Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Thiết kế trò chơi học tập trong dạy học môn tự nhiên và xã hội ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.37 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

TRIỆU THỊ ÁNH NGỌC

THIẾT KẾ TRÒ CHƠI HỌC TẬP
TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN
VÀ XÃ HỘI Ở TIỂU HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Tiểu học

Người hướng dẫn khoa học:

TS. PHẠM QUANG TIỆP
Hà Nội, 2018


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của quý thầy cô khoa Giáo dục Tiểu học, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, sau gần ba tháng thực hiện tôi đã hoàn thành
Khóa luận tốt nghiệp “Thiết kế trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên
và Xã hội ở Tiểu học”.
Để hoàn thành tốt luận văn, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân còn
có sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của nhiều tổ chức, cá nhân. Lời đầu tiên tôi
xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Quang Tiệp - Giảng viên khoa Giáo dục
Tiểu học đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
nghiên cứu. Ngoài ra tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể thầy cô giáo
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập, rèn luyện và nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu trường Tiểu học


Trưng Nhị (Phúc Yên - Vĩnh Phúc), các thầy cô giáo cùng các em học sinh đã
ủng hộ, cộng tác giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra, đáng giá, tổ chức thực
nghiệm các nội dung liên quan đến luận văn.
Vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu nhiều kinh
nghiệm thực tiễn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu xót. Nên tôi rất
mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của quý thầy cô để tôi có thể bổ
sung và hoàn thiện đề tài hơn, phục vụ tốt cho công tác giáo dục và giảng dạy.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Tác giả
Triệu Thị Ánh Ngọc


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Thiết kế trò chơi học tập trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội ở Tiểu học” là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi
với sự cố vấn của thầy Phạm Quang Tiệp. Các số liệu, kết quả nghiên cứu và
thực nghiệm là hoàn toàn trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn này
chưa được đăng tải trên bất kì một chương trình khoa học hay tạp chí nào.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Tác giả

Triệu Thị Ánh Ngọc

DANH MỤC VIẾT TẮT
GV: Giáo viên
HS: học sinh
NXB: nhà xuất bản



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môn Tự nhiên và Xã hội được giảng dạy ở khối lớp 1, 2, 3 ở trường
Tiểu học là một trong những môn học chính chiếm lượng thời gian lớn trong
chương trình học và là môn tích hợp của nhiều lĩnh vực khoa học như: Vật lí,
Sinh học, Hóa học,... Được chia thành ba chủ đề chính: Con người và sức
khỏe, Xã hội, Tự nhiên. Với lượng kiến thức lớn và liên quan trực tiếp tới
cuộc sống, nhà trường và GV đã có nhưng hiểu biết nhất định về tầm quan
trọng của môn học này đến tâm sinh lí HS cũng như các mối quan hệ xã hội
của trẻ ngay từ những bước đầu đời. Vì thế các nhà giáo dục, GV trong quá
trình soạn giảng và giảng dạy đã có những phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học khác nhau để phù hợp với nội dung bài đảm bảo truyền thụ đầy đủ
nội dung kiến thức, các kĩ năng cơ bản và mang lại hứng thú, lôi cuốn các em
cùng tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ, thú vị quanh mình.
Hiện nay, trong quá trình giảng dạy có rất nhiều phương pháp được các
thầy cô giáo áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhất là đối với môn Tự
nhiên và Xã hội. Ngoài các phương pháp dạy học truyền thống như: Phương
pháp vấn đáp, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp thực hành, phương
pháp làm việc cá nhân, phương pháp quan sát... Thì các phương pháp dạy học
hiện đại, phát huy tính chủ động tích cực của học sinh ngày càng được chú
trọng, đáp ứng theo phương châm đổi mới “Lấy người học làm trung tâm”
như phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, phương pháp tranh luận,
phương pháp đóng vai, phương pháp kể chuyện.Và một trong những phương
pháp được thầy cô tiến hành nhiều nhất cũng như được các em HS hứng thú
nhất chính là phương pháp sử dụng trò chơi học tập.
Trò chơi học tập tức là thông qua trò chơi có nội dung liên quan đến bài
học để giúp HS tái hiện lại kiến thức, tiếp thu bài mới hay củng cố nội dung

1



vừa học. Dựa vào mục đích trò chơi có thể tổ chức ở trước, trong hay cuối
mỗi bài học, giờ ôn tập.Trò chơi là công cụ đáp ứng tiêu chí “Học mà chơi,
chơi mà học” giúp giờ học trở nên vui vẻ, không tạo áp lực cho các em. Qua
các trò chơi học tập ngoài củng cố lại bài học còn nhằm rèn luyện thể chất,
sảng khoái tinh thần, giáo dục kĩ năng sống, kĩ năng làm việc nhóm, tinh thần
đoàn kết, ý chí nỗ lực chiến thắng,... đây còn là phương thức phản ánh rõ nét
cá tính của từng HS từ đó giúp cho GV dễ dàng hơn trong quá trình giảng dạy
và giáo dục trẻ. Phương pháp trò chơi đáp ứng đúng với mục tiêu giáo dục
hiện nay, giáo dục học sinh phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mĩ. Vì vậy,
thiết kế trò chơi học tập trong dạy học Tự nhiên và Xã hội là cần thiết song để
sử dụng phương pháp này thật khéo léo và hiệu quả hay không là cả nghệ
thuật, là cái duyên của các nhà Sư phạm.
Trò chơi học tập được thiết kế theo nhiều cách thức khác nhau với các
công cụ, phương tiện, hình thức chơi riêng. Có thể là trò chơi vận động nhẹ
nhàng, đố vui xung quanh nội dung bài. Các đồ vật, dụng cụ phục vụ các trò
chơi được giáo viên thiết kế thủ công một cách tỉ mỉ, đẹp mắt. Ngoài ra hiện
nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, việc ứng dụng internet vào
môi trường học đường phổ biến giúp cho việc thiết kế trò chơi dễ dàng hơn.
Các tính năng vượt trội của bảng thông minh, máy chiếu đã giúp trò chơi
thêm phần thú vị. Những sắc màu rực rỡ, những âm thanh sôi động, những
video về cuộc sống hay hình ảnh đẹp... được HS rất háo hứng tham gia. Do
đó, GV cần biết và thiết kế được các trò chơi đa dạng, phong phú để làm giờ
học thêm phần tươi mới đúng với lứa tuổi đầu Tiểu học.
Đã có rất nhiều tài liệu, sách hướng dẫn cách thiết kế trò chơi học tập
trong môn Tự nhiên và Xã hội song còn rời rạc, chưa có tính hệ thống, các trò
chơi chỉ thiên về tính giải trí mà chưa có nội dung giáo dục. Nhiều trò chơi
chưa phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, chưa kích thích sự ham hiểu



biết của các em. Ngoài ra ở lứa tuổi đầu Tiểu học các em còn hiếu động nên
GV khó quản lí HS trong quá trình chơi. Một số trò chơi không phù hợp với
điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng của nhà trường và đặc thù của HS. Hay
cách tổ chức của GV không hiệu quả gây nhàm chán cho HS khiến trò chơi
không mang lại kết quả cao. Vậy để cuộc chơi đạt mục tiêu đề ra cần thiết kế
các loại trò chơi phù hợp với bài học, đặc điểm HS và điều kiện lớp học.
Từ những lí do trên tôi lựa chọn chủ đề “Thiết kế trò chơi học tập trong
dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học” tôi hi vọng việc nghiên cứu đề
tài này sẽ mang đến nhiều kiến thức bổ ích, thiết thực nhất liên quan tới việc
thiết kế và sử dụng các trò chơi học tập trong môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu
học. Bên cạnh đó với đề tài này tôi mong rằng quí thầy cô sẽ bổ sung, phát
triển vốn trò chơi thêm phong phú, đa dạng hơn để mang lại hiệu cao, đảm
bảo mục tiêu giáo dục trong quá trình giảng dạy, góp phần đổi mới phương
pháp dạy học Tự nhiên và Xã hội nói riêng và các bộ môn khác nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất quy trình thiết kế và tổ chức trò chơi học tập trong môn Tự
nhiên và Xã hội nhằm góp phần nâng cao kết quả dạy học môn học này ở
Tiểu học
3. Đối tượng nghiên cứu
Phương thức thiết kế trò chơi học tập trong môn Tự nhiên và Xã hội ở
Tiểu học.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xác lập được các bước tiến hành và kĩ thuật thực hiện thiết kế trò
chơi vừa đảm bảo các nguyên tắc của xây dựng trò chơi học tập, vừa phù hợp
với đặc trưng của môn Tự nhiên và Xã hội và đặc điểm nhận thức của HS
Tiểu học thì có thể tạo ra những trò chơi hấp dẫn và hiệu quả trong dạy học
Tự nhiên và Xã hội cho HS Tiểu học.


5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc thiết kế trò chơi học tập
trong môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học.
Đề xuất chỉnh sửa, thiết kế làm mới cách tổ chức, hình thức tham gia
các trò chơi học tập sẵn có trong sách giáo khoa được sử. Thiết kế hệ thống
các trò chơi mới phục vụ trong dạy học Tự nhiên và Xã hội.
Thực nghiệm Sư phạm để khẳng định tính đúng đắn và khả thi của đề
tài, áp dụng tực tiễn một số trò chơi mới vào giờ học.
6. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Môn Tự nhiên và xã hội ở khối lớp 1, 2, 3.
Phạm vi thời gian: Trong chương trình cả năm học của 3 khối lớp 1, 2,
3 môn Tự nhiên và xã hội.
Phạm vi không gian: Khối lớp 1, 2, 3 ở trường Tiểu học.
Nghiên cứu thực trạng và tiến hành thực nghiệm tại trường Tiểu học.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Thông qua các giáo trình, tạp chí giáo
dục, các sách thiết kế, sách giáo viên, các đề tài nghiên cứu trước đó... tôi tiến
hành nghiên cứu, thu thập, phân tích các thông tin, cơ sở lí luận liên quan đến
thiết kế trò chơi học tập trong môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học.
Phương pháp điều tra khảo sát: Điều tra thực trạng sử dụng trò chơi học
tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học. Xin ý kiến của GV và
HS bằng phiếu để thu thập thông tin nhanh và thiết thức.
Phương pháp quan sát: Quan sát bao quát lớp học, thái độ của HS và
kết quả đạt được của trò chơi trong các giờ Tự nhiên và Xã hội.
Phương pháp thực nghiệm Sư phạm: Soạn giáo án và trực tiếp tổ chức
trò chơi trong một số tiết môn Tự nhiên và Xã hội để đánh giá tính khả thi,
hiệu quả của các trò chơi đã đề xuất.


Phương pháp xử lí thông tin: Xây dựng luận cứ phục vụ chứng minh,
bác bỏ các giả thiết khoa học và xử lí các số liệu có liên quan đến đề tài. Xử lí

logic các thông tin định tính và xử lí toán học với các thông tin định lượng
nhờ các phần mềm tin học.
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn HS về thái độ và kết quả khi tham
gia các trò chơi. Trao đổi với GV về việc sử dụng và thiết kế trò chơi học tập.
Xin ý kiến, chỉ bảo, những kinh nghiệm của các chuyên gia, giảng viên giảng
dạy môn phương pháp dạy học các chủ đề Tư nhiên và Xã hội.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Nội dung khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của thiết kế trò chơi học tập trong dạy học
môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học.
Chương 2: Thực trạng thiết kế trò choi học tập trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội ở trường Tiểu họ.
Chương 3: Biện pháp thiết kế trò chơi học tập trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội ở Tiểu học.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA THIẾT KẾ TRÒ CHƠI HỌC TẬP
TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở TIỂU HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thiết kế trò chơi học tập không còn là vấn đề mới mẻ trong giáo dục vì
trước đây khi các phương pháp dạy học được biên soạn thì đã có những đề tài
nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này. Ngay từ cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX
nền giáo dục đã biết đến ông Phreben (Đức) hay M.Mentori... có ý tưởng trò
chơi với dạy trẻ học, dùng trò chơi làm phương tiện dạy học. Về sau ý tưởng
đó được phản ánh tiếp tục trongnghiên cứu của các nhà giáo dục Liên Xô
như: A.P.Radinna, A.P.Vsova, A.L.Sovokia... Và gần đây cùng với quá trình
đổi mới toàn diện nền giáo dục nhất là đổi mới nội dung và phương pháp dạy
học. Đã có rất nhiều nhà giáo dục Việt Nam nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu thiết
kế các trò chơi học tập không chỉ giáo dục toàn diện về mọi mặt cho trẻ mà

còn giúp việc học trở nên thú vị. Trong số đó phải kể đến các tác giả như Hà
Nhật Thăng (chủ biên) với cuốn “Tổ chức hoạt động vui chơi ở Tiểu học
nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ, thể lực cho học sinh” hay cuốn “150 trò chơi
thiếu nhi” của hai tác giả Bùi Sĩ Tụng và Trần Quang Đức chủ biên. Các tài
liệu này đề cập rất rõ vai trò của trò chơi song chỉ đưa ra những hoạt động vui
chơi chung chung, chưa thực sự đi sâu vào ứng dụng của trò chơi, chưa chú ý
đến điều kiện thực tế lớp học. Nên khi áp dụng chưa đạt hiệu quả cao. Đối với
môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học phải kể đến cuốn “Học mà vui vui mà
học” của ông Vũ Xuân Đỉnh, cuốn “Trò chơi học tập Tự nhiên – Xã hội lớp 1,
2, 3” của tác giả Bùi Phương Nga làm chủ biên hay Dự án phát triển giáo viên
Tiểu học của NXB Giáo dục... Cùng với đó, có rất nhiều những đề tài khóa
luận, luận văn kết thúc môn học của sinh viên các khối Sư phạm ngành giáo
dục Tiểu học đã tìm hiểu nội dung này. Song các trò chơi chưa có tính hệ


thống, khó áp dụng vào thực tiễn giảng dạy. Chính vì vậy đề tài này đi vào
chuyên sâu nghiên cứu “Thiết kế trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên
và Xã hội ở trường Tiểu học” với đầy đủ ba chủ đề: Con người và sức khỏe,
Tự nhiên và Xã hội.
1.2. Dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
1.2.1. Đặc điểm môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
Các môn học Tự nhiên và Xã hội, Khoa học, Lịch sử và Địa lí là những
môn học về các sự vật, sự kiện, hiện tượng và các mối quan hệ giữa chúng
trong môi trường tự nhiên xã hội xung quanh, về cơ thể và sức khỏe con
người.
Khác với các môn học như Toán, Tiếng Việt, Nghệ thuật... Đối tượng
học tập của môn Tự nhiên và Xã hội chính là các sự vật, hiện tượng cụ thể và
các mối quan hệ giữa chúng trong môi trường tự nhiên, xã hội. Việc học tập
môn học nào cũng phải dựa vào các sự vật, hiện tượng cụ thể của môi trường
xung quanh. Song với các môn học khác, các sự vật, hiện tượng đó chỉ là các

đối tượng trung gian, những phương tiện để qua đó HS lĩnh hội những kiến
thức và kĩ năng của các môn học. Hay nói cách khác, các sự vật, hiện tượng
và các mối quan hệ đó không phải là đối tượng học tập trực tiếp. Còn đối với
các môn học về Tự nhiên, Xã hội và Khoa học thì các sự vật, hiện tượng và
các mối quan hệ giữa chúng chính là đối tượng học tập trực tiếp.
Vì là những sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ giữa chúng trong
môi trường tự nhiên xã hội xung quanh nên đối tượng học tập ở đây cụ thể và
gần gũi với HS. Các em đã được tiếp xúc với chúng từ trước khi tới trường,
trong cuộc sống hàng ngày ở gia đình, địa phương, từ những người xung
quanh và từ cả các phương tiện thông tin đại chúng.
Ngoài ra, đặc điểm chương trình của các môn học này là được xây
dựng theo quan điểm đồng tâm. Nội dung học tập được sắp xếp từ gần đến xa,


từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, nâng dần mức độ phức tạp theo các
lớp. Đặc điểm này làm cho nội dung học tập lại càng trở nên gần gũi với học
sinh, vì các kiến thức HS đã biết, đã được học luôn là cơ sở cho việc hình
thành hệ thống những kiến thức mới.
Với những lí do trên mà môn Tự nhiên và Xã hội chính là môn học HS
có nhiều kinh nghiệm và vốn sống, vốn hiểu biết nhất để tham gia khi học bài.
Với những đặc trưng này khi dạy học môn Tự nhiên và Xã hội GV cần
hạn chế việc áp đặt kiến thức, cần tạo cơ hội để các em được huy động kinh
nghiệm và vốn sống để tự phát hiện, khám phá ra kiến thức bài học. Ngoài ra
cũng cần tăng cường khai thác kinh nghiệm và vốn hiểu biết của các em khi
hình thành kiến thức mới và tích cực liên hệ những kiến thức đã được học vào
thực tế cuộc sống để làm cho chúng dễ hiểu và trở nên gần gũi với HS hơn.
1.2.2. Phương pháp dạy học Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp GV tổ chức cho HS sử
dụng các giác quan khác nhau để tri giác các sự vật, hiện tượng một cách có
mục đích, có kế hoạch, có trọng tâm, qua đó rút ra những kết luận khoa học.

Phương pháp hỏi đáp: Hỏi đáp là phương pháp GV tổ chức cuộc đối
thoại giữa GV và HS, giữa HS với nhau dựa trên hệ thống câu hỏi nhằm dẫn
dắt các em đi đến những kết luận khoa học, hoặc vận dụng vốn hiểu biết của
mình để tìm hiểu những vấn đề về học tập, cuộc sống.
Phương pháp thực hành: Thực hành là phương pháp dạy học, trong đó
GV tổ chức cho HS được trực tiếp thao tác trên đối tượng nhằm các em hiểu
rõ và vận dụng lí thuyết và thực hành, luyện tập, hình thành kĩ năng.
Phương pháp truyền đạt: Truyền đạt là phương pháp GV đưa ra những
thông tin có kèm theo chỉ dẫn, hướng dẫn nhằm giải thích hoặc minh họa cho
những thông tin đó.


Phương pháp kể chuyện: Kể chuyện là cách dùng lời nói trình bày một
cách sinh động, có hình ảnh và truyền cảm đến người nghe về một sự vật, sự
việc... để hình thành một biểu tượng, một khái niệm với niềm tin sâu sắc.
Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề: Dạy học giải quyết vấn đề là
phương pháp GV hoặc HS tạo ra những tình huống có vấn đề, GV điều khiển
hoặc HS tự phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng
tạo để giải quyết vấn đề, nắm bắt tri thức.
Phương pháp thảo luận: Thảo luận là phương pháp GV tổ chức cuộc
đối thoại, trao đổi ý kiến giữa GV và HS, giữa HS với nhau về một vấn đề học
tập hoặc một vấn đề của cuộc sống để rút ra kết luận khoa học.
Phương pháp đóng vai: Đóng vai là tổ chức cho HS tham gia giải quyết
một tình huống của nội dung học tập gắn liền với thực tế cuộc sống bằng cách
diễn xuất ngẫu nhiên, có thể không cần kịch bản hoặc luyện tập trước.
Phương pháp điều tra: Điều tra là phương pháp dạy học trong đó GV
tổ chức và hướng dẫn HS tìm hiểu một vấn đề sau đó dựa trên các thông tin
thu thập được tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp và khái quát để rút ra kết
luận, nêu ra các giải pháp hoặc kiến nghị.
Phương pháp tranh luận: Tranh luận là GV tổ chức cho HS thảo luận và

tranh cãi về vấn đề mà có ít nhất hai quan điểm trái nhau. HS ở các phe cùng
thảo luận, phân tích để biện hộ ý kiến của mình, hoặc đối đáp với câu hỏi bổ
sung của phe đối lập. Cuối cùng phe nào bảo vệ được ý kiến của mình và
thuyết phục được phe kia sẽ thắng, hoặc kết quả có thể dung hòa giữa hai phe.
Phương pháp trò chơi học tập: Đây là phương pháp thông qua việc sử
dụng các trò chơi có nội dung học tập để giúp HS hình thành kiến thức mới,
củng cố kiến thức đã học hay ôn tập hệ thống lại kiến thức.
Đối với từng bài học GV áp dụng các phương pháp một cách linh hoạt,
sáng tạo, phù hợp để giờ học trở hấp dẫn, mới mẻ, đạt chất lượng cao hơn.


1.3. Trò chơi học tập
1.3.1. Khái niệm trò chơi học tập
Trò chơi là một hoạt động tự nhiên và cần thiết nhằm thỏa mãn những
nhu cầu giải trí đa dạng của con người . Là một phương pháp giáo dục thực
hành hiệu nghiệm nhất đối với việc hình thành nhân cách, trí lực của trẻ em.
Hay đơn giản trò chơi là một hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một nội
dung nhất định và có những qui định mà người tham gia phải tuân thủ.
Trò chơi học tập được hiểu là các trò chơi có nội dung gắn với gắn với
các hoạt động học tập của HS nhằm giúp HS học tập trên lớp được hứng thú,
vui vẻ hơn. Hay theo Kharlamov cho rằng trò chơi có nhiệm vụ chủ yếu là
giáo dục và phát triển trí tuệ cho trẻ em.
Thiết kế trò chơi học tập là xây dựng hoàn chỉnh một trò chơi bao gồm
tên gọi của trò chơi, luật chơi, cách thức tổ chức, hình thức tham gia và mỗi
trò chơi người thiết kế phải xác định được mục tiêu rõ ràng, cụ thể mà trò
chơi ấy mang lại đối với những người tham gia.
1.3.2. Phân loại trò chơi học tập
Sau quá trình nghiên cứu nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội
dựa vào các tiêu chí có thể phân loại trò chơi thành hai dạng để phù hợp với
từng bài học và giúp GV dễ dàng hơn trong việc thiết kế trò chơi học tập.

1.3.2.1. Dạng trò chơi phân theo tính chất bài học
Dạng này được chia làm bốn loại trò chơi
Trò chơi khởi động (chim bay cò bay, muỗi bay muỗi đốt, gió, làm
theo những gì tôi nói đừng làm theo những gì tôi làm, con thỏ ăn cỏ uống
nước chui vào hang...) GV cần sử dụng những trò chơi tạo không khí vui tươi,
sôi nổi, thoải mái để các em hứng thú bước vào giờ học và từ những trò chơi
ấy GV có thể dẫn vào bài mới một cách lí thú hơn.


Trò chơi để dạy bài mới (trò chơi đố bạn con gì, xì điện, nhìn nhanh
nhìn đúng, kể nhanh kể đúng...) có tác dụng hình thành kiến thức mới, sau khi
chơi GV cho HS rút ra kiến thức, kĩ năng thông qua trò chơi. Với loại này GV
phải cân nhắc lựa chọn trò chơi để đảm bảo mục đích chính là giáo dục.
Trò chơi củng cố kiến thức sau mỗi tiết học (trò chơi sắp xếp hình, liệt
kê, đố nhanh đáp gọn... ) giúp HS hệ thống lại một phần hay toàn bộ kiến thức
được học trong tiết ấy và có tác dụng giải trí để kết thúc tiếp học trong tâm
thế thoải mái nhất.
Trò chơi sử dụng cho các giờ ôn tập chủ đề lớn (giải câu đố, hái hoa
dân chủ, ô chữ kì diệu...) nhằm ôn lại hệ thống các bài đã học trong chủ đề ấy
trước khi bước sang chủ đề mới, vì thế cần thiết kế những trò chơi với thời
lượng dài, có tính bao quát, tổng hợp song phải đa dạng về cả nội dung và
hình thức.
1.3.2.2. Dạng trò chơi phân theo nội dung bài học
Tùy thuộc mỗi chủ đề các loại trò chơi lại có đặc trưng khác nhau.
Chủ đề Tự nhiên thì các trò chơi gắn liền với các sự vật, hiện tượng
ngoài thiên nhiên: bắt trước tiếng kêu của các con vật, làm các hoạt động
tương ứng với các hiện tượng thời tiết, trò chơi gieo hạt đối với phần thực vật.
Chủ đề Xã hội thì các trò chơi thiên về các mối quan hệ, giao tiếp, ứng
xử đời sống, các trò chơi đóng vai được GV chú trọng hay những công việc
thường nhật để từ đó giáo dục kĩ năng sống cho các em.

Chủ đề Con người và sức khỏe thì thiên về cách vệ sinh thân thể, vệ
sinh phòng bệnh nhờ các trò chơi thực hành vận động linh hoạt. Mỗi trò chơi
cần chú ý phát triển toàn diện về cả thể chất, kiến thức, tinh thần của trẻ.
Tùy vào từng dạng bài dạy, mục đích trò chơi, đặc điểm HS... GV có
thể thiết kế và sử dụng các trò chơi học tập vào các bài dạy linh họat, sáng tạo


để mỗi giờ Tự nhiên và Xã hội là một giờ vui chơi mà học hỏi, khám phá
được các em HS chờ đợi và háo hức mỗi khi đến trường.
1.3.3. Vai trò của trò chơi học tập trong dạy học
Có thể khằng định rằng trò chơi học tập là một phương tiện giáo dục và
giải trí, giúp cho cá nhân được rèn luyện, giúp cho tập thể có bầu không khí
vui vẻ, thân ái, thông cảm, đoàn kết...
Trò chơi học tập có tác dụng với tinh thần và thể chất của HS. Trò chơi
giúp tăng cường sức khỏe nhờ các vận động nhẹ nhàng như dậm chân, vỗ tay,
chạy tại chỗ... giúp các em luyện giác quan với các trò yêu cầu phản ứng
nhanh nhạy, ghi nhớ, tập trung tư tưởng... nhờ trò chơi các em trở nên vui vẻ,
sôi động, rèn luyện tính đồng đội, các em trong cùng nhóm biết đoàn kết gắn
bó, cùng nỗ lực, quyết tâm để giành chiến thắng. Đôi khi trò chơi có thể chữa
trị cho những em bị trầm uất, bị căng thẳng hay suy nhược thần kinh...
Trò chơi học tập có tác dụng đối với bài học. Được xây dựng trên nền
tảng là những kiến thức học tập cho nên qua trò chơi HS được củng cố bài đã
được học. Hay những trò chơi được lồng ghép để dạy bài mới giúp các em
tiếp thu bài rất nhanh và nhớ lâu. Và những trò chơi cuối giờ vừa giúp các em
tái hiện lại nội dung vừa học vừa làm cho việc ôn bài ở nhà trở nên nhẹ nhàng
hơn, giảm áp lực đối với việc học ở nhà.
Trong phương pháp giáo dục hiện đại, trò chơi là một môn huấn luyện
quan trọng. Nước Bỉ đứng hàng đầu về tiến bộ Sư phạm, thấy rõ sự quan
trọng và lợi ích của trò chơi trong công tác giáo dục, nên đã đưa bộ môn trò
chơi vào chương trình giáo dục quốc gia. Còn ở Việt Nam tuy không tách trò

chơi thành một bộ môn riêng rẽ nhưng được lồng ghép linh hoạt trong các giờ
học chính khóa mang lại hiệu quả cao và thiết thực. Đúng như nhà tâm lí học
Kunkel người Anh từng nói “Trò chơi là một phương tiện để tái tạo lại tâm lí


ổn định cho một số em khó tính, dở người, vô trật tự... vì trong lúc chơi, trẻ
em không thu mình lại, chúng sẽ vui vẻ hẳn lên, thích hoạt động hơn... Khi bị
ép vào luật chơi, các em sẽ dần dần có trật tự, kỉ luật và sinh động hơn...”
1.4. Đặc điểm của học sinh lứa tuổi đầu Tiểu học
1.4.1. Đặc điểm sinh lí của học sinh lứa tuổi đầu Tiểu học
Cơ của trẻ em chứa nhiều nước, tỉ lệ đạm và mỡ ít nên khi hoạt động
chóng mệt mỏi, trẻ chỉ vận động nhẹ nhàng trong thời gian ngắn vì vậy để
phát triển khả năng vận động cho trẻ bằng các động tác kĩ thuật mềm dẻo.
Tốc độ phát triển xương nhanh song cấu trúc xương, khớp chưa hoàn
chỉnh nên tránh các động tác đè nén cơ thể. Những tư thế đứng, ngồi không
phù hợp gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển và trưởng thành sau này.
Ở trẻ lớp 1, 2, 3 nhịp tim của trẻ nhanh nên khi vận động và có thái độ
lo lắng tim đập nhanh, làm việc quá tải có thể phát sinh bệnh tim mạch...
Hệ hô hấp của các em đang hoàn thiện, nhịp thở nông, lượng không khí
trong phổi thấp, tần số hô hấp cao... Nên khi vận động với lượng vận động
vừa thì nhịp thở đã tăng cao, học sinh dễ mệt mỏi sớm chuyển sang thở gấp
Về hệ thần kinh ở lứa tuổi này bất ổn định và chia thành nhiều loại
khác nhau: mạnh – thăng bằng, mạnh – hưng phấn, yếu – thụ động.
Từ những đặc điểm sinh lí của HS nêu trên GV cần thiết kế và tổ chức
các trò chơi vận động nhẹ nhàng, vừa sức, có lượng vận động và quãng nghĩ
thích hợp để đảm bảo trò chơi diễn ra một cách vui vẻ, chất lượng và an toàn.
1.4.2. Đặc điểm tâm lí của học sinh lứa tuổi đầu Tiểu học
Với HS đầu Tiểu học học tập trở thành học tập chủ đạo. HS say mê học
tập chủ yếu là từ các động cơ mang ý nghĩa tình cảm như được thầy cô giáo
khen ngợi, đạt thành tích cao.



Đối với trẻ hoạt động vui chơi là nhu cầu tự nhiên và cần thiết. Thông
qua các hoạt động vui chơi GV có thể lồng ghép giáo dục tri thức, đạo đức,
thẩm mĩ mà vẫn hoàn thiện sự phát triển cơ thể cho trẻ.
HS lứa tuổi đầu Tiểu học có tình cảm, cảm xúc thay đổi liên tục có thể
vui buồn trong cùng một hoạt động, một thời điểm, rất dễ xúc động. Khả năng
bản thân bị hạn chế, thường trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác khi gặp
khó khăn.
Vì vậy, khi tổ chức các trò chơi học tập người thiết kế cần có các yêu
cầu mới, phù hợp với tâm lí, xúc cảm của đối tượng tham gia. Từ đó xây dựng
những trò chơi vừa đảm bảo thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí vừa được cung
cấp, củng cố những kiến thức khoa học cần thiết, bổ ích cho HS.


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THIẾT KẾ TRÒ CHƠI HỌC TẬP
TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC
2.1. Mục tiêu môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
2.1.1. Kiến thức
Có một số kiến thức cơ bản, ban đầu về con người và sức khỏe như các
giác quan, cấu tạo, chức phận của các hệ cơ quan chính trong cơ thể người,
cách giữ gìn vệ sinh và phòng trách các loại bệnh tật,tai nạn thường gặp. Một
số sự vật, hiện tượng đơn giản trong thế giới.
2.1.2. Kĩ năng
Bước đầu hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng cơ bản. Đó là
kĩ năng quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, diễn đạt những hiểu biết của mình
về các sự vật, hiện tượng đơn giản nhất trong cuộc sống xung quanh. Đó còn
có thể là các kĩ năng sống giúp các em hòa nhập tốt hơn với môi trường gia
đình, môi trường học đường, môi trường xã hội. Mà cuộc sống ngày càng

phức tạp nên giáo dục những kĩ năng này ngay từ lứa tuổi đầu Tiểu học là
định hướng đúng đắn.
2.1.3. Thái độ
Hình thành và phát triển ở học sinh thái độ và hành vi như: Ham hiểu
biết khoa học, có ý thức tìm tòi khám phá những điều mới lạ, có ý thức giữ vệ
sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và toàn cộng đồng và hình thành ở các em
tình yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương, đất nước.
2.2. Nội dung môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
Môn Tự nhiên và Xã hội ở cả bà khối lớp đều được chia làm ba chủ đề
chính với các nội dung thành phần về cơ bản là giống nhau. Chương trình
môn học này ở lớp 1 và lớp 2 được chia thành 1 tiết trên 1 tuần * 35 tuần = 35


tiết, ở khối lớp 3 được chia thành 2 tiết trên 1 tuần * 35 tuần = 70 tiết với các
nội dung chính sau:
Bảng 1: Nội dung các chủ đề môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
CHỦ

LỚP 1

LỚP 2

LỚP 3

ĐỀ
Con

Cơ thể người.

Cơ quan vận động.


Cơ quan hô hấp.

người

Nhận biết các vật.

Cơ quan tiêu hóa.

Cơ quan tuần hoàn.

sức Bảo vệ tai, mắt, vệ sinh Vệ sinh ăn uống.



Cơ quan bài tiết.

khỏe

Ăn đủ, uống đủ.

Xã hội

Gia đình: đồ dùng, an Gia đình: tránh ngộ Gia đình: thế hệ,
toàn, vệ sinh, nhà ở...

Đề phòng bệnh giun Cơ quan thần kinh.
độc, giữ vệ sinh...

họ hàng nội ngoại..


Lớp học: hoạt động, Trường học: thành Trường học:
thành viên, đồ dùng...

viên, các phòng...

an

toàn khi chơi...

Huyện, quận: cảnh Tỉnh, thành phố:
quan, giao thông...

văn hóa, đô thị...

Tự

Thực vật và động vật: Thực vật và động Thực vật và động

nhiên

cây và con phổ biến.

vật sống khắp nơi.

Hiện tượng tự nhiên, Mặt
mặc hợp thời tiết.

Trời,


vật: cấu tạo...

Mặt Mặt Trời, Trái Đất,

Trăng và các vì sao. Mặt Trăng.

2.3. Thực trạng dạy học và thiết kế trò chơi học tập trong dạy học môn
Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
2.3.1. Mục đích điều tra
- Tìm hiểu việc dạy học, việc sử dụng các phương pháp, kĩ thật, hình
thức dạy học môn Tự nhiên và Xã hội.


- Tìm hiểu thực trạng thiết kế v à sử dụng trò chơi học tập trong dạy học
Tự nhiên và Xã hội.
2.3.2. Đối tượng điều tra
90 GV và HS khối lớp 1, 2, 3 ở một số trường Tiểu học trên địa bàn
Xuân Hòa, Phúc Yên (Vĩnh Phúc).
2.3.3. Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: sử dụng phiếu điều tra với GV
Phương pháp quan sát: xin dự giảng các tiết học môn T ự nh iên v à Xã
hội để quan sát cách GV tổ chức các hoạt động dạy học, cách HS tiếp thu tri
thức để xác định mức độ sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
Phương pháp vấn đáp: trao đổi, thảo luận trực tiếp với GVvà HS.
2.3.4. Qúa trình điều tra
- Thời gian: từ ngày 15 - ngày 25 tháng 3 nằm 2018
- Địa bàn: Trường Tiểu học trên địa bàn Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
2.3.5. Kết quả điều tra
2.3.5.1. Thực trạng thời lượng dạy học Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
Nội dung điều tra:

Câu hỏi 1 (dành cho GV khối 1, 2): Các thầy (cô) thường dạy môn Tự
nhiên và Xã hội mấy tiết/ tuần?
A. 1 tiết/ tuần
B. 2 tiết/ tuần
C. Ý kiến khác
Câu hỏi 2 (dành cho GV khối 3): Các thầy (cô) thường dạy môn Tự
nhiên và Xã hội mấy tiết/ tuần?
A. 1 tiết/ tuần


B. 2 tiết/ tuần C.
Ý kiến khác Kết
quả điều tra:
Bảng 2: Thời lượng dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học
THỜI LƯỢNG

1 tiết/ tuần

2 tiết/ tuần

Ý kiến khác

(số lượng/ tỉ lệ)
Lớp 1, 2

40 (66, 7%)

5 (8, 3%)

15 (25%)


Lớp 3

0 (0%)

25 (83, 3%)

5 (16, 7%)

Từ kết quả điều tra cho thấy GV đã giảng dạy theo đúng qui định của
Bộ Giáo dục về chương trình Đào tạo đối với bộ môn Tự nhiên và Xã hội
ở khối lớp 1 và khối lớp 2 có 35 tiết/ 35 tuần (1 tiết/ tuần), còn ở khối lớp
3 được chia thành 70 tiết/ 35 tuần (2 tiết/ tuần). Các ý kiến khác sau khi
trao đổi GV cho biết vào các giờ Tự chọn thường dành cho môn Tự nhiên
và Xã hội hay vào buổi chiều các em có được bổ sung kiến thức ở môn
này và gọi là môn Tự nhiên và Xã hội +.
2.3.5.2. Thực trạng phương pháp dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở
Tiểu học.
Nội dung điều tra
Câu hỏi 3: Các thầy (cô) thường sử dụng những phương pháp nào
trong dạy học Tự nhiên và Xã hội (Đánh dấu X vào ô lựa chọn)
PHƯƠNG
PHÁP
Quan sát
Hỏi đáp
Thực hành

THƯỜNG XUYÊN

THỈNH THOẢNG KHÔNG



Truyền đạt
Kể chuyện
Thảo luận
Đóng vai
Điều tra
Tranh luận
Trò chơi
Giải quyết
vấn đề

Kết quả điều tra
Bảng 3: Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học trong dạy học Tự
nhiên và Xã hội ở Tiểu học
PHƯƠNG
PHÁP

THƯỜNG XUYÊN

THỈNH THOẢNG KHÔNG

(số lượng/ lỉ lệ)

(số lượng/ tỉ lệ)

(số lượng/ tỉ lệ)

Quan sát


85 (94, 4%)

5 (5, 6%)

0 (0%)

Hỏi đáp

90 (100%)

0 (0%)

0 (0%)

Thực hành

45 (50%)

45 (50%)

0 (0%)

Truyền đạt

90 (100%)

0 (0%)

0 (0%)


Kể chuyện

73 (81, 1%)

10 (11, 1%)

7 (7, 8%)

Thảo luận

45 (50%)

40 (44, 4%)

5 (5, 6%)

Đóng vai

40 (44, 4%)

27 (30%)

23 (25, 6%)

Điều tra

45 (50%)

30 (33, 3%)


15 (16, 7%)


Tranh luận

67 (74, 4%)

20 (22, 2%)

3 (3, 4%)

Trò chơi

88 (97, 8%)

2 (2, 2%)

0 (0%)

Giải quyết
vấn đề

30 (33, 3%)

53 (58, 9%)

7 (7, 8%)

Sau khi phát phiếu hỏi cho 90 GV tôi nhận được kết quả tương đối
chính xác và khách quan. Theo đúng tinh thần đổi mới trong quá trình giảng

dạy GV đã sử dụng nhiều hơn phương pháp dạy học tích cực như: phương
pháp trò chơi (97, 8%), phương pháp tranh luận (74, 4%), phương pháp đónng
vai (44, 4%) hay dạy học giải quyết vấn đề (30%). Các phương pháp này phát
huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Bên cạnh đó các phương
pháp truyền thống như: hỏi đáp (100%), truyền đạt (100%), quan sát (94,
4%)... vẫn được sử dụng thường xuyên khiến HS thụ động, không rèn luyện
được nhiều kĩ năng khác nhau. Vì vậy, để chất lượng dạy và học được nâng
cao hơn GV cần kết hợp linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực
nhằm phát huy tối đa năng lực người học.
2.3.5.3. Thực trạng cơ sở vật chất dạy học trong môn Tự nhiên và Xã hội
Nội dung điều tra:
Quan sát và hỏi trực tiếp GV câu hỏi 4
A. Nhà trường có trang bị các thiết bị dạy học không?
B. Các thầy (cô) có làm các phương tiện dạy học thủ công không?
C. HS có chuẩn bị đồ dùng, phương tiện học tập được giao không?
D. Các thầy (cô) có ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học như thế
nào?
Kết quả điều tra


Từ quan sát thực tế và phỏng vấn 100% GV cho biết để phục vụ môn
học này các nhà trường đã có những trang thiết bị dạy học như: Các tranh ảnh
phóng to trong sách giáo khoa, các mô hình cơ thể con người, con vật gần gũi
với HS hay các đồ dùng cá nhân phục vụ trong các tiết thực hành, nhất là chủ
đề Con người và sức khỏe... để tiết học trở nên sinh động, thực tế hơn. Bên
cạnh đó nhiều GV còn tự tay làm những phương tiện vì HS lứa tuổi đầu Tiểu
học tư duy của các em là tư duy cụ thể, các em cần được làm việc trực tiếp
trên các sự vật thật. Và một loại phương tiện nữa do chính học sinh sưu tầm,
chuẩn bị ở nhà. Công việc này không chỉ phục vụ tiết học mà qua đó các em
được giáo dục sống có trách nhiệm, tự phục vụ bản thân. 85% GV ứng dụng

công nghệ thông tin trong các tiết học. Nhờ mạng internet với các video clip,
các đoạn phim ngắn, các hình ảnh động liên quan đến nội dung bài học đã
giúp mỗi tiết học Tự nhiên và Xã hội trở nên vui tươi, thực tế hơn.
2.3.5.4. Thực trạng thiết kế trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên
và Xã hội ở Tiểu học
Nội dung điều tra
Câu hỏi 5: Thầy (cô) hãy cho biết việc sử dụng và thiết kế trò chơi học
tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội (cho ý kiến bằng cách đánh dấu X)
NỘI DUNG ĐIỀU TRA
Thiết kế trò chơi là rất cần thiết
Thiết kế phương tiện, công cụ chơi
Trò chơi mang lại phản hồi tích cực
Tổ chức đủ các trò chơi trong sách in
Tự thiết kế và down trò chơi trên mạng
Gặp nhiều khó khăn trong việc thiết kế

CÓ KHÔNG

Ý KIẾN
KHÁC


trò chơi học tập
Cần có hệ thống trò chơi trong dạy học
môn Tự nhiên và Xã hội
Kết quả điều tra
Bảng 4: Vân đề sử dụng và thiết kế trò chơi học tập trong dạy học
môn Tự nhiên và Xã hội
NỘI DUNG ĐIỀU TRA




KHÔNG

(số lượng/tỉ lệ) (số lượng/tỉ lệ)

Ý

KIẾN

KHÁC(số
lượng/tỉ lệ)

Thiết kế trò chơi là rất cần 90 (100%)

0 (0%)

0 (0%)

85 (94, 4%)

0 (0%)

5 (5, 6%)

89 (98, 9%)

0 (0%)

1 (1, 1%)


73 (81, 1%)

27 (18, 9%)

0 (0%)

Down trò chơi trên mạng

67 (74, 4%)

15 (16, 7%)

8 (8, 9%)

Gặp nhiều khó khăn trong

45 (50%)

45 (50%)

0 (0%)

90 (100%)

0 (0%)

0 (0%)

thiết

Tự thiết kế trò chơi và
phương tiện, công cụ chơi
Trò chơi mang lại phản
hồi tích cực
Tổ chức đủ các trò chơi
trong sách in

việc thiết kế trò chơi học
tập
Cần có hệ thống trò chơi
trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội


×