tin đối
nội. Đối tượng của thông tin đối nội là cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp
nhân dân trong nước; đại đa số tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nhất trí với
đường lối, chính sách của nhà nước. Hay nói cách khác, người làm công tác
thông tin và đối tượng thông tin cùng chung chú hướng, cách tư duy và suy
nghĩ.
Trong khi đó, đối tượng của thông tin đối ngoại bao gồm nhiều tầng lớp, giai
cấp, các thành phần xã hội với trình độ nhận thức, mối hiểu biết và các mối
quan tâm khác nhau. Đó là nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn, các trung tâm kinh tế
- chính trị - xã hội lớn và các bạn bè truyền thống. Về cơ bản, có thể chia đối

12


tượng hoạt động thông tin đối ngoại thành 4 nhóm lớn, trong đó có 3 nhóm
đặc thù:
Nhóm 1: Nhân dân chính phủ các nước trên thế giới

Đây là nhóm đối tượng lớn nhất của thông tin đối ngoại. Đến nay, Việt Nam
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 180 quốc gia, có quan hê kinh tế
thương mại và đầu tư với 220 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Việt Nam là thành viên của hơn 60 tổ chức quốc tế và khu vực. Bên cạnh đó,
Đảng ta có quan hệ ở mức độ khác nhau với trên 220 chính đảng ở các nước
trên khắp các châu lục trên thế giới. Các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta có
quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ quốc gia và
quốc tế. Do điều kiện còn hạn chế, công tác thông tin đối ngoại tập trung
cung cấp thông tin cho nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước
lớn, các trung tâm kinh tế chính trị - xã hội lớn, các bạn bè truyền thống và
các nước có cộng đồng người Việt Nam sinh sống. Mỗi nước tập trung vào
chính giới, các nhà kinh doanh tri thức, đội ngũ người làm báo chí, xuất bản,
các nhà Việt Nam học, những bạn bè có thiện chí với Việt Nam – những
người là cầu nối Việt Nam với Thế giới.
Nhóm 2: Người nước ngoài sinh sống, học tập, làm việc, du lịch tại Việt
Nam
Bao gồm những người nước ngoài đang làm việc trong các tổ chức đoàn
ngoại giao, đại diện cho các tổ chức chính phủ ngoài nước và các tổ chức
quốc tế, các tổ chức phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam, giới đầu tư kinh
doanh, chuyên gia nước ngoài trong các lĩnh vực, phóng viên thường trú các
cơ quan thông tấn, báo chí, các đoàn khách viếng thăm, du lịch, lưu học sinh
ngoài nước… Mặc dù thành phần người nước ngoài tại Việt Nam rất phong
phú, đa dạng, đến Việt Nam với nhiều mục đích, thời gian khác nhau, nhưng
rất cả đều có điểm giống nhau: cuộc sống của họ tại Việt Nam gắn chặt với
thiên nhiên, đất nước và cuộc sống của người dân Việt Nam. Đa số đều mong
13


muốn có những khoảng thời gian tốt đẹp và bổ ích, đáng nhớ ở Việt Nam và
thu nhập được nhiều thông tin về đất nước, con người, bản sắc văn hóa, dân

tộc, chế độ chính trị… Mỗi ấn tượng tốt đẹp, mỗi món quà kỉ niệm, một
mặt hàng độc đáo, vừa ý, mỗi thông tin đúng đắn mà họ đem về nước là một
lời quảng bá quý giá cho hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Trong
nhóm đối tượng này cần hết sức chú ý đến đội ngũ phóng viên nước
ngoài thường trú tại Việt Nam, đội ngũ doanh nhân đang làm ăn tại Việt
Nam, các đại sứ quán, các cơ quan đại diện nước ngoài và quốc tế tại Việt
Nam. Hiện nay, ở Việt Nam có gần 30 văn phòng thường trú với không ít
phóng viên thường trú nước ngoài. Ngoài ra còn đội ngũ phóng viên không
thường trú đến Việt Nam trong một thời gian ngắn hay nhân các sự kiện lớn
trong nước như Đại hội Đảng, các ngày lễ lớn, Tết, Festival hay đi tháp tùng
các chuyến viếng thăm cấp cao, các hội nghị quốc tế quan trọng tổ chức tại
Việt Nam. Những thông tin do họ “phát lại” ở nước ngoài thường mang lại
hiệu quả cao hơn.
Với những đối tượng này, công tác thông tin đối ngoại cần cung cấp cho họ
thông tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Việt Nam, về các sự kiện
quan trọng, về tình hình toàn diện của Việt Nam càng đầy đủ, càng chính
xác, càng kịp thời càng tốt. Cố gắng không để trống thông tin, gây kẽ hở cho
những suy đoán, bình luận không có lợi cho chúng ta. Thông tin càng kịp
thời chính xác, đầy đủ, thuyết phục càng tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhóm 3: Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được hình thành từ rất lâu trong
lịch sử. Đến nay có gần 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống tại hơn 100
nước và vùng lãnh thổ, trong đó đa số là ở các nước công nghiệp phát triển.
Người Việt Nam ra nước ngoài vì nhiều lý do và bằng các con đường khác
nhau, song đa phần ai cũng hướng về Tổ quốc, nơi họ còn có tổ tiên, quê
14


hương, gia đình, người thân, bạn bè. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng

đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Nếu hiểu đúng tình hình đất nước, họ sẽ tự tin hơn,
chủ động hơn trong quan hệ với nước sở tại và trở thành lực lượng làm thông
tin đối ngoại ngay tại nơi họ cư trú.
Nhóm 4: Nhân dân trong nước
Đây vừa là lực lượng thực hiện, vừa là đối tượng hướng tới của thông tin
đối ngoại. Với nhân dân trong nước, thông tin đối ngoại có nhiệm vụ cung
cấp thông tin quốc tế kịp thời, chính xác, giúp nhân dân có hiểu biết đúng
đắn các sự kiện, diễn biến quốc tế. Cùng với đó, thông tin đối ngoại cũng
góp phần vạch trần các âm mưu, hành động chống phá, xuyên tạc về Việt
Nam. Tất cả đều nhằm giúp nhân dân hiểu rõ hơn chủ trương, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước, đồng thời có phản ứng kịp thời, phù hợp
với các diễn biến, sự kiện.
1.2.

Vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong công tác
thông tin đối ngoại

1.2.1. Khái niệm cộng đồng nguời Việt Nam ở nước ngoài
Khái niệm “ Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” được đề cập trong
nhiều văn bản pháp luật, chính sách của đảng và nhà nước, tuy nhiên chưa có
một khái niệm thống nhất cho cộng đồng người Việt Nam. Cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài tồn tại với nhiều cách khác nhau như: ngoại kiều
người Việt, Việt kiều, người việt hải ngoại, kiều bào, kiều dân, người Việt
Nam ở nước ngoài hay là người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Luật quốc tịch Việt Nam nêu rõ: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là
công dân Việt Nam và người gốc Việt nam cư trú sinh sống lâu ở nước
ngoài.”.7
7 Luật quốc tịch Việt Nam của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tự số 21/2008/QH2 ngày 13 tháng 1 năm 2008 (tr.135)


15


“Khái niệm Việt kiều có một thời gian được hiểu gần đồng nhất với khái
niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nhưng sau các biến cố lịch sử
của Việt Nam và của thế giới khoảng 3 thập niên gần đây, cả hai khái niệm
Việt kiều và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đều khoog bao hàm được
nội dung mà nó chứa đựng.”8 Khái niệm “người Việt Nam định cư ở nước
ngoài” chỉ đề cập đến người Việt Nam đang định cư lâu dài ở nước ngoài;
còn khái niệm “người Việt Nam ở nước ngoài” đề cập đén toàn bộ người Việt
Nam ở nước ngoài, bao gồm cả những người học tạp, làm việc, lao động và
du lịch ở nước ngoài. Như vậy, nội hàm của khái niệm “người Việt Nam ở
nước ngoài” rộng hơn so với khái niệm “Người Việt Nam định cư ở nước
ngoài”. Năm 1993, Nhà nước đã đưa ra quyết định đổi tên Ban Việt kiều
Trung ương thành Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài.
1.2.2. Vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong công tác thông
tin đối ngoại
“Hoạt động thông tin đối ngoại là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi
tầng lớp nhân dân. Từ các tổ chức, cơ quan nhà nước, các đơn vị thông tin
đại chúng, với đội ngũ cán bộ, chuyên gia chuyên trách về thông tin đối
ngoại có chuyên môn, nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ, có kinh nghiệm, nhiệt tình
và tâm huyết với nghề, hay là công dân kể cả ở trong lẫn ngoài nước, thậm
chí là các cá nhân, tổ chức nước ngoài đều có thể tham gia vào công tác
thông tin đối ngoại.”9
Ngày nay, càng có nhiều người Việt Nam nước ngoài mang theo và đại diện
cho hình ảnh của một đất nước cởi mở đang phát triển năng động thay thế
hình ảnh Việt Nam tận cùng của đói nghèo và chia rẽ những thập kỷ 70 và
80. Bên cạnh đó, một lực lượng khá tích cực tham gia thực hiện thông tin đối
ngoại là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đây là đối tượng tiếp
nhận thông tin đối ngoại của nước nhà, đồng thời lại là lực lượng tham gia

8 Người Việt Nam ở nước ngoài không chỉ có “Việt kiều”(2005), NXB Chính trị quốc gia, tr.195
9 Chỉ thị số 11/CT-TW, ngày 13-6-1992 của Ban bí thư Trung ương về đổi mới và tang cường công tác thông tin
đối ngoại. 

16


công tác thông tin đối ngoại có sức thuyết phục đối với kiều bào Việt Nam và
bạn bè quốc tế.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CỦA KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV4
2.1.

Giới thiệu các chương trình phát sóng trên kênh VTV4.
VTV4 là kênh truyền hình duy nhất của Việt Nam có tầm phủ sóng vệ tinh
toàn cầu, phục vụ cho gần 4 triệu người Việt Nam đang sống ở nước ngoài và
hàng triệu khán giả trong nước. Từ một chương trình truyền hình mang tên
“Dành cho đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc” ra đời năm 1998, VTV4 hiện
đã phát triển thành một kênh truyền hình tổng hợp phát sóng 24/24h với các
chương trình thời sự, phim truyện, ca nhạc, tài liệu, giải trí...
Đài Truyền hình Việt Nam (phát 5 bản tin tiếng Anh và Pháp với thời lượng
5phút/ngày. Ban Biên tập đối ngoại được thành lập từ tháng 5/2002, sản
xuất biên tập chương trình VTV4 phủ sóng các khu vực quan trọng trên thế
giới, hầu hết những nơi có đông Việt kiều sinh sống)
Các chương trình tiêu biểu có:
Bản tin VTV News phát sóng dưới nhiều ngôn ngữ như tiếng Việt, tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Nga,…
Chương trình Talk Việt Nam, Người Việt bốn phương, Vietnam Discovery,
Expat Vietnam hay Chân dung cuộc sống, phản ánh chân dung những người
Việt Nam ở nước ngoài có nhiều đóng góp cho cộng đồng, cho quê hương

đất nước thông qua các việc làm cụ thể trên mọi lĩnh vực, những mảnh đất
tươi đẹp nơi quê hương, thiên nhiên tươi đẹp của Việt Nam. Các chương
trình này là cầu nối những người Việt ở các lãnh thổ trên thế giới với nhau và
cùng nhau hướng về quê hương Việt Nam.
Fine Cuisine, Culture Mosaic là những chương trinh với những lát cắt tinh tế
về phong tục tập quán truyền thống của nước nhà, về nghệ thuật đặc sắc cảu
người Việt Nam. Ngoài ra còn có Núi sông bờ cõi, Tinh hoa nghề Việt, Xin
17


chào Việt Nam, Just so Việt Nam hay Việt Nam A-Z nhằm đưa nét đẹp của
Việt Nam ra thế giới, xây dựng hình ảnh Việt Nam đang đà phát triển đầy
đẹp đẽ, trẻ trung; nhằm bài trừ ý nghĩ Việt Nam là một quốc gia nghèo khổ,
chìm trong đói nghèo và chiến tranh như một số bộ phận thù địch luôn tin và
tuyên truyền.
2.2.

Thực trạng công tác thông tin đối ngoại đối với cộng đồng người Việt

Nam ở nước ngoài qua kênh truyền hình VTV4
Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Hồng Nam từng khẳng định, việc ký kết thỏa thuận hợp
tác là phù hợp vì đây là thời điểm sau 10 năm cả nước đã triển khai thành công
Nghị quyết 36/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác đối với nguời Việt Nam ở
nước ngoài. Thứ trưởng chia sẻ, trong bối cảnh còn nhiều thách thức cả trong nước
và thế giới, việc tiếp tục triển khai Nghị quyết 36, đặc biệt là công tác thông tin đối
ngoại nói chung, công tác thông tin đối ngoại với người Việt Nam ở nước ngoài nói
riêng là cần thiết.
Chấp hành Nghị quyết, Đài Truyền hình Việt Nam nói chung và kênh truyền hình
đối ngoại VTV4 nói riêng đã tăng cường sản xuất nội dung mới, hay và hấp dẫn
cũng như đa dạng giúp đồng bào ta sinh sống và làm việc ở nước ngoài dễ dàng

tiếp cận. Mới đây VTV4 đã thành lập website www.vtv4.vn, đánh dấu một bước
phát triển mới của VTV4 nhằm giúp khán giả có thể xem VTV4 bằng một hình
thức mới. Khán giả có thể xem trực tuyến và xem lại những chương trình yêu thích
của mình. Hơn nữa, VTV4.vn sẽ là cầu nối giữa khán giả với những người sản xuất
chương trình VTv4, là diễn đàn để kết nối các cộng đồng người Việt ở khắp nơi
trên thế giới trên những vấn đề cùng quan tâm.
2.3.

Những thành tựu và hạn chế trong công tác thông tin đối ngoại của

kênh VTV4
Thành tựu:
Có những chương trình hấp dẫn người xem, đặc biệt mới đây có chương trình
Vietnam A-Z, vui nhộn, hấp dẫn. Chương trình tập trung khai thác những chủ đề
18


gần gũi với cuộc sống mang đến cho người nước ngoài đang sinh sống ở Việt Nam
và cộng đồng quốc tế một cái nhìn thiện cảm, sâu sắc về Việt Nam. Với sự tham gia
của người dẫn chương trình là người nước ngoài vui tính, hoạt ngôn, có hiểu biết
nhất định về Việt Nam. Cách thể hiện mang tính giải trí cao, mỗi giây, mỗi phút đều
là những trải nghiệm mới mẻ dành cho quý khán giả.
Hướng tới đối tượng là người nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam và trên thế
giới. Thông qua trải nghiệm thực tế của các nhân vật, Vietnam từ A- Z chuyển tải
nhiều thông tin về văn hóa xã hội của giải đất hình chữ S thông qua cách thể hiện
mới mẻ và sinh động. Với một chủ đề xuyên suốt, Vietnam từ A-Z chuyển tải đến
khán giả thông tin đa dạng qua 4 tiểu mục: On Trend – Bắt kịp trào lưu; The Big
story – Câu chuyện chính; Faces of Vietnam – Những nhân vật đặc biệt; và Out and
about – những địa chỉ thú vị.
Cá nhân tôi cảm thấy đây là một chương trình hấp dẫn không chỉ ở kết cấu mà còn

ở những nhân vật xuất hiền trong chương trình. Tôi thích cái cách họ đưa ra những
hiểu biết cá nhân về Việt Nam, và tự hào vì họ là những người nước ngoài những
lại yêu mến Việt Nam đến như vậy.
Được biết dù nguồn lực còn hạn chế, song mong muốn và nhiệt tình phục vụ khán
giả củanhững người thực hiện chương trình không có giới hạn. Họ monhg muốn
làm cho VTV4 trở thành một kênh truyền hình thuần Việt thân thiết của mọi gia
đình Việt Nam trên khắp thế giới.
Hạn chế:
 VTV4 Sản xuất tin và phóng sự dựa trên khả năng của đội ngũ nhân lực chứ
chưa dựa trên nhu cầu của công chúng.
 Chưa có mục làm tin riêng, thường sử dụng lại tin , bài từ các nguồn như
VTV1; khiến thông tin chưa đáp ứng đúng nhu cầu của kiều bào nước ngoài.
 Hiện tại nội dung trên kênh truyền hình VTV4 vẫn còn khá chênh so với vấn
đề khán giả quan tâm.
19


 Lực lượng cộng tác viên của VTV4 còn ít vào chuyên môn truyền hình chưa
cao khiến thông tin về hoạt động các cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài ít chất lượng âm thanh và hình ảnh còn hạn chế.
 Phóng sự ít, tràn lan nội dung trên nhiều chương trình.

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TRONG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA KÊNH
VTV4
3.1.

Định hướng phát triển thông tin đối ngoại trên kênh VTV4
Thời gian qua VTV4 đã khẳng định vai trò của mình trong việc đáp ứng nhu
cầu thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội và là nhịp cầu tinh thần nối cộng

đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa,
cạnh tranh thông tin gay gắt đã đặt VTV4 trước nhiều thử thách mới. Bởi vậy,
cải tiến nâng cao chất lượng chương trình không chỉ là đòi hỏi của công chúng
mà còn là nhiều vụ hàng đầu, thường xuyên của VTV4 nhằm phát huy những
ưu thế của truyền hình trong công tác tuyên truyền, vận động kiều bào ở nước
ngoài.
Thời lượng ngắn, hình ảnh âm thanh chắt lọc, thông tin phong phú là “tiêu
chuẩn vàng” cho cả tin và phóng sự. Theo chúng tôi, tin chỉ nên dài từ 30 đến
60 giây là tốt nhất. Phóng sự cần có thời lượng tương xứng, và nhà báo phải
đấu tranh đề dành được thời lượng tương xứng cho phóng sự của mình. Tuy
nhiên, phóng sự quá dài sẽ triệt tiêu sự chú ý của khán giả, và “chuyển kênh” sẽ
là lựa chọn của họ. Phóng sự thời sự chỉ nên dao động ở mức 2-3 phút, các
dạng phóng sự khác tối đa là 10 phút. Công chúng người Việt Nam ở nước
ngoài vốn không có nhiều thời gian xem truyền hình, nên thời lượng tác phẩm
cũng là yêu cầu rất khắt khe mà người làm truyền hình hiện nay phải cân
nhắc kỹ lưỡng.
20


Hình ảnh rõ nét, cỡ cảnh hợp lý, bố cục khuôn hình chặt, động tác máy sinh
động. Âm thanh rõ, xác thực, không dàn dựng. “Nếu thông điệp chỉ được
truyền đạt thông qua hình ảnh, hoặc chỉ qua lời bình mà thôi, thì sẽ luôn có hại
cho đặc thù nghe nhìn của ngành truyền hình”.
Do vậy, sự kết hợp tốt giữa hình ảnh và âm thanh sẽ cho ra đời sản phẩm truyền
hình chất lượng, thỏa mãn nhu cầu khán giả. Cần hết sức tránh hiện tượng “nói
nhiều”, lời bình lấn át hình ảnh, như cách làm phổ biến trong truyền hình Việt
Nam hiện nay. Đặc biệt, với khán giả người Việt Nam ở nước ngoài

vốn có


điều kiện tiếp xúc thường xuyên với các kênh truyền hình nước ngoài, người
làm truyền hình càng phải ưu tiên chăm chút hình ảnh và “kiệm lời” hơn. Cách
viết đơn giản, sử dụng câu ngắn, dễ hiểu là tiêu chí đựơc khuyên dùng. Do sống
lâu năm ở nước ngoài nên phần lớn người Việt Nam ở nước ngoài có hạn chế
về tiếng Việt, nên viết sao cho khán giả dễ hiểu mà vẫn giữ gìn được sự phong
phú, cái hay cái đẹp của tiếng Việt là thử thách và cũng là yêu cầu với người
làm truyền hình. Ngoài ra, cách sử dụng câu chữ phải hết sức “khéo léo”, thông
tin kết hợp tuyên truyền, không “hô khẩu hiệu” một cách khô khan, mới có thể
thuyết phục được nhóm công chúng đặc biệt này.
3.2.

Những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế giúp nâng cao hiệu quả công
tác thông tin đối ngoại qua các chương trình trên kênh VTV4

Để nâng cao chất lượng tin và phóng sự, hai thể loại chiến lược trên mặt trận ở
thông tin đối ngoại, làm tốt công tác truyền tin cho người Việt Nam ở nước ngoài,
cần chú trọng những vấn đề sau:
3.2.1. Kỹ năng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ phóng viên và biên tập
viên
Đội ngũ những người làm truyền hình VTV4 hiện nay có những ưu điểm là trẻ
nhiệt tình và tâm huyết với công việc. Hơn 100 phóng viên biên tập viên của VTV4
đều có trình độ đại học và trên đại học, nhưng số người học chuyên ngành báo chí
rất ít, đa số thuộc các chuyên ngành khác mà chủ yếu là ngoại ngữ. Do vậy có thể
21


nói kinh nghiệm và nghiệp vụ báo chí của đội ngũ VTV4 phần nào còn hạn chế. Để
có những sản phẩm tin và phóng tốt hơn, những người làm truyền hình VTV cần
nhận rõ và khắc phục điểm yếu này. Giải pháp là tham gia các hoạt động Đảo đảo
vì báo chí, về chuyên môn nghiệp vụ, kết hợp học, đúc kết kinh nghiệm thực tế.

3.2.2. Tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhiều thể loại tin và phóng
sự
Đổi mới công tác biên tập và tăng thời lượng phát sóng tìm và phóng sự. Ban biên
tập đặt ra yêu cầu cao hơn đối với phóng viên trong sáng tạo tin và cộng sự, đồng
thời phải có trình độ và bản lĩnh để xem xét đúng mức, tránh sự áp đặt chủ quan
hoặc cấm đoán. Hướng tới xây dựng môi trường làm việc dân chủ, có thể trao đổi,
tranh luận thẳng thắn, đây là điều kiện giúp phát huy tối đa tính năng động và sáng
tạo của phóng viên.
Đầu tư nghiên cứu đổi mới công nghệ. Để đưa ra chương trình truyền hình với chất
lượng hình ảnh và âm thanh đã bảo đến với cộng đồng kiều bào trên khắp thế giới,
thì yếu tố kĩ thuật, công nghệ là hết sức quan trọng. Để quy trình sản xuất tin và
phóng sự truyền hình hiệu quả, cần có các phương tiện kĩ thuật hiện đại, đồng bộ,
đáp ứng luôn cầu sản xuất. Đài truyền hình, nghiên cứu và đổi mới công nghệ, ứng
dụng công nghệ truyền hình hiện đại trên thế giới, thực hiện phương châm “đi tắt
đón đầu”, đẩy mạnh việc ứng dụng truyền thông đa phương tiện
3.2.3. Nghiên cứu về nhóm công chúng người Việt Nam ở nước ngoài
Công chúng có vai trò quyết định với sự tồn tại và phát triển của một tờ báo,
một chương trình phát thanh hay chương trình truyền hình. Số lượng khán giả
chính là thước đo chất lượng và uy tín của mỗi chương trình, vì vậy việc nghiên
cứu công chúng là một công việc quan trọng phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục. Tuy vậy, VTV4 chưa có một cuộc nghiên cứu khán giả một cách tổng thể
nào từ khi thành lập đến nay. Đối tượng công chúng mà VTV4 hướng đến là hơn
4,5 triệu người Việt Nam sinh sống tại 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế
giới. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được hình thành trên cơ sở phức
22


tạp về nguồn gốc di cư, thành phần, lứa tuổi, thái độ chính trị, trình độ học vấn…
Những yếu tố này làm nên đặc điểm rất đa dạng, thậm chí là khác biệt, trong tâm lý
tiếp nhận của công chúng. Do vậy việc tìm hiểu đối tượng này cũng gặp nhiều khó

khăn. Thời gian qua, VTV4 đã có quan tâm đến việc tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng
của khán giả, nhưng chỉ dừng lại ở việc phân tích thư khán giả gửi về cho chương
trình. Việc này cần phải được tiến hành với quy mô sâu rộng hơn, thông qua nhiều
con đường khác nhau như: Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, qua Ủy ban người
Việt Nam ở nước ngoài, qua các chuyến thăm và làm việc của các đoàn ngoại giao
nước ta, trực tiếp qua bà con kiều bào về nước ăn Tết, du lịch…đều có thể tiến
hành điều tra nắm bắt tâm lý khán giả. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho việc điều
chỉnh nội dung thông tin, hình thức thể hiện các chương trình của VTV4 nói
chugn và tin, phóng sự nói riêng sao cho phù hợp với tâm lý, tình cảm và điều kiện
tiếp nhận thông tin của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Kết quả nghiên
cứu công chúng sẽ giúp xây dựng các kênh truyền thông có mục đích rõ ràng, dành
riêng cho từng nhóm công chúng về những lĩnh vực mà họ quan tâm, phù hợp với
đặc điểm khác nhau về địa bàn cư trú, ví trí pháp lý của từng nhóm (ví dụ nhóm
kiều bào định cư ở nước ngoài khác với nhóm ra nước ngoài học tập, lao động).
KẾT LUẬN
Những phân tích trong tiểu luận cho thấy tin và phóng sự của VTV4 dành cho hoat
động thông tin đối ngoại hiện nay cũng còn nhiều hạn chế như: nội dung thông tin
có độ chênh khá lớn so với nội dung khán giả quan tâm, thông tin chưa thực sự đáp
ứng đúng nhu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài, cách thể hiện còn nhiều vấn
đề chưa phù hợp với tâm lý tiếp nhận của đối tượng người Việt Nam ở nước ngoài.
Về phóng sự, dù đây là một thể loại quan trọng, tạo ra phong cách riêng biệt của
VTV4 nhưng hiện nay số lượng phóng sự còn ít và còn nhiều hạn chế về thể hiện.
Trong Chương 3 của tiểu luận cũng cố gắng nêu lên những vấn đề cần chú ý trong
quá trình sản xuất để có thể nâng cao chất lượng tin và phóng sự, hai thể loại chiến
23


lược trên mặt trận thông tin đối ngoại, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền cho
người Việt Nam ở nước ngoài. Trong đó, đáng chú ý là việc nghiên cứu công
chúng- hơn 4,5 triệu người Việt Nam sinh sống tại 103 quốc gia và vùng lãnh thổ

trên khắp thế giới- là một công việc quan trọng phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục.
Xác định tầm quan trọng của lĩnh vực thông tin đối ngọai trong quá trình hội nhập
quốc tế và phát triển đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chỉ
thị, nghị quyết nhằm đẩy mạnh công tác thông tin đối ngọai, trong đó hướng tới
đối tượng quan trọng là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Kênh truyền hình
đối ngoại VTV4 của Đài truyền hình Việt Nam từ khi ra đời đã xác định rõ hơn 4
triệu người Việt Nam ở nước ngoài là nhóm công chúng đặc biệt quan trọng của
mình. Từ đó, các chương trình của VTV4, đặc biệt là tin và phóng sự, đã góp phần
quan trọng trong việc thông tin một cách đầy đủ, trung thực, kịp thời về các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, về đời sống xã hội hiện nay của Việt
Nam, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và giúp kiều
bào giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc.
Qua tìm hiểu thực tế quy trình sản xuất tin và phóng sự hiện nay trên VTV4, khảo
sát các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm tin và phóng sự trên VTV4 qua
1260 mẫu tin và phóng sự ngắn nằm trong chương trình thời sự và hơn 71 mẫu
phóng sự khác thì tin tức VTV4 mới, kịp thời, bảo đảm tính định hướng, thực hiện
tốt nhiệm vụ thông tin đối ngọai. Tuy nhiên, so với kết quả điều tra khán giả cho
thấy nội dung thông tin có độ chênh khá lớn với nội dung khán giả quan tâm. Cụ
thể là thông tin văn hoá được công chúng người Việt Nam ở nước ngoài quan tâm
nhiều nhất, nhưng tỷ lệ tin về văn hóa tức trên VTV4 lại là thấp nhất. Ngược lại,
Thông tin chính trị là nội dung ít được khán giả kiều bào quan tâm nhất nhưng lại
chiếm tỷ lệ cao thứ hai trong các bản tin VTV4 và có tầm quan trọng đặc biệt. Sự
khác biệt cũng thể hiện ở các thông tin quốc tế, kinh tế, hoạt động người Việt Nam
ở nước ngoài nhưng mức khác biệt không cao như hai trường hợp trên. Hình ảnh
và âm thanh của tin tức VTV4 có chất lượng khá tốt cho thấy hai yếu tố quan trọng
của ngôn ngữ truyền hình được đội ngũ sản xuất chú trọng. Riêng chỉ có mảng
24



thông tin về các hoạt động của người Việt Nam ở nước ngoài có hình ảnh và âm
thanh còn nhiều hạn chế. Mặt khác, để phù hợp với sở thích, thói quen của công
chúng người Việt Nam ở nước ngoài, nên có thêm các giọng đọc tin tức bằng giọng
miền Nam. Phóng sự VTV4 có nội dung đa dạng, phản ánh sinh động hiện thực
cuộc sống tại Việt Nam, cuộc sống của người Việt Nam ở nước ngoài, các vấn đề
quốc tế. Nội dung văn hóa chiếm tỷ lệ lớn trong phóng sự, chủ yếu quảng bá văn
hóa Việt Nam, các phong tục tập quán, các lễ hội dân gian, danh lam thắng cảnh
của đất nước. Điều này phù hợp với nhu cầu công chúng người Việt Nam ở nước
ngoài. Đặc biệt, phóng sự ngắn thời sự giúp các bản tin sinh động, hấp dẫn hơn,
tăng cường hiệu quả thông tin, là một thế mạnh cần phát huy của VTV4. Trong khi
đó, phóng sự có thời lượng 20 đến 30 phút, nằm riêng như một chương trình độc
lập, còn nhiều hạn như thời lượng quá dài dẫn đến lời bình lan man, hình ảnh chưa
chắt lọc, hiệu quả thông tin thấp.
Bên cạnh những thành công, tiểu luận chủ yếu đề cập tới những hạn chế trong tin
và phóng sự của VTV4 và phân tích những nguyên nhân chủ yếu qua 4 vấn đề sau
đây: nội dung thông tin của VTV4 có độ chênh khá lớn so với nội dung khán giả
quan tâm; VTV4 sử dụng lại nhiều tin và phóng sự từ các nguồn khác nên thông
tin chưa đáp ứng đúng nhu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài ; cách thể hiện
còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với tâm lý tiếp nhận của đối tượng người Việt Nam
ở nước ngoài ; phóng sự quá ít, thể loại chưa rõ ràng.
Trên cơ sở nhận diện và phân tích các vấn đề nói trên, tiểu luận đã đề xuất 3 vấn đề
cần chú trọng để sản xuất tin và phóng sự tốt cho công chúng người Việt Nam ở
nước ngoài là: (1) kỹ năng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ phóng viên-biên tập
viên; (2) cơ quan báo chí cần tạo môi trường thuận lợi để phát triển thể loại tin và
phóng sự; (3) nghiên cứu về nhóm công chúng người Việt Nam ở nước ngoài.
Với giới hạn của một tiểu luận, những phân tích của tôi mặc dù đã hết sức cố
gắng nhưng vẫn chưa thể đầy đủ, nhưng trong chừng mực nhất định chúng tôi vẫn
hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích, có ý nghĩa thực tiễn, bổ ích cho những người
25



×