Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập môn tâm lý học TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.96 KB, 38 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TÂM LÝ HỌC TIỂU HỌC
Câu 1. Đặc điểm về mặt cơ thể
- Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay
đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế
mà trong các hoạt động vui chơi của các em cha mẹ và thầy cô (sau đây xin gọi
chung là các nhà giáo dục) cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt
động vui chơi lành mạnh, an toàn.
- Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận
động như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các
trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ.
- Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các
em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng.
Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi
trí tuệ,...Dựa vào cơ sinh lý này mà các nhà giáo dục nên cuốn hút các em với các
câu hỏi nhằm phát triển tư duy của các em.
Chiều cao mỗi năm tăng thêm 4 cm; trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng 2kg. Nếu trẻ
vào lớp 1 đúng 6 tuổi thì có chiều cao khoảng 106 cm (nam) 104 cm (nữ) cân nặng
đạt 15,7 kg (nam) và 15,1 kg (nữ). Tuy nhiên, con số này chỉ là trung bình, chiều
cao của trẻ có thể xê dịch khoảng 4-5 cm, cân nặng có thể xê dịch từ 1-2 kg. Tim
của trẻ đập nhanh khoảng 85 - 90 lần/ phút, mạch máu tương đối mở rộng, áp
huyết động mạch thấp, hệ tuần hoàn chưa hoàn chỉnh.
Câu 2. Hoạt động của học sinh tiểu học
- Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu
học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui
chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em
còn diễn ra các hoạt động khác như:
+ Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các
trò chơi vận động.
+ Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia
đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,...Ngoài ra, trẻ còn còn tham gia lao
động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,...


+ Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường,
của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,...
2.2 Những thay đổi kèm theo
1


- Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham gia
các công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo
đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,...các em phải tham gia lao
động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ.
- Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay
đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình
thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt.
- Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính tập
thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em muốn thừa
nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.
Biết được những đặc điểm nêu trên thì cha mẹ và thầy cô phải tạo điều kiện
giúp đỡ trẻ phát huy những khả năng tích cực của các em trong công việc gia
đình, quan hệ xã hội và đặc biệt là trong học tập.
3. Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ)
3.1 Nhận thức cảm tính
3.1.1 Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều
phát
triển

đang
trong
quá
trình
hoàn

thiện.
3.1.2 Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và
mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động
trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan
sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính
mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch
học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,...)
Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới,
mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích
thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
3.2 Nhận thức lý tính
3.2.1 Tư duy
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành
động.
Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát

2


Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát
hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở
phần đông học sinh tiểu học.
3.2.2 Tưởng tượng
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm
non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên,
tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ
thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh
cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển

ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ
tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh
mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền
với các rung động tình cảm của các em.
Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em
bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc,
đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt
động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận
thức lý tính của mình một cách toàn diện.
3.3 Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu
xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn
thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có
khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân
thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý
tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ
phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ.
Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát
triển trí tuệ của trẻ.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau
dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ
vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh,
truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức
3


các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất
cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.
3.4 Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học

Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều
khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn
chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có
đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo
xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững,
chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.
Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình.
Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí
trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một
bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời
gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và
cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.
Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay bài
tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng
linh động theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể
của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo
dục trẻ.
3.5 Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic
Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so
với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa,
chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây
dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ
có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức
hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em...
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa
và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần
ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ

hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú
và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
4


3.6 Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của
người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà để
được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực thi hành vi ở
các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã
đề ra nếu gặp khó khăn.
Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành
mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể
trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc
vào hứng thú nhất thời.
Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học đòi hỏi ở nhà giáo dục sự
kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ,
thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.
Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường thay đổi:
đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 - 35 phút. Chuyển từ hiếu
kỳ,tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính
hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học
tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo của đôi bàn
tay để tập viết,...Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những
điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội
dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các
sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ
còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc

mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi
mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều.
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn
kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu
như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp
thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng
khiếu của trẻ.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục
sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh
5


trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho
các em thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình
huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân cư,...
5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà
trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Sau
5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm
cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên,
trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý
nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của
các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn
chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát
triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình thành, việc hình
thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn
đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các
em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.

Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được
"chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính
gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà
không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy.

Câu 3: Trình bày những điểm nổi bật trong nhận thức của học sinh Tiểu học. GV
phụ trách lớp sẽ làm gì khi trong lớp có những học sinh hiếu động, thích tìm tòi,
khám phá nhưng lại biểu hiện ít tập trung chú ý nghe thầy, cô giảng bài.
a. Những đặc điểm nổi bật trong nhận thức của học sinh tiểu học
1. Cảm giác: Ở trẻ Tiểu học, cảm giác đã hòa vào dạng nhận thức cảm tính phức
tạp nhất, đó là tri giác, đến nỗi hoàn toàn không thể nghiên cứu riêng hai quá trình
đó. Cảm giác phát triển, những liên hệ cảm xúc vận động tinh tế và chính xác được
hình thành, những liên hệ này đảm bảo tính chính xác của hành động và sự kiểm
tra bằng mắt các hành động đó.
2. Tri giác:
- Mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết.

6


- Nặng nề tính không chủ định, các em phân biệt đối tượng còn chưa chính xác, dễ
mắc sai lầm, lẫn lộn.
- Thường gắn với hành động, hoạt động thực tiễn (cầm nắm, sờ mó vào sự vật ấy)
Vì vậy, cái trực quan, cái rực rỡ, cái sinh động được các em tri giác tốt hơn, dễ gây
ấn tượng tích cực đối với các em.
Nhiệm vụ của GVTH: Hướng dẫn các em biết xem xét. Không chỉ dạy các em
nghe mà còn chú ý dạy các em biết lắng nghe. Chú ý tổ chức một cách đặc biệt
hoạt động của học sinh để tri giác một đối tượng nào đó nhằm phát triển những dấu
hiệu bản chất của sự vật và hiện tượng.
3. Chú ý:

+ Chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý một
cách có chú ý chưa mạnh.
+ Chú ý không chủ định của học sinh Tiểu học phát triển nhờ những thứ mang tính
mới mẻ, bất ngờ, rực rỡ, khác thường.
Nhiệm vụ của GVTH:
- Chú ý rèn cho các em không chỉ quen làm việc gì mà mình hứng thú mà còn cần
làm cả những việc không lý thú, hấp dẫn.
- Nên sử dụng đồ dùng dạy học đẹp, mới lạ, tranh ảnh, mô hình là phương tiện
quan trọng để tổ chức sự chú ý của học sinh
4. Tư duy là hạt nhân của hoạt động trí não, kỹ năng này bắt đầu phát triển từ giai
đoạn ấu thơ. Khi trẻ trong độ tuổi tiểu học, khả năng tư duy đã khá phát triển, trẻ
đã có ý thức, ghi nhớ, tư duy tổng hợp, phát tán và đánh giá đối với các tranh vẽ,
ký hiệu, ngữ nghĩa và hành vi… Vì vậy, phát huy được khả năng tư duy cho trẻ ở
lứa tuổi Tiểu học là một điều rất quan trọng và cần thiết. Điều này sẽ giúp ích rất
nhiều trong hoạt động trí não của trẻ sau này.
5. Tưởng tượng: Là một trong những quá trình nhận thức quan trọng của học sinh
tiểu học. Nếu tưởng tượng của học sinh phát triển yếu, không đầy đủ thì gặp khó
khăn trong hành động, trong học tập.Tưởng tượng hình thành và phát triển trong
hoạt động học và các hoạt động khác của các em.Tản mạn, ít có tổ chức, hình ảnh
của tưởng tượng trong các em còn đơn giản, hay thay đổi, chưa bền vững.
NV của GVTH: Hình thành cho học sinh biểu tượng thông qua sự mô tả bằng lời
nói, cử chỉ, điệu bộ của mình.

7


6. Trí nhớ: Học sinh Tiểu học có trí nhớ trực quan - hình tượng phát triển chiếm ưu
thế hơn trí nhớ từ ngữ - logic.
- Ghi nhớ máy móc của học sinh lớp 1, lớp 2 thường chiếm ưu thế.
- HS lớp 1, lớp 2 chưa hiểu được cần ghi nhớ cái gì và ghi nhớ trong bao lâu. Ngôn ngữ của học sinh lớp 1, lớp 2 còn bị hạn chế.

NV của GVTH: - Hình thành cho học sinh tâm thế học tập, ghi nhớ.
- Hướng dẫn các em cách (thủ thuật) ghi nhớ tài liệu học tập.
- Chỉ dẫn cho các em biết đâu là điểm chính, điểm quan trọng của bài học để tránh
tình trạng các em phải ghi nhớ quá nhiều, ghi nhớ máy móc, chỉ học vẹt.
7. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức
cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói
và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá
được sự phát triển trí tuệ của trẻ. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự
đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua
các kênh thông tin khác nhau.
NVCGVTH: Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục
phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú
của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện
tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ
chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật
kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.
8. Xúc cảm
- Tình cảm là một phần rất quan trọng đối với đời sống tâm lí, trong nhân cách
mỗi người, nhất là học sinh tiểu học. Học sinh tiểu học rất dễ xúc cảm, xúc động và
khó kìm hãm tình cảm của mình (thể hiện trước hết qua các hoạt động nhận thức:
tri giác, tưởng tượng, tư duy). Tình cảm của học sinh tiểu học còn mỏng manh,
chưa bền vững, chưa sâu sắc. Tuy nhiên, tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ em
nhận thức và thúc đẩy trẻ hoạt động.
9. Ý chí: Hoạt động học tập có tác dụng quyết định đến toàn bộ nếp sống của trẻ
sau 6 tuổi, góp phần làm thay đổi căn bản trong sự phát triển ý chí của học sinh
tiểu học. Do hoạt động chủ đạo có tính chất bắt buộc, học sinh phải thực hiện nhiều
yêu cầu chung, vừa cụ thể nên nó đã trở thành một yếu tố hết sức quan trọng trong
việc rèn luyện ý chí của tre, chủ yếu là rèn luyện kỹ năng biết kiềm chế. Cấu trúc
8



của hành động ý chí của học sinh tiểu học đã phức tạp hơn (động cơ hành động
phức tạp hơn). Nhưng các em chưa đủ khả năng theo đuổi lâu dài mục đích đề ra.
10. Nhân cách: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên,
trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý
nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; Nhân cách của
các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn
chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát
triển; Đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình thành, việc hình
thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn
đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các
em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.
NVCGVTH: tuyệt đối không được "chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng
những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với
những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là
những hình mẫu nhân cách ấy.
b. GV phụ trách lớp sẽ làm gì khi trong lớp có những học sinh hiếu động, thích tìm
tòi, khám phá nhưng lại biểu hiện ít tập trung chú ý nghe thầy, cô giảng bài.Trẻ
hiếu động, thích tìm tòi, khám phá không phải là một căn bệnh nên chúng ta không
thể chữa trị bằng thuốc mà đòi hỏi chúng ta – những người giáo viên cần phải có
cách để hướng học sinh mình vào công việc chính đó là học tập. Có rất nhiều cách
để trẻ hiếu động, thích tìm tòi, khám phá co thể tập trung hơn vào việc học. Sau
đây là một vài đề xuất của tôi về giải pháp giúp học sinh hiếu động có thể tập trung
hơn:
+ GV phải có thái độ nghiêm khắc, dứt khoát và rõ ràng trên lớp để giảm tình trạng
học sinh hiếu động, quậy phá. Tuy nhiên, ngoài việc nghiêm khắc GV cần tạo
không khí thoải mái trong giờ học bằng cách tích hợp một số vấn đề có liên quan
tạo cảm giác thoải mái nhưng không được thoái quá để học sinh nhờn.+ Trẻ mất
tập trung một phần có thể do bài giảng của giáo viên không đủ sức cuốn hút chúng.

Vì thế để trẻ ham học, ít quậy phá chúng ta nên cố gắng đầu tư nhiều hơn về khâu
soạn giáo án, ví dụ như sử dụng giáo án điện tử với nhiều hình ảnh trực quan, sinh
động, lôi cuốn và hấp dẫn học sinh; sử dụng đồ dùng dạy học, cho học sinh hoạt
động nhóm…
+ Soạn thêm các câu hỏi dễ, thường xuyên gọi các em ấy phát biểu, tìm cơ hội
khen các em khi các em làm tốt, ... Thực hiện hoạt động dạy học của Gv là một
nghệ thuật. Thầy mà "hát hay" (nội dung, cách dạy), có lực hút (phong cách, uy
lực, nghiêm khắc nhưng gần gũi) thì HS sẽ thích và chờ đến giờ học môn mà Gv
đảm nhận, sẽ chăm chú, sẽ xây dựng bài và không mất trật tự nữa. Tuy nhiên theo
9


tôi hiểu lớp học quá trật tự thì e rằng học sinh rất thụ động và duy nhất chỉ có một
người làm việc là giáo viên, như vậy cũng không phải là điều tốt. Vì vậy ngoài việc
“khống chế” được học sinh chưa ngoan, người GV cũng cần phải tạo nên một lớp
học với không khí sôi động để các em học sinh có thể tiếp thu bài học một cách tốt
nhất. Bằng cách tận dụng tích cách của những học sinh hiếu động, thích tìm tòi,
khám phá người giáo viên có thể làm được điều này một cách tốt nhất. Không chỉ
làm cho lớp học thêm sôi động mà những học sinh hiếu động có thêm cơ hội tự
phát triển mình và cảm thấy mình thật có ích trong mắt bạn bè, thầy cô. Từ đó các
em sẽ ngoan hơn, ít quậy phá hơn trong giờ học.
Câu 4. Nêu nhận xét của anh/chị về học sinh tiểu học ngày nay (liệt kê những
ưu, nhược điểm trong học tập và giao tiếp). Kể ra những tình huống khó xử
trong dạy học hay giao tiếp với học sinh tiểu học mà anh (chị) hay đồng
nghiệp đã gặp. Cách xử lý ra sao?
* Nhận xét của anh/chị về học sinh tiểu học ngày nay:Trẻ em tiểu học ngày nay có
sự gia tốc phát triển, đó là sự phát triển nhanh về sinh lý, tâm lý của trẻ em. Sự
phát triển sớm về trí tuệ, sự gia tăng khối lượng tri thức ở trẻ em ngày nay có thể
xem như là sự gia tốc phát triển tâm lý của trẻ em. Mặt khác, khuynh hướng nhận
thức của trẻ em ngày nay được mở rộng, năng khiếu, nhu cầu, hứng thú, thị hiếu,

thẩm mỹ… trở nên phong phú và đa dạng. Trẻ em ngày nay còn được tiếp nhận
những lượng thông tin nhờ sự tăng dần đáng kể của các phương tiện thông tin đại
chúng qua báo chí, truyền hình, mạng internet… Với những đặc điểm này, việc
giáo dục trẻ em cũng dễ hơn và cũng khó hơn trước. Dễ vì trẻ em ngày nay tiếp thu
nhanh hơn, có khả năng và điều kiện để vận dụng những điều đã học được. Khó
hơn vì tầm suy nghĩ của các em rộng hơn, những vấn đề các em đặt ra cũng phong
phú hơn và phức tạp hơn.Trong hoạt động học tập và giao tiếp ngày nay, học sinh
tiểu học có khá nhiều ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Sau đây là một số ưu
nhược điểm đặc trưng của học sinh tiểu học:
* Ưu điểm: Ngày nay do cuộc sống khá phát triển, gia đình nhiều lắm cũng chỉ có
2 con nên tất cả tình yêu thương đều dành hết cho các cháu. Bên cạnh đó, trường
lớp thì khang trang, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại như trang bị bàn ghế, màn
hình LCD, máy vi tính… nên việc dạy và học ngày càng được nâng cao về chất
lượng vì thế học sinh có những thuận lợi nhất định:
- Tiếp thu nhanh hơn, có khả năng và điều kiện để vận dụng những điều đã học
được.
- Các em có suy nghĩ rộng hơn, nhanh nhẹn hơn.- Hiếu động, thích tìm tòi, khám
phá.
10


- Khá chủ động, tự giác, tích cực trong hoạt động học và giao tiếp.- Biết quan tâm,
giúp đỡ lẫn nhau, yêu thương, đoàn kết lẫn nhau.
- Ở lứa tuổi này ngôn ngữ đã phát triển đến một mức độ nhất định vì thế học sinh
khá nhanh nhẹn trong giao tiếp
* Nhược điểm:
- Dễ mất tập trung nếu học sinh quá hiếu động.
- Dễ xúc động, khó kìm hãm cảm xúc của mình
- Quá trình hưng phấn ở học sinh tiểu học mạnh hơn quá trình ức chế, do đó khả
năng tụ kiềm chế ở học sinh tiểu học còn yếu.

Câu 5. Theo anh chị, học sinh tiểu học có thể thực hiện hoạt động học để lĩnh
hội tri thức, khái niệm mà không cần sự trợ giúp của thầy cô giáo không? Vì
sao?
Học sinh Tiểu học không thể thực hiện hoạt động học để lĩnh hội tri thức, khái
niệm mà không cần sự trợ giúp của thầy cô giáo.
Vì:Học là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là
lĩnh hội những tri thức , kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi và những
dạng hoạt động nhất định, những giá trị.QTDH là một quá trình dưới sự lãnh đạo,
tổ chức, điều khiển của người giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ
chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức, học tập của mình nhằm thực hiện những
nhiệm vụ dạy họcTừ những khái niệm trên ta thấy trong QTDH, hoạt động dạy và
hoạt động học có liên hệ mật thiết với nhau, diễn ra dồng thời và phối hợp chặt
chẽ, tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt động học, từ đó tạo nên hiệu
quả cho QTDH.
* Nếu “Học ngẫu nhiên”: Học sinh nắm tri thức, kinh nghiệm hình thành kỹ năng,
kỹ xảo thông qua những hoạt động sống hàng ngày (học không chủ định). Học
ngẫu nhiên Mục đích không được xác định trước, chỉ xuất phát do một tình huống
bất ngờ nào đó. Đặc điểm của hoạt động học ngẫu nhiên:
- Không trùng hợp với mục tiêu của hoạt động đang thực hiện.
- Tri thức mang tính tiền khoa học, ngẫu nhiên, ròi rạc, thiếu hệ thống.
- Chỉ hình thành năng lực có tính chất kinh nghiệm. vận dụng những điều đã học
được. Khó hơn vì tầm suy nghĩ của các em rộng hơn, những vấn đề các em đặt ra
cũng phong phú hơn và phức tạp hơn.Trong hoạt động học tập và giao tiếp ngày

11


nay, học sinh tiểu học có khá nhiều ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Sau đây là
một số ưu nhược điểm đặc trưng của học sinh tiểu học:
* Ưu điểm: Ngày nay do cuộc sống khá phát triển, gia đình nhiều lắm cũng chỉ có

2 con nên tất cả tình yêu thương đều dành hết cho các cháu. Bên cạnh đó, trường
lớp thì khang trang, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại như trang bị bàn ghế, màn
hình LCD, máy vi tính… nên việc dạy và học ngày càng được nâng cao về chất
lượng vì thế học sinh có những thuận lợi nhất định:
- Tiếp thu nhanh hơn, có khả năng và điều kiện để vận dụng những điều đã học
được.
- Các em có suy nghĩ rộng hơn, nhanh nhẹn hơn.
- Hiếu động, thích tìm tòi, khám phá.
- Khá chủ động, tự giác, tích cực trong hoạt động học và giao tiếp.
- Biết quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, yêu thương, đoàn kết lẫn nhau.
- Ở lứa tuổi này ngôn ngữ đã phát triển đến một mức độ nhất định vì thế học sinh
khá nhanh nhẹn trong giao tiếp
* Nhược điểm:
- Dễ mất tập trung nếu học sinh quá hiếu động.
- Dễ xúc động, khó kìm hãm cảm xúc của mình
- Quá trình hưng phấn ở học sinh tiểu học mạnh hơn quá trình ức chế, do đó khả
năng tụ kiềm chế ở học sinh tiểu học còn yếu.
Câu 6. Có những loại động cơ học tập nào đáng lưu ý? Thầy cô giáo quan tâm
và làm thế nào để hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học sinh?
a. Những loại động cơ học tập đáng lưu ý:
Hoạt động của con người được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định. Động cơ là
nhu cầu đã bắt gặp đối tượng có thể thỏa mãn nó, nghĩa là nhu cầu đã được khách
thể hóa trong đối tượng.Hoạt động học tập được điều khiển bởi nhiều động cơ. Có
động cơ xa và động cơ gần, động cơ trước mắt và động cơ lâu dài, động cơ trong
và động cơ ngoài. Tuy nhiên động cơ bên trong và động cơ bên ngoài là hai động
cơ học tập đáng lưu ý nhất.Động cơ bên trong là những động cơ lôi kéo tới mục
đích.
Biểu hiện của động cơ này có thể là sự hứng thú đối với bản thân tri thức, sự khát
khao mở rộng, hoàn thiện tri thức của bản thân và nắm vững những kỹ năng nhất
12



định, sự say mê với quá trình giải quyết các nhiệm vụ học tập… tất cả những yếu
tố kích thích này đều xuất phát từ bản thân mục đích học tập,nằm ở bên trong hoạt
động học tập.vì thế, chúng ta gọi động cơ này là “động cơ hoàn thiện tri thức
“Những biểu hiện của loại động cơ này thường gắn với bản thân tri thức và phương
phá tiếp cận tri thức .ví dụ như tính hâp dẫn, tính mới lạ của nội dung môn học ,và
ý nghĩa của việc chiếm lĩnh đối tượng học.mỗi khi người học chiếm lĩnh được đối
tượng học thì họ cảm thấy vốn kiến thức, trình độ kiến thức, trình độ hiểu biết của
mình được mở rộng, được phát triển và dần hòa thiện và càng tích cực thực hiện
các hoạt động học tiêp theo.Động cơ bên ngoài tập trung vào các chiến lược nhận
thức, các hoạt động tăng cường sự thành công và giảm sư thất bại. Động cơ bên
ngòai là tât cả những yếu tố kích thích thúc đẩy từ bên ngoài vươn tới mục đích
như trách phạt và khen thưởng, đe dọa và yêu cầu, thi đua và áp lực, khen ngợi và
kêu gọi lòng hiếu danh, mong đợi hạnh phúc và lợi ích tương lai… là những yêu
cầu bên ngòai đối với mục đích trực tiếp của việc học tập.Trong trường hợp này, tri
thức, kĩ năng, giá trị,… vốn là đối tượng đích thực của hoạt động học tập chỉ là
những phương tiện đẻ đạt được các mục tiêu cơ bản khác.
b. Thầy cô giáo quan tâm và làm thế nào để hình thành động cơ học tập đúng đắn
cho học sinh?
* Với động cơ bên trong:
- Kích thích hứng thú của học sinh ngay từ đầu bài học
- Duy trì sự tò mò của học sinh và thu hút sự tham gia vào công việc bằng cách sử
dụng sự ngạc nhiên , sự nghi ngờ, hay sự lúng túng, các tư liệu quen thuộc và các
phương pháp đa dạng, thú vị.
- Cung cấp những cơ hội thao tác tích cực.
- Cho phép sự tự chủ của học sinh trong công việc tổ chức thời gian và cố gắng.Cung cấp sự lựa chọn để đáp ứng các yêu cầu của bài học.
Vd: một số hoạt động, tư liệu có thể dùng để tăng cường động cơ như sau: Tranh
ảnh và tranh biếm họa, các kinh nghiệm cá nhân, vấn đề, các hoạt động khám phá
và sáng tạo, Biểu, bảng, đồ thị, bản đồ, giai thoại và các câu chuyện…Khi hoạt

động học được thúc đẩy, được điều khiển bởi động cơ bên trong (hoàn thiện tri
thức) thì người học không phải giải quyết những xung đột bên trong, không gặp
những khó khăn về mặt tâm lý, mà thường chỉ phải nỗ lực ý chí giải quyết những
trở ngại bên ngoài để đạt được nguyện vọng (các khó khăn bên ngoài, các điều
kiện học tập).
* Với động cơ bên ngoài:
13


- Cung cấp những dẫn chứng rõ ràng. Ví dụ nội dung học cần lĩnh hội và mức độ
đạt đến, đường hướng kiểm tra và đánh giá.
- Đảm bảo sự tương xứng về mặt nhận thức…..
Câu 7. Từ các bài đã học anh (chị) hãy ghi ra các phẩm chất và năng lực quan
trọng mà giáo viên Tiểu học thời nay cần phải có để giảng dạy và giáo dục học
sinh đạt yêu cầu xã hội mong muốn?
“Dưới ánh mặt trời, không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục, không có
giáo dục thì không có cán bộ, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn
hoá”. Để trở thành một người giáo viên có phẩm chất và năng lực để giảng dạy và
giáo dục học sinh đạt yêu cầu mà xã hội mong muốn thì người giáo viên Tiểu học
cần phải:
* Về phẩm chất:
- Trước hết người giáo viên cần phải có trình độ học vấn cao, nắm vững tri thức về
tự nhiên và xã hội một cách tổng hợp, có con mắt quan sát cuộc sống một cách
thường xuyên.
- Cần phải có một lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ bằng niềm say mê nghề nghiệp, lòng
yêu trẻ, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp.
- Tác phong làm việc khoa học, lối sống giản dị,…
- Cần phải có lòng yêu thương trẻ thật sự. Quan tâm đầy thiện chí và ân cần đối với
trẻ, không phân biệt, kỳ thị trong cách cư xử với trẻ

- Lòng yêu nghề gắn bó chặt chẽ với lòng yêu trẻ. Yêu người yêu trẻ là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy giáo viên suốt đời hi sinh và tận tụy với nghề sư phạm, với lý
tưởng nghề nghiệp.
- Tình yêu đối với học sinh còn thể hiện ở sự tôn trọng học sinh như lắng nghe ý
kiến của học sinh, phát triển những hứng thú và lòng sáng tạo của học sinh, nhận ra
những hạn chế của cá nhân học sinh, những khó khăn của học sinh trong quá trình
học tập và rèn luyện…

Các mục tổng quan
1. Tri giác

6. Ngôn ngữ

2. Tư duy

7. Nhu cầu và tích cách

3. Tưởng tượng

8. Tình cảm và ý chí
14


4. Trí nhớ

9. Tự ý thức và ý thức xã hội

5. Chú ý
cách


10. Mối quan hệ liên nhân

Câu 8.Phần tự tóm tắt
1. Tri giác của học sinh tiểu học
Khái niệm tri giác: là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn những thuộc
tính của sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào những giác quan.
+ Tri giác của các em mang tính không chủ định, trẻ thường tập trung vào vài chi
tiết nào đấy của đối tượng và cho đấy là tất cả.
+ Tri giác của trẻ mang tính xúc cảm, phụ thuộc vào chính đặc điểm của chính đối
tượng. Cái trực quan, cái sực sỡ, cái sinh động được tri giác rõ ràng hơn những
hình ảnh tượng trưng và sơ lược.
+ Tri giác của trẻ mang tính chất đại thể, ít đi vào chi tiết. Quá trình nhận biết chỉ
dừng lại ở việc nhận biết và gọi tên đối tượng chứ không đi sâu vào từng chi tiết,
bộ phận của nó.
+ Ở các lớp đầu, tri giác của trẻ thường gắn với hành động, với hoạt động thực
tiễn. Tri giác của các em là phải làm một cái gì đó với sự vật như cầm nắm, sờ
mó…
+ Tri giác về thời gian và thời gian của các em còn hạn chế.
+ Tri giác phát triển trong quá trình học tập, diễn ra theo hướng chính xác hơn, đầy
đủ hơn, phân hóa hơn, có chọn lọc hơn, có mục đích và phương hướng rõ ràng.
+ Người giáo viên cần quan tâm đến việc bồi dưỡng năng lực quan sát choc học
sinh tiểu học.
Viết kết luận sư phạm
Lưu ý: Trẻ mạnh về tri giác với giác quan nào thì nên thay đổi để phù hợp, có như
vậy thì việc nhận biết đối tượng của trẻ không còn quá khó khăn.
2. Tư duy của học sinh tiểu học
Khái niệm: Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan mà
trước đó ta chưa biết.
15



Đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học.
- Tư duy của những lớp đầu tiên dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng,
các lớp cuối đã thoát ra khỏi tính chất trực tiếp của tri giác và mang dần tính trừu
tượng, khái quát.
+ Thao tác phân tích và tổng hợp được các em tiến hành chủ yếu bằng hành động
thực tiễn. Trẻ thường dùng que tính, ngón tay, lời nói để giải tóan… Đến các lớp
cuối tiểu học, các em đã có thể phân tích những dấu hiệu, những khía cạnh khác
nhau của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ và sắp xếp chúng vào một hệ thống nhất
định.
Lưu ý: Chớ nên đặt những câu hỏi như vì sao? tại sao? Để bắt trẻ lớp 1,2 tìm đáp
án vì tư duy của trẻ giai đoạn này còn rời rạc, thao tác phân tích của trẻ chỉ dừng
lại ở việc tách ra một cách riêng lẻ các bộ phận, từng thuộc tính của bài toán.
+ Trẻ thường nhầm lẫn thao tác so sánh với kể lại một cách đơn giản các đối tượng
cần được so sánh. Trẻ cuối cấp đã phát triển về thao tác so sánh nhưng trẻ thường
chỉ có thể chỉ ra sự giống nhau ở các đối tương quen thuộc và sự khác nhau ở các
đối tượng mới lạ, hiếm khi tìm được cả hai.
+ Thao tác trừu tượng hóa và khái quát hóa là tháo tác khó đối với học sinh tiểu
học. Trẻ không dựa vào dấu hiệu chung, bản chất mà lại dựa vào dấu hiệu giống
nhau ngẫu nhiên hay chức năng để xếp các loài vào chung một nhóm. Ví dụ trẻ xếp
bướm vào lớp chim vì các em dựa vào dấu hiệu biết bay, đậu trên cành, sống trên
cánh đồng hay trong rừng và loại gà ra khỏi loài chim. Học sinh lớp 4,5 mới có khả
năng nhìn ra và tách được các dấu hiệu bản chất của đối tượng.
+ Các em tất cả những gì thấy được ở đối tượng để làm định nghĩa về đối tượng.
Ví dụ định nghĩa từ hàng xóm (bác Thơm, cô Mai…)
3. Tưởng tượng
Khái niệm: Là quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những
biểu tượng đã có.

Các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng
+ Thay đổi kích thuóc, số lượng của sự vật hay các thành phần của sự vật
+ Nhấn mạnh các chi tiết, thành phần, thuộc tính của sự vật
+ Chắp ghép (kết dính)
+ Liên hợp
16


+ Điển hình hóa
+ Loại suy
Đặc điểm
+ Tưởng tượng của học sinh tiểu học được phát triển phong phú hơnnhiều so với
trẻ trước tuổi đi học và ó sự quyện chặt giữa tưởng tương phóng khoáng và hiện
thực.
+ Tưởng tượng tái tạo ở học sinh tiểu học được hoàn thiện. Các hình ảnh tưởng
tượng dần dần trở nên sát thực hơn, phản ánh đúng đắn hiện thực.
+ Tưởng tượng của học sinh tiểu học phát triển trong các hoạt động khác nhau, đặc
biệt là hoạt động học tập. Khuynh hướng chủ yếu trong sự phát triển của trẻ tiểu
học là:
 Tiến hành đến phản ánh một cách đúng đắn, đầy đủ, rõ ràng hiện thực khách
quan trên cơ sở những tri thức ương ứng.
 Tiến dần đến phản ánh một cách khái quát , sáng tạo hiện thực khách quan
trên cơ sở của ngôn từ và hệ thống kí hiệu.
4. Trí nhớ
Khái niệm: Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã trải qua
của con người dưới hình hức biểu tượng.
Đặc điểm trí nhớ của học sinh tiểu học
+ Hệ thống tín hiệu thứ nhất chiếm ưu thế, trí nhớ trực quan hình tượng chiếm
ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - logic. Các em ghi nhớ các tài liệu trực quan tố hơn
là tài liệu bằng lời.

+ Ghi nhớ không chủ định vẫn chiếm ưu thế cả, nhất là những lớp đầu tiên.
+ Trẻ có khả năng ghi nhớ tốt, đặc biệt là ghi nhớ máy móc , các em ghi nhớ
chủ yếu dựa vào việc học từng câu, từng chữ.
+ Tình cảm có ảnh hưởng đến độ bền vững và độ nhanh của sự ghi nhớ. Trẻ dễ
nhớ và nhớ lâu những gì làm cho các em xúc cảm mạnh (nhạc nhiên, hứng thú,
sợ hãi…)
+ Sự tái hiện những gì đã ghi nhớ là một việc làm khó đối với học sinh, bởi các
em chưa có kỹ năng xác định mục tiêu và tích cực hóa hoạt động tư duy dẫn
đến trẻ không thích và không biết làm điều đó.
17


5. Ngôn ngữ
Khái niệm: Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu đặc biệt, được dùng để làm
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và phương tiện tư duy của con người.
Đặc điểm:
+ Sự phát âm của trẻ tiểu học chuẩn hơn hẳn so với sự phát âm của trẻ trước
tuổi đi học. Vốn từ của các em tăng lên một cách đáng kể do được học nhiều
môn và phạm vi tiếp xúc được rộng.
+ Trẻ thường giải thích nghĩa của từ bằng cách gắn vào nội dung cụ thể của bài
khoa. Các em đã nắm được một số quy tắc ngữ pháp cơ bản nhưng việc vận
dụng vào ngôn ngữ nói và viết chưa thuần thục nên còn phạm nhiều lỗi, nhất là
khi viết.
+ Ngôn ngữ viết của trẻ còn nghèo nàn hơn ngôn ngữ nói. Trẻ chưa thể đặt
mình vào vị trí của người đọc , do hiểu từ ngữ chưa chính xác nên khi viết trẻ
còn dùng sai, viết sai, không biết chấm câu.
+ Trong suốt quá trình, trẻ chuyển từ kỹ năng đọc đánh vần sang kỹ năng đọc
diễn cảm, đọc to tới đọc cho mình.
6. Chú ý
Khái niệm: Chú ý là sự tập trung tâm lý vào một hay một nhóm đối sự vật, hiện

tượng, để định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh – âm lý cần thiết
cho hoạt động tiến hành có hiệu quả.
Đặc điểm chú ý của học sinh tiểu học
+ Chú ý khôn chủ định phát triển mạnh mẽ và chiếm ưu thế ở học sinh tiểu học
+ Chú ý của học sinh tiểu học chưa bền vững, nhất là của học sinh các lớp đầu
của tiểu học.
+ Chú ý của học sinh tiểu học phụ thuộc vào nhịp độ học tập . Nhịp độ quá
nhanh hoặc quá chậm đều không thuận lợi cho tính bền vững và sự tập trung
của chú ý
+ Khối lượng chú ý hẹp, sự phân phối chú ý của trẻ diễn ra một cách khó khăn
+ Khả năng phát triển chú ý chủ định và không chủ định trong quá trình học
tập là rất cao.
7. Nhu cầu và tính cách
Nhu cầu
18


Khái niệm: Nhu cầu là hệ thống những thúc đẩy quy định tính lựa chọn của
thái độ và tính tích cực của hoạt động của cá nhân.
Đặc điểm nhu cầu của học sinh tiểu học
+ Ở học sinh tiểu học vẫn còn tồn tại một loạt nhu cầu từng là đặc trưng cho
lứa tuổi trước, như nhu cầu vui chơi, nhu cầu về những ấn tượng bên ngoài…
song những nhu cầu này đã có những nét mới trong nội dung cũng như cách
thức thỏa mãn chúng.
+ Bên cạnh đó, ở học sinh tiểu học đã xuất hiện những nhu cầu mới liên quan
đên cuộc sống nhà trường và hoạt động học tập.
+ Nhu cầu đọc sách được hình thành và phá triển ở học sinh tiểu học
+ Nhu cầu ở các em phát triển mạnh theo các hướng: các nhu cầu tinh thần
càng ngày càng chiếm ưu thế hơn so với các nhu cầu vật chất và các nhu cầu
càng ngày càng mang tính xã hội và tính được nhận thức.

+ Trong các nhu cầu, nhu cầu nhận thức ngày càng chiếm ưu thế
+ Hứng thú của học sinh tiểu học ngày càng bộc lộ và phát triển rõ rệt, đặc biệ
là hứng thú nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung quanh.
+ Giáo dục nhu cầu, đặc biệt là hình thành và phát triển nhu cầu nhận thức có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống và sự phát triển nhân cách của học
sinh tiểu học.
Tính cách
Khái niệm: Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của
con người, quy định phương hướng hành vi đặc thù của người đó trong nhứng
điều kiện sống và hoàn cảnh nhất định, thể hiện thái độ của họ đối với thế giới
xung qunh và bản thân.
Đặc điểm tính cách của trẻ tiểu học
+ Tính cách của trẻ thường hình thành rất sớm rất sớm ở thời kỳ trước tuổi đi
học. Quan sát chúng ta sẽ nhận ra, có trẻ sôi nổi, mạnh dạn, có em thì nhút
nhát. Song các nét tính cách của các em mới được hình thành, chưa ổn định, có
thể thay đổi dưới tác động giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội.

19


+ Điều dễ nhận ra là tính xung động trong hành vi, tức là khuynh hướng hành
động ngay lập tức dưới tác động của các kích thích bên trong và bên ngoài mà
không kịp suy nghĩ ,cân nhắc.
+ Tất cả những gì tác động đến trẻ đều có thể khơi dậy ơ các em phản ánh
nhanh chóng. Cho nên, chẳng có gì ngạc nhiên khi học sinh không đủ kiên
nhẫn nghe bạn trả lời, nhất là khi trả lời không đúng và thường xuyên muốn tự
trả lời khi chưa được phép của giáo viên.
+ Một điều dễ nhận thấy trong tính cách của học sinh tiểu học là sự cả tin. Trẻ
em tin tưởng một cách tuyệt đối vào người lớn, sách vở và cả bản thân mình.
Với trẻ, mọi điều thầy (cô) nói ra đều đúng và chuẩn mực.

+ Trẻ cũng rất hồn nhiên, với các em, không có gì phức tạp, khó khăn.
+ Trẻ thích bắt chước người lớn, bạn bè, các nhân vật trong phim, sách…Bắt
chước là con dao hai lưỡi, trẻ có thể bắt chước cái xấu lẫn cái tốt.
+ Nhìn chung trẻ thường có những nét tính cách tốt như lòng vị tha, tính ham
hiểu biết, tính chân thật… Tuy nhiên, trong tính cách của trẻ cũng thường gặp
những thiếu sót như: bướng bỉnh và thất thường.
8. Tình cảm và ý chí
Tình cảm
Khái niệm: Tình cảm là những rung động nhưng nó biểu thị thái độ của con
người đối với một loạt các sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu, động
cơ của chủ thể.
Đặc điểm tình cảm của trẻ tiểu học
+ Học sinh tiểu học rất dễ xúc cảm, các quá trình âm lý của trẻ (đặc biệt là quá
trình nhận thức) đều có sự tham gia trực tiếp của tình cảm. Tính dễ xúc cảm
của trẻ còn thể hiện ở tính dễ xúc động. Các em có thể vui sướng reo lên khi
được điểm tốt, buồn bã khi bị điểm kém hay bị chê trách, dễ khóc trước những
hoàn tình tiết, hoàn cảnh thương tâm…
+ Trẻ tiểu học dễ bộc lộ tình cảm, khả năng kiềm chế tình cảm yếu, chưa biết
ngụy trang.
+ Tình cảm của học sinh tiểu học còn mang tính mong manh, chưa bền vững và
chưa sâu sắc. Các em thường cười đấy rồi khóc đấy, chưa có các tâm trạng kéo
dài như người lớn.

20


+ Tính xung động của trẻ sẽ giảm dần theo từng lớp. Trẻ lớp 2,3 đã bắt đầu thể
hiện sự kìm hãm trong biểu hiện tình cảm.Trẻ vẫn cười nhưng biết lấy tay che
miệng, khi khóc trẻ biết cú mặt…Các phản ứng xung động được thay thế dần
bằng ngôn ngữ. Ở trẻ lớp 3, sự thể hiện bằng ngôn ngữ phát triển rõ rệt, ngữ

điệu phong phú lên một cách đáng kể.
+ Dưới ảnh hưởng của cuộc sống, tình cảm cấp cao (tình cảm đạo đức, tình
cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ) được hình thành và phát triển ở học sinh tiểu
học.
+ Trẻ hình thành tình cảm đặc biệt đối với những người thân trong gia đình và
thầy, cô giáo; thậm chí chúng trở thành động cơ trong học tập của trẻ như học
để cha, mẹ, thầy cô vui lòng. Nếu học sinh đầu cấp thường chọn bạn dựa vào
những đặc điểm giống nhau (ngồi cùng một bàn, sống cung một xóm, cùng
thích đọc truyện) thì học sinh cuối cấp thường chọn bạn dựa vào đức tính
(dung cảm, hay giúp đỡ bạn bè…).
+ Các tình cảm trí tuệ như ham hiểu biết, ngạc nhiên, nghi ngờ, hài lòng khi
hoàn thành bài tập, chán nản khi không biết giải bài tập…được hình thành và
phát triển mạnh.
+ Về cơ bản, nét chung trong tình cảm của trẻ là lạc quan, yêu đời, sảng khoái,
vui vẻ. Ở một số học sinh, đời sống tình cảm lại được khắc họa bởi mức độ cao
của sự bất an, bởi sự kiềm chế dẫn đến thường có thái độ tiêu cực trong học tập
cũng như đối với giáo viên.
+ Tình cảm là khâu quan trọng gắn liền với nhận thức và hành động
Kết luận sư phạm
- Muốn giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học phải đi từ những hình ảnh trực
quan, sinh động.
- Phải khéo léo, tế nhị khi tác động đên các em.
-Tình cảm của học sinh luôn luôn được củng cố trong những hoạt động cụ thể.
Ý chí
Khái niệm: Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện
những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự khắc phục khó khăn bên
ngoài và bên trong.
Đặc điểm ý chí của học sinh tiểu học

21



+ Sự phát triển ý chí và tình cảm có sự tác động lẫn nhau không ngừng. Trong
trường hợp này, tình cảm thúc đẩy ý chí. Trong trường hợp kia, ngược lại, tình
cảm kìm hãm ý chí.
+ Trẻ chưa có khả năng đặc ra mục tiêu cho hành động của mình và chưa biết
lập chương trình (kế hoạch) của hành động nên trẻ không thể tập trung sức lực
và kiên trì theo đuổi mục tiêu.
+ Tính độc lập, tự chủ còn thấp nên học sinh tiểu học, nhất là những lớp đầu
cấp, chưa thể độc lâph hoàn toàn trong hành động mà phải trông nhiều vào sự
giúp đỡ của người khác.
Kết luận sư phạm
+ Điều quan trọng là người lớn phải để học sinh thấy rõ mục đích học tập của
chính mình, bởi sức tập trung phụ thuộc rõ ràng vào mục đích đã định.
+ Giúp trẻ biết được tiến trình đi đến mục đích và cách thức đạt được mục
đích. Chẳng hạn, khi giao bài tập về nhà nhưng giáo viên không giải thích đọc
như thế nào thì học sinh sẽ cố gắng nhớ máy móc và bài học quá dài nên trẻ
mất lòng tin vào sức lực của mình.
9. Ý thức và tự ý thức
Câu 9. Khắc phục tình trạng nói bậy ở học sinh
Nói bậy không phải là lỗi của trẻ nhỏ. Ở tuổi này, bé không phân biệt được thế nào
là nói bậy mà cố gắng bắt chước tất cả những lời mà mình nghe được, chỉ cần nói
bậy một lần là các bé bắt chước luôn. Điều đầu tiên khi nghe thấy bé nói bậy là cha
mẹ nên bình tĩnh. Một phản ứng thái quá có thể khuyến khích bé tiếp tục sử dụng
ngôn ngữ xấu.
Dưới đây là 8 gợi ý giúp con bạn chấm dứt nói bậy:
1. Kiểm tra ngôn từ của cha mẹ
Không nói bậy, nói tục, chửi thề trước mặt con cái hoặc ngay cả khi bạn nghĩ bé
không nghe được.
2. Theo dõi chương trình truyền hình mà bé xem

Đảm bảo bé không nghe được những câu nói tục hay ngôn ngữ tiêu cực từ tivi.
Ngay cả với chương trình dành cho bé như phim hoạt hình, ca nhạc... cũng cần cẩn
thận.
3. Dạy bé biết dùng từ thay thế
22


Bản thân người lớn phải làm gương khi cáu giận. Chẳng hạn, có thể nói: “Bố thật
bực mình vì tắc đường” hay “Mẹ rất tức vì mua phải hộp phấn kém chất lượng”...
thay vì chửi bậy.
4. Bỏ qua khi bé nói bậy
Nếu bé nói ngôn ngữ xấu chỉ để được mẹ chú ý thì bạn nên bỏ qua. Nếu ngay lập
tức chú ý tới bé khi bé nói bậy thì vô tình, bạn đã gửi một thông điệp rằng: “Cứ
chửi bậy đi, mẹ sẽ tới ngay”.
5. Đặt câu hỏi
Thử hỏi bé xem: “Sao con nói bậy thế?”, “Con có biết nói thế là mẹ không vui
không?”... Bạn có thể biết nguyên nhân là do bé tức giận hoặc thất vọng nhưng
không biết tìm cách nào khác để bộc lộ cảm xúc.
6. Giải thích cho bé
Giải thích đơn giản vì sao bé nói bậy khiến cha mẹ không vui. Sau đó, cùng bé
thống nhất rằng nói tục không phải cách cư xử tốt đẹp nên không được mọi người
yêu quý.
7. Khen ngợi bé
Lời khen khi bé không nói bậy sẽ cho hiệu quả tốt. Mỗi lần, bạn nghe thấy bé bày
tỏ sự giận dữ mà không dùng ngôn ngữ xấu, nên nói cho bé biết mẹ hài lòng với
cách bộc lộ cảm xúc của bé. Đồng thời, hướng bé tới việc giải tỏa khó chịu như
cùng bé đi ăn kem, đi siêu thị, cùng nói chuyện với bé...
8. Phạt
Nếu nói bậy ở bé là một “bệnh nan y” mà những mẹo gợi ý ở trên không có tác
dụng. Khi ấy, bạn đề ra nguyên tắc phạt con nếu bạn nghe được một câu nói bậy ở

bé. Hình phạt có thể là rút lại một món quà đã hứa, rút lại chuyến về thăm ông bà...
Trong quá trình học nói, rất ít trẻ em tránh được việc nói bậy. Tuy nhiên, bố mẹ cần
phát hiện sớm và giúp trẻ loại bỏ chúng càng nhanh càng tốt
Câu 10. Ứng xử phù hợp khi trẻ dậy thì?
Tuổi dậy thì là một giai đoạn phát triển rất quan trọng, thời điểm có nhiều biến đổi
cả về thể chất lẫn tinh thần và con bạn bắt đầu quá trình chuyển tiếp từ "thiếu niên"
lên "vị thành niên". Đây là một trong những bước ngoặt phát triển nhất trong cuộc
đời mỗi con người.
23


Những dấu hiệu dậy thì bắt đầu trong độ tuổi từ 8 đến 13. Khi trẻ bắt đầu bước
sang giai đoạn dậy thì, sẽ không chỉ có những biến đổi về thể chất như đã đề cập ở
trên mà còn có rất nhiều biến động về tâm lý.
Cha mẹ nên làm gì?
Khi đó, sự giải thích, tâm sự của cha mẹ có thể giúp con mình được yên tâm hơn,
tránh những nỗi lo âu không đáng có trong giai đoạn dậy thì. Điều quan trọng nhất
mà các bậc cha mẹ nên làm là hãy nói chuyện trực tiếp với trẻ để cung cấp cho
chúng những hiểu biết cần thiết, giúp chúng không bị bất ngờ trước những thay đổi
đột ngột cả về thể chất lẫn tinh thần.
Những nguyên tắc
Tâm sự với trẻ như những người bạn
Lúc này, con bạn không phải là đứa trẻ lên ba nữa. Chúng tuy chưa phải là người
lớn nhưng luôn nghĩ rằng mình đã lớn, luôn muốn khẳng định cái “Tôi” và yêu cầu
được đối xử bình đẳng. Vì thế, hãy làm bạn của con trước khi làm cha mẹ của
chúng. Tức là, hãy thấu hiểu, đồng cảm trước khi yêu cầu.
Tâm sự nhiều lần
Trẻ ở độ tuổi này rất bướng bỉnh. Sự bướng bỉnh của chúng cũng có nhiều dạng, có
khi thể hiện bằng thái độ cãi lại, vùng vằng ngay trước mắt bạn. Nhưng cũng có
khi chúng tỏ vẻ nghe lời nhưng thực ra trong lòng “không phục”. Bạn cần hết sức

kiên trì với chúng để thuyết phục chúng thay đổi suy nghĩ nếu suy nghĩ đó là sai
trái.
Không áp đặt
Không ai thoải mái khi bị áp đặt, và trẻ em cũng thế. Việc bạn áp đặt trẻ trong tuổi
dậy thì lại càng tồi tệ, nó có thể sẽ khiến trẻ cảm thấy lòng tự tôn bị tổn thương,
thấy gò bó và dần dần sẽ không mở lòng ra với bạn nữa.
Không được nói rằng chúng là con nít
Nguyên tắc này tương tự như nguyên tắc thứ nhất, ở đây muốn nhấn mạnh rằng trẻ
ở độ tuổi này đã có những suy nghĩ theo lối mới do những biến chuyển về hormon.
Bạn cần lắng nghe và tôn trọng mọi suy nghĩ của chúng, dù có thể nó rất trẻ con
nhưng bạn không được ứng xử như thể đó là điều ngu ngốc.
Tôn trọng chuyện tình cảm của trẻ
24


Con bạn có thể sẽ có những rung động đầu đời với bạn khác giới. Đừng mắng mỏ
hay cười nhạo, hãy nói rằng bạn rất vui nếu biết điều đó, rồi từ từ giáo dục cho con.
Chỉ khi bạn biết lắng nghe, trẻ mới không ngần ngại nói lên những suy nghĩ và lo
lắng của mình.
Câu 11. Xử lý tích cách hiếu động của bé gái
Hỏi. Bé gái nhà em rất hiếu động, hay bắt chước, leo trèo như con trai. Em cho bé
chơi bán hàng, búp bê… để hạn chế sự hiếu động. Xin Nhất Việt tư vấn cách làm
bé ngoan và vâng lời hơn. (Vũ Thị Hoa, Bắc Ninh)
Trả lời: Bé gái ở tuổi mầm non rất hiếu động, thích leo trèo, chạy nhảy như con trai
cũng là điều bình thường. Không nên cấm hoặc buộc trẻ chơi những trò chơi bán
hàng, búp bê mà trẻ không thích. Hãy để trẻ tham gia các trò chơi vận động, chơi
cùng với trẻ như bế những con búp bê/những con vật. Có thể đặt những câu hỏi
búp bê có mệt không, con chạy có làm đau búp bê không, búp bê đói chưa? Sử
dụng phương pháp bắc cầu từ những trò chơi mạnh thể lực chuyển dần sang các trò
chơi trí tuệ như xếp hình, bán hàng, tô tượng. Nếu bạn kiên trì, sau một khoảng

thời gian, bé sẽ dần thích cả những trò chơi đặc trưng của các bạn gái.
Muốn bé ngoan hơn, biết vâng lời hơn, hãy sử dụng nhiều trò chơi đóng vai, mượn
những câu chuyện giàu xúc cảm, giàu tình tiết cho trẻ diễn kịch, đóng vai và kể lại,
đó là cách tốt nhất để giúp trẻ cảm nhận, trải nghiệm các xúc cảm tích cực, dần
hình thành những thói quen tốt.
Câu 11. Trẻ chưa hình thành tâm lý chuẩn bị vào lớp 1
Những trẻ đã đủ tuổi đi học lớp 1 nhưng chưa hình thành những kỹ năng tiền học
đường để hỗ trợ quá trình học tập, chẳng hạn như khả năng quan sát, sự tập trung
chú ý trong một thời gian, khả năng kiên trì thực hiện những nhiệm vụ học tập
được giao… có nguy cơ bị thất bại học đường. Do vậy việc chuẩn bị kĩ năng cho
trẻ trước khi vào lớp 1 là rất quan trọng. Cha mẹ có thể:
- Giúp con học bảng chữ cái thông qua các bài hát, đồ chơi…
- Hướng dẫn bé cách viết, cầm bút. Trẻ sẽ hứng thú hơn nếu cha mẹ hướng dẫn trẻ
viết chính tên mình.
- Để giúp trẻ tập trung trong khi học, cha mẹ nên cho con một không gian riêng,
yên tĩnh. Và nên kiểm tra kết quả ngay sau đó để kịp thời động viên, khích lệ trẻ.
- Cha mẹ nên cho trẻ chơi với nhóm bạn để hình thành kĩ năng giao tiếp, điều đó sẽ
giúp trẻ tự tin hòa nhập với môi trường mới.
25


×