Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Điều kiện tự nhiên đa dạng sinh học vqg cát bà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.05 KB, 17 trang )

1. Vị trí địa lý
Vườn Quốc gia Cát Bà có toạ độ địa lý:
Từ 20°44' - 20°52' vĩ độ Bắc.
Từ 106°59' - 107°06' Kinh độ Đông.
- Phía Đông, Đông Nam và Đông Bắc giáp vịnh Hạ Long được ngăn cách bởi
lạch Ngăn và lạch Đầu xuôi của tỉnh Quảng Ninh.
- Phía Tây và Tây Nam là cửa sông Bạch Đằng, sông Cấm và biển Hải Phòng Đồ Sơn.
2. Điều kiện tự nhiên
2.1. Địa hình
Đảo Cát Bà có độ cao phổ biến trong vùng là 100 m, những đỉnh có độ cao trên
200 m không nhiều, cao nhất có đỉnh Cao Vọng 322 m. Các đảo nhỏ có đầy đủ các
dạng địa hình của một miền Karst bị ngập nước biển. Nhìn chung Cát Bà có các kiểu
địa hình chính như sau:
- Kiểu địa hình núi đá vôi: Đây là vùng địa hình của một miền karst ngập nước
biển khá điển hình, bị quá trình karst chia cắt từ lâu đời thành các chóp, các đỉnh có
nhiều dáng vẻ khác nhau đã tạo nên địa hình muôn vẻ và cũng khá hiểm trở với nhiều
bề mặt lởm chởm đá tai mèo sắc nhọn. Địa hình lại dốc đứng, độ cao từ 100 m - 300
m. Trên vùng này, khả năng sinh trưởng và phát triển của thực vật diễn ra rất chậm
chạp và vô cùng khó khăn.
- Kiểu địa hình đồi đá phiến: Địa hình đồi đá phiến chiếm một diện tích khá
nhỏ. So với địa hình núi đá vôi thì địa hình đồi đá phiến mềm mại hơn nhiều, sườn
thoải, đỉnh tròn và thấp hơn núi đá vôi, khả năng sinh trưởng và phát triển của thực vật
cũng khả quan hơn.
- Kiểu địa hình thung lũng giữa núi: Thung lũng giữa núi là những vùng trũng
với nhiều hình dạng khác nhau thường kéo dài theo vỉa đá vôi và nối với nhau qua
sống đá thấp tạo thành máng trũng dài. Thung lũng trong vùng có dáng khá bằng
phẳng và được phủ bởi tàn tích của đá vôi. Như thung lũng Trung Trang, thung lũng
Việt Hải, thung lũng Khe Sâu... đất đai ở các thung nhìn chung khá tốt có thể sử dụng
trồng cây ăn quả, rau xanh và trồng các loài cây màu, lúa.
- Kiểu địa hình bồi tích ven biển: Đây là kiểu đồng bằng bồi tụ do sông, biển có
độ dốc tuyệt đối thấp, địa hình bằng phẳng và luôn chịu ảnh hưởng của nước mặn và


ngập triều thường xuyên hay gián đoạn theo con nước và độ cao địa hình. Vùng này là


nơi có điều kiện rất thuận lợi cho các loài cây rừng ngập mặn sinh trưởng và phát
triển.
2.2 Địa chất
Khu vực Cát Bà cũng như phần Đông Bắc Việt Nam có lịch sử phát triển địa
chất lâu dài, từng là một bộ phận của cấu trúc uốn nếp caledoni đánh dấu sự kết thúc
chế độ địa máng biển sâu Karstzia vào cuối kỷ Silua.
Các khối đá vôi này có tuổi trung bình là các bon muộn - pecmi (250 - 280 triệu
năm). Cấu tạo dạng khối, đôi khi phân tầng khá mỏng, màu xám hay xám trắng nằm
xen kẽ với đá vôi silic. Chúng có đầy đủ những dạng của một miền Karst ngập nước
biển, do tác động của nước mặt và nước ngầm đã tạo ra một hệ thống các hang động ở
các độ cao khác nhau (4 m, 15 m và 25 - 30 m). Do các hoạt động của sóng biển đã tạo
ra các ngấn sóng vỗ ở tất cả các chân đảo đá vôi vùng Cát Bà và các mái hiên mài mòn
dạng dài và hẹp bao quanh chân, có nơi gập ngấn sóng kép ở mức 3,5 - 4 m và 1,0 - 1,5
m. ở các vùng kín, sóng biển còn tạo ra các tích tụ cát rất sạch, bao quanh các đảo nhỏ.
Đó là các bãi tắm mini rất lý tưởng cho các dịch vụ du lịch tắm biển.
Về phía Bắc và Tây Bắc đảo Cát Bà còn có một diện tích khá lớn thành tạo đệ
tứ không phân chia (Q) tạo nên dạng đồng bằng ven biển, chúng được thành tạo do
phù sa sông biển. Lớp trầm tích phủ lên trên khá dày (> 2m), dưới sâu hơn là phù sa
hạt thô (độ sâu 5 - 10 m) chủ yếu là sỏi cuội và cát... Sát biển hơn (nơi hàng ngày chịu
ảnh hưởng của nước triều) có sú, vẹt, đước, trang, mắm, bần... mọc dầy đặc phủ kín
hầu hết diện tích này.
2.3. Thỗ Nhưỡng
Các xã trong và ngoài Vườn Quốc gia Cát Bà vì nền đá mẹ hầu hết là đá vôi
cùng với các điều kiện địa hình Karst và khí hậu nhiệt đới ẩm nên đã hình thành
những loại đất chính như sau:
Đất Feralit đỏ nâu phát triển trên đá vôi (Fv):
Đặc điểm: Đất màu đỏ nâu, cấu tạo hạt rất chắc, đất tốt, thiếu nước, đất có phản

ứng trung tính, ít chua và khá giàu mùn, tầng đất chỉ dày 30 - 40 cm. Phân bố trên
sườn ít dốc hay trong hốc đá vôi, có nhiều tại các xã Trân Châu, Gia Luận, Việt Hải
Đất Feralit nâu đỏ dốc tụ chân núi đá vôi (Tv).
Đặc điểm: được hình thành do sườn tích đất từ đỉnh và sườn núi trượt xuống.
Đất có màu vàng đỏ, thường ẩm, tầng dầy từ 50 - 100 m, có phản ứng trung tính, cấu
tượng viên hơi chặt, thành phần cơ giới nặng, giàu mùn, phù hợp cho các thảm thực
vật rừng phát triển. Phân bố hầu hết các xã trong quần đảo, đất thích hợp trồng cây ăn
quả như Cam, Quýt, Nhãn Vải.
Đất Feralit nâu vàng phát triển từ các sản phẩm phong hóa đá vôi dốc tụ hỗn hợp (Th):


Đặc điểm: Đất màu nâu vàng, có phản ứng trung bình, ít chua, giàu mùn,
thường bị khô hạn vào mùa khô, nơi thấp có thể bị úng nước tạm thời vào ngày mưa
lớn Phân bố ở các thung lũng rộng có nước chảy trên mặt như thung lũng Trung
Trang, Việt Hải, Gia Luận, Đồng Cỏ.... Đất này đã được sử dụng để trồng rừng, cây ăn
quả và hoa màu.
Đất dốc tụ thung lũng (Tl):
Được phân bố trong các thung lũng, giếng Karst. Đất có màu nâu đến vàng
nhạt, tầng dày 80 - 100 cm. Giàu mùn, có phản ứng trung tính đến chua. Mùa mưa có
thể bị ngập nước tạm thời, mùa khô thiếu nước. Một số diện tích đã được khai phá
trồng lúa và hoa màu.
Đất bồi chua mặn (Db ):
Đặc điểm: Đất này là loại đất hỗn hợp biển, đầm lầy ở bãi triều cao. Phân bố ở
xã Xuân Đám về phía biển, sau này được đắp đê ngăn mặn, cải tạo để cây lúa 1 - 2 vụ.
Đất mặn Sú vẹt (D 4 P 2 ):
Đặc điểm: Bùn lỏng, ảnh hưởng của thuỷ triều, rất mặn. Phân bố tập trung chủ
yếu vùng Cái Viềng, Phù Long và rải rác ở vài nơi quanh đảo (thuộc bãi triều thấp).
Tại đây hình thành rừng ngập mặn khá tốt và là hệ sinh thái độc đáo của đảo Cát Bà.
2.4. Khí hậu
Vườn Quốc gia Cát Bà ảnh hưởng chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa và chịu

ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu đại dương, có gió mùa Tây Nam về mùa hạ và gió
mùa Đông Bắc về mùa đông, ít khắc nghiệt hơn các vùng có cùng vĩ độ ở đất liền. Tuy
nhiên, do sự khác biệt về địa hình, và ảnh hưởng của biển, nhất là ảnh hưởng của các
yếu tố độ cao, hướng núi, thảm thực vật rừng mà chế độ khí hậu cũng có sự khác nhau
giữa các khu vực trong vùng.
2.5. Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm là: 23,6 0C. Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 7,
nhiệt độ trung bình từ 28 - 290C, cao nhất 320C. Tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng 1
nhiệt độ trung bình từ 16 - 170C, thấp nhất 100C, đôi khi xuống tới 50C. Mùa nóng bắt
đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Giữa hai mùa
chênh lệch từ 11 - 120C.
Tổng số ngày nắng trong năm dao động từ 150 đến 160 ngày, tháng cao nhất
có 188 giờ nắng (tháng 5, tháng 7).
2.6. Lượng mưa


Lượng mưa trung bình quân cả năm từ 1.500 - 2.000 mm/năm. Một năm có
hai mùa rõ rệt.
- Mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10): lượng mưa trong mùa này chiếm gần 8090 % tổng lượng mưa cả năm, tập trung vào các tháng 7, 8, 9.
- Mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau): đầu mùa khô thường hanh, cuối
mùa ẩm ướt và có mưa phùn (từ tháng 2 đến tháng 4).
Độ ẩm không khí trung bình cả năm là 86%, thấp nhất vào tháng 1 là 73%, cao
nhất tháng 4 đạt 91%. Lượng bốc hơi nước hàng năm khoảng 700mm, trong các tháng
khô hanh thường xảy ra khô hạn thiếu nước.
Sương mù thường xuất hiện vào mùa Đông và mùa xuân từ tháng 12 đến tháng
4 năm sau. Thời gian này còn có mưa phùn (20 - 40 ngày/năm) đã làm giảm đáng kể
chế độ khô hạn trong vùng.
2.7. Thủy văn
Cát Bà là quần đảo đá vôi, gần như hệ thống sông suối trên đảo không phát
triển. Những dòng chảy tạm thời chỉ xuất hiện trong cơn mưa và ngừng ngay sau khi

mưa. Vào mùa mưa, nước đọng lại ở một số vùng nhỏ, thấm dột trong những hang
động. Tuy rất ít, nhưng đây lại là nguồn nước khá thường xuyên cho động thực vật
trên đảo. Trên một số đảo nhỏ hoặc ven đảo lớn Cát Bà, nơi có nứt gãy kiến tạo chạy
qua có xuất hiện "nước xuất Lộ" với dung lượng từ vài lít đến vài chục lít mỗi ngày.
Nguồn nước xuất lộ lớn nhất ở suối Thuồng Luồng có lưu lượng trung bình 5 lít/s
(mùa mưa 7,5 lít/s), mùa khô 2,5 l/s). Cát Bà có các túi nước ngầm, nguồn gốc thấm
đọng từ nước mưa.
3. Đặc điểm kinh tế - xã hội
3.1 Dân số
Theo thống kê đến tháng 6-2015, dân số toàn huyện Cát Bà là 30.451 người
chiếm 1.6% dân số toàn thành phố Hải Phòng. Mật độ dân số trung bình toàn huyện là
89 người/km2. Số người trong độ tuổi lao động hiện nay là 15.000 người. Đây là yếu
tố quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở Cát Bà. Tuy nhiên vấn
đề giải quyết việc làm cho người thất nghiệp cần được quan tâm và tìm ra hướng giải
quyết nhanh chóng. Dân số vùng đệm VQG Cát Bà khaongr 10.500 người. Có khoảng
80 hộ dân với hơn 300 nhân khảu sống tại vùng lõi VQG thuộc xã Việt Hải
Dân cư chủ yếu là người Kinh. Người dân Cát Bà rất thân thiện chân chất và
hiếu khách. Phong cách phục vụ ở đây rất văn minh và dễ chịu. Các dịch vụ xe ôm, cho
thuê ván trượt, bán quà lưu niệm... giá rất rẻ và không có biểu hiện chèo kéo khách.


Phong tục tập quán và nếp sống: Thị trấn Cát Bà được chia thành các tiểu khu
và tổ dân phố, đây là cách phân chia địa giới hành chính để quản lý của thời kỳ trước.
Dân cư ở Cát Bà cũng có những phong tục, lễ hội giống như cộng đồng người Kinh ở
nơi khác, ngoài ra ở Cát Bà còn có thêm một lễ hội tổ chức vào ngày 1- 4 hằng năm là
lễ hội khai trương mùa du lịch, cũng chính là ngày hội truyền thống hàng năm của
người dân chài làng cá ở huyện đảo Cát Hải.
Lịch sử - Văn hóa: Những phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học đã bước đầu
cho thấy được những nét cơ bản của quá trình phát triển của con người cư trú và sinh
sống ở Vườn Quốc gia Cát Bà. Đó là nguồn tài nguyên văn hoá lâu đời tôn thêm giá

trị to lớn cho việc xây dựng Vườn Quốc gia Cát Bà. Những dấu tích cư trú và hoạt
động của con người thuộc thời kỳ tiểu sử trên đảo tuy phát hiện chưa được nhiều
nhưng tiêu biểu cho các giai đoạn phát triển của con người từ khoảng 7000 năm đến
4000 năm trước đây trên vùng ven biển Đông Bắc nước ta.
Đầu tiên, người ta đã phát hiện ra các di sản của người dân cư trú trong các
hang động như hang Đục, hang Eo Bùa. Trong các hang động này đã tích đầy những
vỏ ốc của con người bắt về ăn, lẫn vào đó là những hòn kê, hòn đập, hòn nghiền...
bằng đá, rùi mài, một số dụng cụ dùng đun nấu bằng đất nung.
Ngoài di cốt động vật biển, các thành phần vật chất khác trong tầng văn hoá
này cũng có nguồn gốc từ biển. Rõ ràng con người ở đây đã sống và hoạt động trong
một môi trường có biển và đất ở Vườn Quốc gia Cát Bà. Đảo đã tách khỏi lục địa và
trở thành hòn đảo lớn nhất của vùng biển Đông nước ta.
Ngoài ra ở Vườn Quốc gia Cát Bà còn ghi lại nhiều chiến công lịch sử trong
công cuộc kháng chiến chống pháp, chống Mĩ như truyền thuyết “bảy ngày ba bão”
hay nguồn gốc tên đảo Cát Bà xuất phát từ Các Bà tương truyền rằng trong cuộc chiến
chống giặc ngoại xâm các Ông ở đảo tuyến trước để chiến đấu nay vẫn gọi là đảo Các
Ông, Các Bà ở tuyến sau lo hậu cần nên gọi là đảo Các Bà.
Nhìn chung, đảo Cát Bà ghi lại nhiều lịch sử vẻ vang của cư dân sinh sống nơi
đây, có nhiều tập tục, văn hoá khác nhau là một trong những yếu tố quan trọng để du
khách mở rộng tầm hiểu biết, cũng như được hoà mình vào các hoạt động văn hoá nơi
đây.
3.1 Sản xuất nông nghiệp
Các xã trên đảo Cát Bà có diện tích đất nông nghiệp không quá 200 ha. Do Cát
Bà có địa hình là núi đá vôi nên phần lớn là thiếu nước bề mặt. Chỉ có một số nơi lộ ra
nước bề mặt như suối Trung Trang, suối Treo Cơm ở đồng cỏ (khe sâu), suối Tiền Đức


(Việt Hải), suối Thuồng luồng (Trân Châu). Tuy nhiên, những nguồn nước trên chỉ
đáp ứng được 1/3 diện tích đất nông nghiệp. Đất trồng lúa đa số là lúa một vụ, sản
lượng không cao. Do vậy lương thực không đáp ứng đủ nhu cầu cho nhân dân các xã

nông nghiệp cũng như cư dân sống trên đảo.
Do điều kiện tự nhiên khác nhau trên đảo nên mỗi khu vực tạo ra các mô hình
kinh tế riêng biệt cho từng khu vực. Ví dụ như ở Gia Luận diện tích lúa nước không
có mà chủ yếu là vườn đất vườn trồng vải thiều, trồng cam giấy, hay trồng các cây
màu và cây lương thực khác,... Ở xã Trân Châu vườn chủ yếu là cây bồ kết, phát triển
tốt và có giá trị xuất khẩu; Ở khu vực khe sâu, Trung Trang đang chủ trương phát triển
các vườn cây ăn quả như: vải thiều, na... để tăng nguồn thu nhập cho hộ gia đình.
3.2 Kinh tế rừng
Rừng trồng: Thông nhựa phân bố nhiều ở xã Hiền Hào, Bạch đàn, Keo chủ yếu
ở Trung Trang: Phi lao, Xoan, Tre nứa. Sa mộc, Tre nứa. Bên cạnh đó rừng còn cung
cấp cho khu dân cư một lượng lâm sản ngoài gỗ giúp cải thiện đời sống người dân, và
một điều nhận thấy rõ ràng nhất đó chính là môi trường sống của người dân khu vực
gần rừng trong lành và thoáng đãng. Hiện nay công tác điều tra quy hoạch được thực
hiện tốt; hàng năm các hộ gia đình cũng có tổ chức trồng rừng bên cạnh đó phối hợp
cùng các cơ quan chức năng để bảo vệ tài nguyên rừng. Trong những năm qua toàn
đảo Cát Bà nạn phá rừng dần dần được hạn chế.
3.3. Thủy sản
Về nuôi trồng thuỷ sản các xã đều đạt 100% và vượt chỉ tiêu năm, bên cạnh đó
cũng đã áp dụng nuôi tôm sú và cá rô phi đơn tính theo hướng quảng canh, cải tiến
phát triển mạnh. Tuy nhiên, cơ bản các hoạt động nuôi trồng và khai thác thuỷ sản vẫn
tập trung để phục vụ nhu cầu người dân địa phương và khách du lịch. Các hộ nuôi
trồng thuỷ sản trên địa bàn chấp hành tốt các quy định của địa phương và neo đậu bè
đúng quy định. Trong quá trình đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản còn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt về vốn và khoa học kĩ thụât chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản
xuất, các dự án vươn ra ngư trường giải quyết chậm. Trong năm 2012 sản lượng và
diện tích nuôi trồng thuỷ sản còn đạt thấp do dịch bệnh, ô nhiễm nguồn nước và ảnh
hưởng của cơn bão số 8.
Hoạt động khai thác thúy sản chủ yếu là nuôi trồng nhân tạo. Bên cạnh những
hiệu quả mà nuôi trồng nhân tạo mang lại thì những tác động từ mặt trái của nghề này
đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái biển và

ảnh hưởng đến tiềm năng du lịch biển Cát Bà, đó là nguy cơ ô nhiễm môi trường - hệ
luỵ từ nghề nuôi cá lồng bè.


Lĩnh vực chế biến Thuỷ sản bước đầu phát triển với nhiều cơ sở thu mua và chế
biến. Tuy nhiên, quy mô còn nhỏ, nên chưa thực sự mang lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn.
3.5 Dịch vụ
Hàng năm Vườn Quốc gia đón một lượng khách không nhỏ đến tham quan,
nghiên cứu với các hoạt động du lịch sinh thái chính của khách thường là tham quan
các tuyến du lịch sinh thái rừng, hang động, đi thuyền, thăm quan, nghiên cứu vườn,
kết hợp thăm vịnh.
Mặc dù lượng du khách đến tham quan Vườn quốc gia trong những năm qua
tương đối đông và ngày càng có xu hướng tăng lên, nhưng theo các số liệu thống kê
khách du lịch của Vườn và Phòng Văn hóa - Thể thao - Du lịch Cát Bà thì lượng
khách đến tham quan Vườn còn quá ít so với lượng khách đến khu vực Cát Bà.
4. Đa dạng sinh học của VQG Cát Bà
4.1 Khu hệ thực vật
4.1.1 Thành phần loài
Từ các nguồn tài liệu nghiên cứu trước đây, đến nay đã ghi nhận được tại Vườn
Quốc gia Cát Bà 1.585 loài, thuộc 850 chi, 187 họ, 5 ngành thực vật. Trong đó bao
gồm cả một số loài thực vật nông nghiệp gây trồng phổ biến (245 loài) như: Cà pháo
Capsicum undatum, Khoai lang Ipomoea balatas, Rau muống Ipomoea aquatica, Sắn
Manihot esculenta, Lúa Oryza sativa, Ớt Capsicum frutescens,... cùng một số loài cây
rừng được đem về gây trồng thuộc nhiều vùng sinh thái khác nhau như: Sao đen
Hopea odorata, Dầu con rái Dipterocarpus alatus, Dầu song nàng D. dyeri, Dầu trà
beng D. obtusifolius, Chò chỉ Shorea chinensis thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae), Du
sam Keteleeria evelyniana, Thông caribe Pinus caribaea, Thông nhựa P. merkusssii
họ Thông (Pinaceae), Móng bò hoa tím Bauhinia purpurea, Hoa ban Bauhinia
variegata, Cà te Afzelia xylocarpa họ Vang (Caesalpiniaceae), Quỳnh Epiphyllum
oxypetalum, Càng cua Zygocactus truncatus thuộc họ Xương rồng (Cactaceae), Tràm

bông đỏ Callistemon citrinus, các loài Bạch đàn Eucalyptus spp.
Ngành thực vật

Số họ

Số chi

Số loài

Thạch tùng (Lycopodiophyta)

2

3

6

Tháp bút (Equisetophyta)

1

1

1

Dương xỉ (Polypodiophyta)

16

32


63

Thông (Pinophyta)

6

14

24

162

800

1.491

Hạt kín (Angiospermae)


- Lớp Ngọc lan (Magnoliopsida)

130

666

1.258

- Lớp Hành (Liliopsida)


32

134

233

187

850

1.585

Tổng số

Bảng 1: Thành phần loài khu hệ thực vật Vườn Quốc gia Cát Bà
4.1.2. Cấu trúc thành phần loài
Trong tổng số 7 ngành, 284 họ thực vật có mạch được xác định phân bố ở Việt
Nam, thì đã ghi nhận được 5 ngành, chiếm 71,43% về số ngành và 187 họ, chiếm
65,85% về số họ. Ngành có số lượng cá thể đóng vai trò chủ đạo trong cấu trúc hệ thống
thực vật Cát Bà thuộc về Ngành Mộc lan - Magnoliophyta 1494 loài và chiếm 94,08%
tổng số loài ghi nhận được trong khu hệ thực vật Ngọc Linh, đứng ở vị trí thứ hai thuộc
về Ngành Dương xỉ - Polypodiophyta 63 loài chiếm 3,97% kế tiếp Ngành Thông Pinophyta 24 loài chiếm 1,51%, Thông đất - Lycopodiophyta 6 loài chiếm 0,38% và và
còn lại là ngành Tháp bút – Equisetophyta chỉ có 1 loài chiếm 0,06%.
4.1.3 Sự đa dạng loài, chi và họ thực vật
Trong số 187 họ thực vật đã được ghi nhận tại Cát Bà có tới 47 họ có 10 loài
trở lên. Họ thực vật có số loài lớn nhất là họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae) có 81 loài
chiếm 5,1% tổng số loài của hệ thực vật, tức không có họ nào chiếm tới 10% tổng số
loài của hệ thực vật. Mặt khác, tổng số loài của mười họ có số loài nhiều nhất là 517
loài chiếm 32,5% tổng số loài của cả hệ thực vật (<40%). Như vậy, theo Tolmachop A.
L. (1974) thì Vườn Quốc gia Cát Bà có thành phần loài thực vật rất đa dạng.

Mười chi có số loài lớn nhất chiếm 119 loài, chiếm tỷ lệ 14% tổng số chi, rõ
ràng, 10 chi này chưa phải chưa phải là đại diện ưu thế cho các chi trong VQG Cát Bà,
điều đó lại khẳng định tính đa dạng về chi của rừng.
Đối với họ thực vật, có hai chỉ tiêu chính đánh giá đa dạng họ thực vật là: (1)
Tổng số các họ có số loài lơn hơn số loài trung bình của các họ chiếm không quá 40%
tổng số các họ thực vật. (2) có nhiều họ có 1 đến 2 loài, chiếm 10% - 20% tổng số họ.
Trong khu Cát Bà có 187 họ thực vật với tổng số 1585 loài, mỗi họ có số loài
trung bình = 8,5. Từ bảng trên ta thấy số họ có số loài lớn hơn 8,5 tức có từ 9 loài trở
lên là 53 họ chiếm 28,3% tổng số họ thực vật của hệ thực vật (<40%). Mặt khác, tổng
số họ thực vật có 1 đến 2 loài có 67 họ chiếm 35%, điều đó chứng tỏ hệ thực vật ở
đây cũng rất đa dạng về các họ thực vật.


TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Tên họ thực vật
Số loài
Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae)
81
Cỏ (Poaceae)

78
Đậu (Fabaceae)
73
Cà phê (Rubiaceae)
59
Dâu tằm (Moraceae)
43
Vang (Caesalpiniaceae)
42
Long não (Lauraceae)
40
Cúc (Asteraceae)
40
Cam (Rutaceae)
31
Xoan (Meliaceae)
30
Số loài 10 họ giầu loài nhất
517
Bảng 2: Các họ thực vật có số loài lớn nhất trong Vườn Quốc gia Cát Bà
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

10

Tên chi thực vật
Ficus (Moraceae)
Bauhinia (Caesalpiniaceae)
Ardisia (Myrsinaceae)
Symplocos (Symplocaceae)
Castanopsis (Fagaceae)
Lithocarpus (Fagaceae)
Bambusa (Poaceae)
Ormosia (Fabaceae)
Cinnamomum (Lauraraceae)
Elaeocarpus (Elaeocarpaceae)
số loài của 10 chi nhiều loài nhất

Số loài
30
11
11
11
10
10
10
9
9
8
119 loài

Bảng 3: Chi thực vật có số loài nhiều nhất trong Vườn Quốc gia Cát Bà
Họ

Cỏ roi ngựa (Verbenaceae)
Na (Annonaceae)
Trinh nữ (Mimosaceae)
Dẻ (Fagaceae)
Ráy (Araceae)
Hoa môi (Lamiaceae)
Trôm (Sterculiaceae)
Chè (Theaceae)
Trâm (Myrtaceaea)
Hoa hồng (Rotaceae)
Trúc đào (Apocynaceae)
Bồ hòn (Sapindaceae)
Đơn nem (Myrsinaceae)
Xoài (Anacardiaceaea)

Loài
29
28
27
26
24
20
20
20
19
19
19
18
17
17


Họ
Mộc lan (Magnoliaceae)
Dầu (Dipterocarpaceae)
Cói (Cyperaceae)
Gừng (Zingiberaceae)
Nho (Vitaceae)
Dung (Symplocaceae)
Cà (Solanaceae)
Dây gối (Celastraceae)
Rau răm (Polygonaceae)
Đay (Tiliaceae)
Chùm ớt (Bignoniaceae)
Ô rô (Acanthaceae)
Mạch môn (Convallariaceae)
Ráng (Polypodiaceae)

Loài
12
12
12
11
11
11
11
11
10
10
10
10

10
10


Cau dừa (Arecaceae)
Bông (Bobacaceae)
Bầu bí (Cucurbitaceae)
Lan (Orchidaceae)
Ngũ gia bì (Araliaceae)
Hoa mõm chó (Scrophulariaceae)
Thiên lý (Asclepiadaceae)
Bìm bìm (Convolvulaceae)

17
16
15
15
14
14
13
13

Tiết dê (Menispermaceae)
Rau rền (Amaranthaceae)
Hoa tán (Apiaceae)
Côm (Elaeocarpaceae)
Nhài (Oleaceae)
Táo ta (Rhamnaceae)
Đước (Rhizophoraceae)


10
9
9
9
9
9
9

Bảng 4: Họ thực vật Vườn Quốc gia Cát Bà có số loài lớn hơn số loài trung bình
4.1.4. Giá trị khoa học của hệ thực vật
- Thực vật quý hiếm có phân bố ở Cát Bà
Trong số các loài thực vật đã thống kê được thì thực vật quý hiếm trong sách
đỏ Việt Nam (2007), Sách đỏ thế giới, Nghị định 32/2006/NĐ-CP có phân bố ở Cát Bà
có đến 57 loài chiếm 3,59% tổng số loài đã ghi nhận được ở khu hệ thực vật. Trong
đó, thực quý hiếm trong sách đỏ Việt Nam 2007 là 43 loài chiếm 2,71% tổng số loài
đã ghi nhận được ở khu hệ thực vật , Sách đỏ thế giới (IUCN 2009 Red List of
Threatened Plants) có 16 loài chiếm 1,01%, Nghị định 32/2006/NĐ-CP có 11 loài
chiếm 0,69%.
Qua số liệu trên cho thấy ở xuất hiện một số lượng đáng kể các loài thực vật
nguy cấp, quý hiếm của Việt Nam và thế giới cũng như đặc hữu. Điều này chỉ ra rằng,
về mục tiêu bảo vệ thực vật, Cát Bà xứng đáng là một Vườn Quốc Gia có giá trị cao
về đa dạng thực vật trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của nước ta.
- Thực vật quý hiếm được đưa từ nơi khác về gây trồng
Trong số 81 loài thực vật nguy cấp, quý hiếm được thống kê cho Vườn quốc
gia Cát Bà, có 24 loài được đưa từ nơi khác về gây trồng, bảo tồn. Tuy nhiên tại đây,
có hai loài sinh trưởng và phát triển rất tốt là: Sưa - Dalbergia tonkinensis và Lim
xanh - Erythrophleum fordii, nhưng có loài sinh trưởng và phát triển kém như là: Bách
xanh - Calocedrus macrolepis
4.1.5 Thực vật rừng ngập mặn
Cùng với rừng trên núi đá vôi, rừng ngập mặn là một tài nguyên quý giá tại đảo

Cát Bà. Hệ sinh thái rừng ngập mặn của Cát Bà đã tạo nên nét đặc biệt cho Vườn quốc
gia Cát Bà so với nhiều Vườn quốc gia khác. VQG Cát Bà thống kê được 30 loài thực
vật ngập mặn ở đây chiếm 1,45% tổng số loài của Vườn Quốc gia (xem chi tiết phụ
lục 4). Các loài thực vật ngập mặn ở đây bao gồm: Loài cây ngập mặn thực thụ, loài
cây tham gia rừng ngập mặn; Các loài cây còn lại là những loài nội địa, phát tán ra


vùng ven biển, sống ở nơi đất ít bị nhiễm mặn (bờ đê, bờ đầm). Họ có số lượng loài
cây rừng ngập mặn nhiều nhất ở đây là họ Đước (Rhizophoraceae) với 9 loài, trong đó
có những loài là thành phần chính ở đây như là: Trang - Kandelia candel; Vẹt dù Bruguiera gymnorhiza; Đước - Rhizophora apiculata. Một số diện tích rừng ngập
mặn ở đây đang được kết hợp với nuôi trồng thủy sản, vì vậy cần có những biện pháp
bảo vệ và cơ chế để tránh những tác động bất lợi tới hệ sinh thái quan trọng này.
4.2. Khu hệ động vật
Dựa trên các dữ liệu nghiên cứu trước đã thống kê được 343 loài động vật có
xương sống cở cạn.
Lớp
Thú
Chim
Bò sát
Ếch nhái
Cộng

Số bộ

Số họ

Số loài

9
19

17
51
2
14
1
7
29
91
Bảng 6. Thành phần loài động vật ghi nhận tại VQG Cát Bà

58
205
55
25
343

4.2.1 Khu hệ thú
Thú Cát Bà đã được ghi nhận 58 loài. Tuy về các bậc phân loại cao, khu hệ Thú Cát Bà tương
đối phong phú, nhưng ở cấp loài lại nghèo. Song yếu tố đặc hữu của khu hệ Thú Cát Bà lại đáng được
chú ý. Đó là có loài Voọc Cát Bà (Trachypithecus poliocephalus) chỉ phân bố ở Cát Bà.
Về phân bố số loài theo các bộ: Các bộ thú có giá trị như bộ Linh trưởng, bộ Ăn thịt, bộ
Móng guốc chẵn có số lượng loài khá nghèo nàn. Các bộ Dơi và Gặm nhấm có số loài đa dạng nhất.
Các bộ kém đa dạng nhất là: bộ Ăn sâu bọ, Nhiều răng và Móng guốc chẵn, mỗi bộ chỉ có 1 họ, 1
loài.

TT

Tên bộ

Tên phổ thông

Tên khoa học
1
Bộ Ăn sâu bọ
Insectivora
2
Bộ Nhiều răng
Scandenta
3
Bộ Dơi
Chiroptera
4
Bộ Linh trưởng
Primates
5
Bộ Ăn thịt
Carnivora
6
Bộ Guốc chẵn
Artiodactyla
7
Bộ Gặm nhấm
Rodentia
Tổng
Bảng 7: Tổng hợp đa dạng loài thú
4.2.2. Khu hệ chim

Số họ

Số loài


1
1
6
1
4
1
5
19

1
1
23
2
11
1
19
58

Theo các điều tra trước, VQG Cát Bà ghi nhận có 205 loài chim chiếm 24,8% ;
thuộc 51 họ chiếm 63% và 17 bộ chiếm 89,5% so với tài nguyên chim cả nước.


Hầu hết quần thể của các loài chim ở Cát Bà đều có mật độ thấp. Một số loài
chim lớn, thường xuyên gặp và đặc trưng cho Cát Bà là: Diều hâu (Milvus migrans)
và quạ đen (Corvus macrorhynchus). Các loài đặc trưng cho sinh cảnh bị thoái hoá là:
Chào mào, Chiền chiện bụng hung và chim manh. Loài diệc đen (Egretta sacra)
thường gặp ở dọc bờ biển, đây là loài đặc trưng cho hệ sinh thái đảo.
Về phân bố số loài theo các bộ: bộ Sẻ có số họ và loài đa dạng nhất, 25 họ
(30.8% tổng số họ), 116 loài (chiếm 56,6% tổng số loài). Đây cũng là tính chất chung
của khu hệ chim Việt Nam, vì bộ Sẻ có số lượng họ, loài đông nhất và gồm phần lớn

là các loài chim nhỏ, dễ thích nghi với dạng sinh cảnh bị tác động. Tiếp theo là bộ Rẽ
có 4 họ, 16 loài; bộ Cò 1 họ, 14 loài, bộ Cắt 3 họ, 11 loài. Các bộ có số loài trung
bình: bộ sả (có 9 loài), bộ Sếu và Cu cu (có 8 loài). Các bộ kém đa dạng nhất là: bộ
Chim lặn, Hải âu, Gà và Cú muỗi mỗi bộ chỉ có 1 họ, 1 loài.
4.2.3. Khu hệ bò sát
VQG Cát Bà ghi nhận có 55 loài Bò sát chiếm 11,3%; thuộc 14 họ chiếm
60,9% và 2 bộ chiếm 66,66% so với tài nguyên bò sát cả nước.
Về phân bố số loài theo các bộ, họ: bộ Có vẩy có số họ và loài đa dạng nhất 12
họ, 53 loài (chiếm 96,4% tổng số loài). Bộ Rùa có 2 họ, 2 loài.
Trong các họ, họ Rắn nước có số loài nhiều nhất, 19 loài (chiếm 34,5%). Các
họ có số loài trung bình là: họ Thằn lằn bóng (8 loài), họ Tắc kè, họ Rắn hổ, họ Rắn
lục mỗi họ 5 loài. Họ Thằn lằn giun, họ Vích, họ Thằn lằn thực, họ Rắn giun, họ
Trăn, họ Rùa đầm, họ Kỳ đà mỗi họ 1 loài. Yếu tố đặc hữu có loài Tắc kè Cát Bà.
4.3 Tài nguyên sinh vật biển
- Thành phần Rong Biển: VQG Cát Bà đã xác định được 102 loài rong biển
thuộc 4 ngành, 35 họ và 56 chi. Trong đó ngành Rong lam có 6 họ, 8 chi và 8 loài;
ngành Rong nâu: 5 họ, 11 chi và 30 loài ; ngành Rong đỏ 17 họ, 28 chi và 45 loài và
ngành Rong lục: 7 họ, 9 chi và 19 loài. Một số loài rong biển có giá trị kinh tế: Rong
đại bò Codium repens, Rong guột nho Caulerpa racemosa, Rong đá cong Gelidiella
acerosa, Rong mơ mềm Sargassum tenerrimum, Rong chủn dẹp Grateloupia livida.
Rong biển tại vùng biển Cát Bà thường phát triển vào thời kỳ từ tháng 11 dến tháng 4
năm sau, thời gian còn lại hầu như không có rong biển phân bố
- Thành phần loài cá biển: VQG Cát Bà đã xác định được 196 loài, thuộc 66 họ
Trong số đó chỉ có 5 họ có số loài tương đối cao, gồm họ cá Nục (Carangidae) với 9
loài; họ cá Liệt (Leiognathidae) - 8 loài; họ cá Đù (Sciaenidae) - 7 loài; họ cá Bàng
chài (Labridae) - 6 loài; họ cá Bống (Gobiidae) - 5 loài; các họ còn lại có số loài từ 1 -


4 loài/họ
- Thành phần loài thực vật phù du: VQG Cát Bà đã xác định được 400 loài và

dưới loài. Chiếm ưu thế là lớp tảo Silic (Bacillariophyceae) có 222 loài, 59 chi; tiếp đó
là lớp tảo Giáp (Dinophyceae) gặp 164 loài, 36 chi; Lớp tảo Kim (Dictyochophyceae)
gặp 3 loài, 2 chi và lớp tảo Lam (Cynophyceae) gặp 4 loài, 3 chi; lớp Chroococceae có
1 loài và 1 chi; Tảo lục (Chlorophyceae): 5 loài và 3 chi; lớp Conjugatophyceae: 1 loài
và 1 chi.
- Thành phần loài Động vật phù du: VQG Cát Bà đã xác định được 131 loài
động vật phù du thuộc 60 giống, 47 họ, 10 bộ, 7 lớp và 7 ngành. Thành phần loài động
vật phù du thể hiện tính đa dạng sinh thái cao, bao gồm nhiều khu hệ khác nhau:
Nhóm loài biển khơi phân bố rộng: bắt gặp với tần suất lớn: Evadne tergestina,
Paracalanus aculeatus, Acartia clausi, Sagitta enflata, Creseis virgula, Oikopleura
rufescens v.v.
Nhóm loài biển khơi điển hình: Undinula vulgaris, Nannocalanus minor,
Eucalanus attenuatus, Eucalanus crassus, Pontellopsis tenuicauda v.v.
Nhóm loài nước nhạt ven bờ: xuất hiện với số lượng đáng kể như Centropages
furcatus, Temora discaudata, Labidocera minuta…v.v
Nhóm loài nước lợ điển hình: Schmackeria dubia, Pseudodiaptomus marinus,
P. incisus, Acartiella sinensis v.v ít khi xuất hiện với số lượng thấp.
Nhóm loài nước ấm ôn đới: đây là những loài ngẫu nhiên có mặt trong vùng
biển do dòng hải lưu từ vùng biển phía bắc biển Đông đưa xuống phía nam với số loài
và số lượng đều ít. Một số loài nước ấm ôn đới đã bắt gặp là: Calanus sinicus,
Centropages mcmurrichi, Pontella spinicauda…
- Thành phần loài động vật đáy: Cho đến nay hiện biết 658 loài động vật đáy
thuộc 146. Các loài động vật đáy điển hình và có giá trị cao như Trai ngọc (Pinctada
martensii), Bàn mai (Pinna antenuata, Pinna atropurpurea), ốc Nón (Trochus
maculatus, T. pyramis), họ ốc Sứ (Cypreidae), họ Cua bơi (Portunidae), họ Tôm he
(Peneidae), Sao biển (Astropecten polycanthus, A. monocanthus), Bọt biển (Tethya
seychellensis, Biemna cf. Megalosigma,Haliclona subarmigera, Xestospongia cf.
Testudinaria, Dysidea cinerea.
- San Hô: Cho đến nay đã phát hiện được ở vùng biển Cát Bà – Long Châu 177
loài thuộc lớp san hô. Trong đó bộ san hô cứng Scleractinia 166 loài, thuộc 49 giống,

15 họ và 11 loài san hô khác thuộc các bộ san hô bò Stolonifera, san hô mềm


Alcyonaria, san hô sừng Gorgonacea.
5. Thực trạng quản lý công tác bảo tồn, quản lý đa dạng sinh học
5.1 Chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của VQG Cát Bà
Vườn quốc gia Cát Bà là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Hải Phòng. Vườn có chức năng bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn
các nguồn gen động, thực vật rừng, biển quý hiếm. Đồng thời kết hợp phát triển du
lịch sinh thái, mở rộng các dịch vụ vui chơi, giải trí, tuyên truyền, giáo dục môi
trường.
Cơ cấu tổ chức bộ máy

Ban
Giám đốc

Phòng

Phòng

Phòng

Phòng

Hạt

Trung tâm

Bảo tồn biển, đất ngập nước
Tổ chức hành chính Kiểm lâm Dịch vụ DLST và GDMT

Khoa học và HTQT
Kế hoạch tài chính

Những năm gần đây công tác tổ chức đã áp dụng các tiến bộ công nghệ thông
tin vào việc quản lý văn bản, hồ sơ thông qua các phần
mềm,
cáclâm
thông tin cần thiết
Các Trạm
kiểm
được đăng tải trên cổng thông tin điện tử của Vườn,… thực hiện tốt việc quản lý hồ
sơ, sổ sách, văn bản đến, văn bản đi và các giấy tờ liên quan đến cán bộ, công chức.
Tổ chức và sắp xếp công việc hợp lý cho 83 cán bộ trong biên chế và 10 lao động hợp
đồng. Đánh giá, sắp xếp, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, luân chuyển cán bộ, viên
chức đã được thực hiện tốt, hợp lý và khai thác tối đa được thế mạnh, sở trường của
người lao động, góp phần vào việc hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn cũng như
nhiệm vụ chính trị của phòng ban, đơn vị.
Với cơ cấu tổ chức bộ máy của Vườn cơ bản đã đáp ứng được trình độ chuyên
môn và phù hợp với các vị trí công tác. Tuy nhiên việc bố trí sắp xếp vào các vị trí làm
việc so với tổng số phòng ban chuyên môn, chức năng, nhiệm vụ và biên chế thực tế
như hiện nay được giao còn thiếu, chưa đáp ứng được được yêu cầu nhiệm vụ của đơn
vị.
5.2 Văn bản chính sách
Về chính sách, hàng năm VQG Cát Bà bám sát chương trình kế hoạch trong
việc thực hiện bảo tồn đa dạng sinh học. Xây dựng các chính sách quan trọng nhằm
tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý đa dạng sinh học như:


Quyết định số 79-CP ngày 31/3/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Thủ tướng Chính phủ) về việc thành lập Vườn Quốc gia Cát Bà;

- Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg ngày 17/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chiến lược Quản lý hệ thống các khu Bảo tồn thiên nhiên Việt Nam;
- Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của Chính phủ về bảo tồn và
phát triển bền vững các vùng đất ngập nước;
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004;
- Quyết định số 62/2005/QĐ-BNN ngày 12/10/2005 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Quy định về tiêu chí phân loại rừng đặc
dụng;
- Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng;
- Quyết định số 2355/QĐ-UBND ngày 30/10/2006 của Uỷ ban nhân dân thành
phố Hải Phòng về việc phê duyệt Dự án điều tra quy hoạch Vườn quốc gia Cát Bà
thành phố Hải Phòng giai đoạn 2006 - 2010, tầm nhìn 2020;
- Quyết định số 492/QĐ-UBND ngày 24/3/2009 của Ủy ban nhân dân thành
phố Hải Phòng ngày 24/3/2009 về việc cho phép thành lập Trung tâm Dịch vụ, du
lịch sinh thái và Giáo dục môi trường trực thuộc Vườn Quốc gia Cát Bà;
- Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 26/05/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020;
- Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày 09/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020;
Thông tư liên tịch số 62/2012TTLT-BNNPTNT-BTC ngày 16/11/2012 giữa Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài chính về hướng dẫn cơ chế quản lý sử
dụng tiền chi trả dịch vụ môi trường;
- Quyết định số 1250/QĐ-TTg ngày 31/7/2013 của Thủ tướng vê việc phê
duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030;
- Quyết định số 1600/QĐ-UBND ngày 21/8/2013 của Ủy ban nhân dân thành
phố Hải Phòng, về việc phê duyệt Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng thành phố Hải
Phòng đến năm 2020;



- Thông tư số 10/2014/TT-BNNPTNT ngày 23/6/11/2013 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Quy định về tiêu chí xác định vùng đệm của khu rừng đặc
dụng và vành đai bảo vệ của khu bảo tồn biển;
5.3 Nguồn tài chính cho công tác bảo tồn, quản lý đa dạng sinh học
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Trong thời gian qua, đã được đầu tư nhiều
cho hoạt động bảo tồn, quản lý đa dạng sinh học VQG Cát Bà. Trong đó nguồn vốn từ
ngân sách trung ương là chính. Các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hiện mới chỉ
đáp ứng được một phần công tác bảo tồn cũng như phát triển du lịch sinh thái. Điều
này không chỉ là hạn chế của riêng của Vườn Quốc gia Cát Bà mà còn là của hầu hết
các Vườn Quốc gia và khu BTTN ở Việt Nam.
Hiện nay, Vườn Quốc gia Cát Bà đang tiến hành phối hợp với các tổ chức, các
nhà đầu tư bước đầu nghiên cứu, triển khai nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ thuật, nâng cao năng lực quản lý bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng địa
phương và các dự án về bảo vệ môi trường…nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn
và phát triển du lịch sinh thái trong giai đoạn tiếp theo.
Nguồn vốn từ các dự án nước ngoài:
Chương trình phát triển tổng hợp cho việc bảo tồn Đa dạng sinh học loài Voọc
Cát Bà, Việt Nam giai đoạn 2 và giai đoạn 3 do quỹ Ôxtrâylia vì nhân dân Châu Á
Thái Bình Dương tài trợ nhằm mục tiêu Bảo tồn môi trường sống nguyên vẹn và an
toàn cho sự phát triển số lượng cá thể Voọc hiện đang có trên đảo Cát Bà và góp phần
Bảo tồn đa dạng sinh học chung trên đảo Cát Bà
Dự án Bảo tồn Vườn quốc gia Cát Bà do Hiệp hội động vật về bảo tồn loài và
tổng thể thuộc thành phố Munich - Cộng hoà Liên bang Đức tài trợ nhằm mục tiêu Bảo
tồn Voọc Cát bà, Thành lập khu bảo vệ nghiêm ngặt, nghiên cứu đặc điểm sinh thái.
Dự án Nâng cao sức đề kháng và hồi phục trước biến đổi khí hậu và tai biến
môi trường của các khu dự trữ sinh quyển biển và ven biển ở Việt Nam thông qua tăng
cường quản lý tài nguyên thiên nhiên và phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Dự án này do Trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng (MCD) và khoa
sinh thái học hệ thống - đại học Stockholm Thuỵ Điển trủ trì thực thực, cán bộ Vườn

Quốc gia Cát Bà trực tiếp là đầu mối triển khai các nội dung tại Cát Bà.
Ngoài ra phối hợp với nhiều tổ chức khác nhau để thực hiện công tác bảo tồn
- Chương trình trồng rừng đền bù C0 2 do Công ty Năng lượng của Đức tài trợ
và Dự án bảo tồn Vọoc Cát Bà quản lý.


- Chương trình trồng Rừng ngập mặn do Ngân Hàng của Quốc gia Anh có chi
nhánh tại Hà Nội tài trợ.
- Tài trợ của UNETSCO thông qua Dự án: "Xây dựng thử nghiệm cơ chế chia
sẻ lợi ích sử dụng bền vững cây Xạ Đen và cây Sấu tại vùng đệm Khu dự trữ sinh
quyển quần đảo Cát Bà".



×