Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

ĐỀ TÀI hợp ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.65 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT


MÔN: TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Đề tài

HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Nhóm thực hiện: Nhóm 4
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hằng

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2018


A. BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ NHIỆM VỤ
T
T

Mã sô
sinh viên

1

33141025673

Trịnh Thị Vân Anh

Thuyết trình phần Xung đột pháp luật và giải quyết
xung đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tố nước ngoài


2

33161020139

Đinh Thị Phương Chi

Tổng hợp chung - Power point

3

33131021421

Nguyễn Huỳnh Đức

Nội dung phần Thẩm quyền của tòa án quốc gia đối
với hợp đồng có yếu tố nước ngoài

4

33161020312

Nguyễn Văn Minh

Nội dung phần Tổng quan chung về Hợp đồng trong
tư pháp quốc tế - Thuyết trình

5

33161020439


Thái Vĩnh Phúc

Tình huống 1 - Thuyết trình

6

33161020069

Hồ Thị Nguyên Thiện

Nội dung phần Xung đột pháp luật và giải quyết xung
đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tố nước ngoài

7

33161020105

Lê Thị Thu Thủy

Tình huống 2

8

33161020326

Nguyễn Anh Tuấn

Nội dung phần Xung đột pháp luật và giải quyết xung
đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tố nước ngoài


9

33151020390

Nguyễn Thị Thu Vân

Nội dung phần Thẩm quyền của tòa án quốc gia đối
với hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Họ và tên

Nhiệm vu

Đánh giá


MỤC LỤC
A. BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ NHIỆM VỤ.............................................1
B. NỘI DUNG CHÍNH................................................................................................3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 3
1. Tổng quan chung về Hợp đồng trong tư pháp quôc tế.....................................3
1.1 Khái niệm về hợp đồng trong tư pháp quốc tế................................................3
1.1.1
Khái niệm Hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong Tư pháp quốc tế
nước ngoài...........................................................................................................3
1.1.2
Khái niệm Hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong Tư pháp quốc tế
Việt Nam............................................................................................................... 4
1.2 Đặc điểm của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài...............................................5
1.2.1 Về chủ thể..................................................................................................5

1.2.2 Về đối tượng của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài....................................5
1.2.3 Về pháp luật điều chỉnh Hợp đồng có yếu tố nước ngoài..........................5
1.2.4 Về ngôn ngữ của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài.....................................5
2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đôi với hợp đồng có yếu tô nước ngoài...5
2.1 Thẩm quyền của trọng tài................................................................................6
2.2 Thẩm quyền của tòa án...................................................................................6
2.2.1 Thẩm quyền xét xử chung..........................................................................7
2.2.2 Thẩm quyền xét xử riêng biệt....................................................................8
3. Xung đột pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tô
nước ngoài.................................................................................................................... 9
3.1 Khái niệm xung đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tố nước ngoài................9
3.2 Giải quyết xung đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tố nước ngoài.................9
3.2.1 Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của Hợp đồng có yếu tố
nước ngoài..............................................................................................................
9
3.2.2 Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của Hợp đồng có yếu tố nước
ngoài ................................................................................................................. 10
3.2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng có
yếu tố nước ngoài................................................................................................13
4. Tình huông.........................................................................................................14
4.1 Tình huống 1.................................................................................................14
4.2 Tình huống 2.................................................................................................15
KẾT LUẬN................................................................................................................17
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................19


B. NỘI DUNG CHÍNH
MỞ ĐẦU
Nhằm đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã
đưa ra nhiều quan điểm, đường lối, chính sách nhằm tăng cường giao lưu dân sự,

thương mại quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ... Điều này làm
nảy sinh ngày càng nhiều các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động, tố tụng dân sự giữa cá nhân, tổ chức Việt Nam với cá nhân, tổ
chức nước ngoài. Một hình thức pháp lý cơ bản quy ước quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia mối quan hệ dân sự này là Hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên,
các quy phạm cấu thành lĩnh vực hợp đồng trong tư pháp quốc tế của Việt Nam quá rải
rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân
sự, Luật Thương mại… Trong số đó thì Bộ luật Dân sự vẫn được coi là luật gốc quy
định các vấn đề chung về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, là nền tảng cho pháp
luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc bình
đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm. Bên cạnh pháp luật quốc gia thì
các Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng là nguồn luật
điều chỉnh mối quan hệ Hợp đồng có yếu tố nước ngoài này. Dựa trên cơ sở các quy
định Hợp đồng có yếu tố nước ngoài của Bộ luật Dân sự, tuỳ vào tính chất đặc thù của
các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể có những quy định
riêng về Hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực đó. Để tránh những
mâu thuẫn và xung đột pháp luật xảy ra, đồng thời đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các
bên khi tham gia iện Hợp đồng có yếu tố nước ngoài, Nhóm đã chọn đề tài “Phân tích
Hợp đồng trong tư pháp quốc tế để tìm hiểu và nghiên cứu.
1. Tổng quan chung về Hợp đồng trong tư pháp quôc tế
1.1 Khái niệm về hợp đồng trong tư pháp quốc tế
1.1.1 Khái niệm Hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong Tư pháp quốc tế
nước ngoài
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ và khi có sự xuất hiện của yếu tố nước ngoài, ngoài sự sự điều chỉnh
của Bộ luật Dân sự (BLDS) mỗi quốc gia, hợp đồng đó còn chịu sự điều chỉnh của Tư
pháp quốc tế với những đặc thù riêng biệt. Tuy nhiên do không có sự thống nhất về
cách hiểu giữa các nền pháp luật khác nhau nên hiện nay vẫn chưa có một khái niệm
thống nhất về thuật ngữ Hợp đồng quốc tế hay Hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong
khoa học học pháp lý.

Theo quy ước tại Điều lệ UNIDROIT thì Hợp đồng quốc tế hay Hợp đồng có
yếu tố nước ngoài được hiểu rộng rãi là Hợp đồng đề cập đến một thỏa thuận ràng
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 3


buộc hợp pháp giữa các bên, có trụ sở tại các quốc gia khác nhau, trong đó họ có nghĩa
vụ phải làm hay không làm những điều nhất định.
Theo Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình,
tính chất quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau và hàng hoá, đối tượng của hợp đồng, được chuyển qua biên giới
một nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những
nước khác nhau (Điều 1). Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa
vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không có ý nghĩa
trong việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng Mua bán
Quốc tế Hàng hoá (Công ước Viên năm 1980): tính chất quốc tế được xác định chỉ bởi
một tiêu chuẩn duy nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở
các nước khác nhau (Điều 1). Và giống như Công ước Lahaye năm 1964, Công ước
này cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc
tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo Quy tắc châu Âu năm 2008 điều chỉnh việc xác định Hợp đồng quốc tế
hay Hợp đồng có yếu tố nước ngoài, việc hiểu thế nào là Hợp đồng quốc tế hay Hợp
đồng có yếu tố nước ngoài phụ thuộc vào pháp luật quốc gia.
1.1.2 Khái niệm Hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong Tư pháp quốc tế
Việt Nam
Cho đến thời điểm hiện tại, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể thế
là nào Hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
cũng là một loại quan hệ dân sự và chịu sự điều chỉnh của BLDS 2015. Do vậy, để xác

định một Hợp đồng có yếu tố nước ngoài hay không có thể dựa vào quy định tại
Khoản 2 Điều 663 BLDS 2015 như sau: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là
quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng
việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”
Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất về Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
như sau: Hợp đồng có yếu tố nước ngoài là Hợp đồng có chủ thể nước ngoài tham gia,
căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hợp đồng xảy ra ở nước ngoài
hoặc theo pháp luật nước ngoài, tài sản liên quan đến hợp đồng nằm ở nước ngoài.
Ví dụ về Hợp đồng trong tư pháp quốc tế: Hợp đồng mua bán hàng hóa giữa:
- Thương nhân Việt Nam và thương nhân Hoa Kỳ;
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 4


- Các bên là thương nhân Việt Nam Ký kết hợp đồng tại Anh;
- Thương nhân Hoa Kỳ giao hàng tại cảng Ấn Độ;
- Thương nhân Việt Nam thanh toán tại Hà Lan.
1.2 Đặc điểm của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
1.2.1 Về chủ thể
Chủ thể của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài có thể là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài, công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam tham gia vào mối quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài hay nói cách khác là các bên của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
1.2.2 Về đối tượng của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Đối tượng của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài là các quan hệ nhân thân và tài sản.
1.2.3 Về pháp luật điều chỉnh Hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Chính yếu tố nước ngoài trong Hợp đồng có yếu tố nước ngoài dẫn đến hiện
tượng cùng một lúc có thể có nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh hợp
đồng. Từ đó, việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng cũng như để bảo vệ lợi ích của
các bên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tất yếu sẽ gặp nhiều khó
khăn. Để giải quyết vấn đề này, một trong những nguyên tắc quan trọng được pháp
luật các nước cũng như các điều ước quốc tế ghi nhận là các bên tham gia quan hệ hợp
đồng có quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Do đó, đặc điểm đặc thù
đầu tiên của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài là pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
đều thừa nhận sự tự do ý chí của các bên trong việc xác định pháp luật điều chỉnh. Khi
có tranh chấp hay xung đột xảy ra, các bên trong Hợp đồng có quyền tự do lựa chọn hệ
thống cơ quan tài phán, cụ thể họ có thể lựa chọn Toà án của các nước mà họ giải
quyết tranh chấp hoặc cũng có thể lựa chọn Trọng tại thương mại để giải quyết những
bất đồng giữa các bên.
1.2.4 Về ngôn ngữ của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Việc xác định dùng ngôn ngữ nào trong Hợp đồng là do các bên tự thoả thuận.
Ví dụ trong hầu hết hiện nay Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường được ký kết
bằng tiếng nước ngoài, trong đó phần lớn là được ký bằng tiếng Anh.
2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đôi với hợp đồng có yếu tô nước ngoài
Khác với hợp đồng trong nước, việc xác định cơ quan tài phán nước nào có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp và hệ thống pháp luật nước nào được dùng để điều
chỉnh Hợp đồng có yếu tố nước ngoài không phải là chuyện dễ dàng. Với tư cách là
một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, tranh chấp về Hợp đồng có yếu tố nước
ngoài hoàn toàn có khả năng được giải quyết ở cơ quan tài phán của các nước khác
nhau bởi không tồn tại một hệ thống pháp luật tố tụng “xuyên quốc gia” để trả lời cho
câu hỏi về thẩm quyền xét xử của cơ quan tài phán trong các trường hợp này.

HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 5



2.1 Thẩm quyền của trọng tài
Thẩm quyền của trọng tài phụ thuộc vào thỏa thuận trọng tài của các bên chủ
thể, điều đó có nghĩa là các chủ thể của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài có quyền thỏa
thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa họ. Pháp luật của các nước, các
điều ước quốc tế đều không ngăn cản quyền tự do đó của các bên chủ thể. Như vậy,
trọng tài một nước sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về Hợp đồng có yếu tố
nước ngoài nếu như các bên chủ thể nêu rõ trong thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận đó
có hiệu lực. Cũng giống như các vụ việc trong nước, khi tranh chấp về Hợp đồng có
yếu tố nước ngoài đã thuộc về thẩm quyền giải quyết của trọng tài thì tòa án phải “để
lại” vụ việc đó cho trọng tài xử lý.
Tính đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ước New York và
tham gia ký kết 18 điều ước quốc tế song phương với các nước khác về tương trợ tư
pháp có đề cập đến việc công nhận bản án của tòa án cũng như phán quyết của trọng
tài. Như vậy, phán quyết trọng tài của các nước thành viên của Công ước New York
hoặc có điều ước song phương với Việt Nam đều có thể được công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam theo quy định của các điều ước nói trên.
Tuy nhiên theo quy định tại Điều 459 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015
thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền không công nhận quyết định của trọng tài nước
ngoài khi xét thấy chứng cứ do bên phải thi hành cung cấp cho Tòa án để phản đối yêu
cầu công nhận là có căn cứ, hợp pháp và phán quyết của trọng tài thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Điều này. Trên thực tế, tỷ lệ phán quyết trọng tài nước ngoài
được công nhận tại Việt Nam còn thấp, khả năng thi hành cũng chưa cao. Một trong
những nguyên nhân của kết quả nêu trên là do một số quy định của BLTTDS còn chưa
tương thích với các quy định của Công ước cũng như cam kết của Việt Nam khi gia
nhập Công ước, ví dụ như khái niệm phán quyết của Trọng tài nước ngoài, thời hiệu
yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, nghĩa vụ chứng
minh và cung cấp chứng cứ, căn cứ để từ chối dựa trên việc vi phạm “các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Điều này đã tạo ra tâm lý lo ngại cho cho các doanh
nghiệp nước ngoài khi tiến hành các hoạt động kinh doanh, thương mại và đầu tư với

các đối tác Việt Nam.
2.2 Thẩm quyền của tòa án
Trong trường hợp các bên chủ thể không lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài, Hợp đồng có yếu tố nước ngoài có thể được giải quyết bằng con
đường tòa án. Thẩm quyền xét xử Hợp đồng có yếu tố nước ngoài của tòa án một nước
phụ thuộc vào quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên về vấn đề
này và pháp luật tố tụng dân sự của quốc gia đó.

HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 6


Để xác định thẩm quyền của tòa án Việt Nam khi nhận được đơn kiện về các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài gồm các giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Tòa án Việt Nam xem xét các điều ước quốc tế (các Hiệp định
Tương trợ tư pháp về các quan hệ dân sự giữa Việt Nam và các nước; Hiệp định
Thương mại...) có quy định về vấn đề xác định thẩm quyền của mình hay không rồi
căn cứ vào đó để xác định thẩm quyền.
- Giai đoạn 2: Trong trường hợp không có điều ước quốc tế nào quy định về
việc xác định thẩm quyền xét xử quốc tế, hoặc có mà không có quy định cụ thể thì tòa
án Việt Nam sẽ căn cứ vào các dấu hiệu xác định thẩm quyền trong hệ thống các văn
bản pháp luật trong nước để xác định thẩm quyền của tòa án nước mình.
- Giai đoạn 3: Nếu theo quy định của các điều ước quốc tế hoặc theo quy định
của pháp luật trong nước (sau giai đoạn 1 hoặc 2) tòa án Việt Nam là tòa án có thẩm
quyền xét xử thì tòa án sẽ căn cứ vào các dấu hiệu xác định thẩm quyền theo lãnh thổ
và theo vụ việc được quy định trong luật tố tụng để xác định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp thuộc Tòa án cấp nào.
Theo BLTTDS 2015, một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài có thể thuộc
thẩm quyền xét xử của tòa án Việt Nam theo 2 cách: thuộc thẩm quyền chung của tòa

án Việt Nam hoặc thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam.
2.2.1 Thẩm quyền xét xử chung
Là thẩm quyền đối với những vụ việc mà tòa án nước đó có quyền xét xử
nhưng tòa án nước khác cũng có thể xét xử (điều này tùy thuộc vào tư pháp quốc tế
của các nước khác có quy định là tòa án nước họ có thẩm quyền với những vụ việc
như vậy hay không). Khi mà tòa án nhiều nước đều có thẩm quyền xét xử với một vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài, thì quyền xét xử thuộc về tòa án nước nào phụ thuộc
vào việc nộp đơn của các bên chủ thể.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 469 BLTTDS 2015, trong lĩnh vực hợp đồng,
tòa án Việt Nam sẽ có thẩm quyền xét xử chung trong các trường hợp sau:
- Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự nếu bị đơn là cá
nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam. Trong trường hợp bị đơn là cơ
quan tổ chức thì dấu hiệu có trụ sở tại Việt Nam được xem là căn cứ để xác định thẩm
quyền của tòa án Việt Nam (Điểm a và b).
- Bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, mặc dù hợp đồng được ký
kết, thực hiện tại nước ngoài, nhưng bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam thì tòa án
Việt Nam vẫn có thẩm quyền (Điểm c).
- Ngoài các dấu hiệu về quốc tịch, nơi cư trú, nơi có trụ sở nêu trên thì dấu hiệu
sự kiện pháp lý làm xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hoặc dấu hiệu nơi có tài sản là
đối tượng của quan hệ cũng được ghi nhận. Cụ thể, nếu có sự kiện pháp lý xảy ra ở
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 7


Việt Nam và từ sự kiện đó quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác lập, thay đổi,
chấm dứt thì vụ việc về quan hệ đó do tòa Việt Nam giải quyết (Điểm đ). Như vậy,
khác với BLTTDS 2004, tại Điểm e Khoản 2 Điều 410 quy định cụ thể rằng “tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ, hoặc một phần hợp đồng xảy
ra trên lãnh thôi Việt Nam”, trong trường hợp này, nếu hợp đồng chỉ được thực hiện

một phần tại Việt Nam thì Tòa án Việt Nam vẫn có thẩm quyền giải quyết.
- Nếu sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài nhưng các cá nhân, cơ quan, tổ chức
Việt Nam có liên quan về quyền và nghĩa vụ hoặc các cá nhân này cư trú ở Việt Nam,
các cơ quan tổ chức này có trụ sở ở Việt Nam thì tòa án Việt Nam cũng có thẩm quyền
giải quyết (Điểm e). Đây là quy định rõ hơn phạm vi thẩm quyền chung của Tòa án
Việt Nam so với BLTTDS 2004, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền trong trường hợp sự
kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài đối với các tranh chấp mà các đương sự đều là cá
nhân, cơ quan, tổ chức tại Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú ở Việt Nam
(Điểm đ Khoản 2 Điều 410).
2.2.2 Thẩm quyền xét xử riêng biệt
Là trường hợp quốc gia sở tại tuyên bố chỉ có tòa án nước họ mới có thẩm
quyền xét xử đối với những vụ việc nhất định. Nếu tòa án nước khác vẫn tiến hành xét
xử đối với những vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt, hậu quả là bản án, quyết
định được tuyên bởi tòa án nước khác sẽ không được công nhận, cho thi hành tại quốc
gia sở tại (theo Khoản 4 Điều 439 và Khoản 1 Điều 440 BLTTDS 2015). Trong trường
hợp này, kể cả các bên chủ thể thỏa thuận tòa án nước khác thì về nguyên tắc, tòa án
nước đó cũng cần phải từ chối thụ lý vụ việc để tôn trọng thẩm quyền xét xử riêng biệt
của quốc gia sở tại.
Điều 470 BLTTDS 2015 đã liệt kê các dấu hiệu của các vụ việc dân sự (đối với
hợp đồng) thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam như sau:
- Vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên
lãnh thổ Việt Nam (Điểm a Khoản 1). Tương tự trong Hiệp định tương trợ Tư pháp
giữa Việt Nam và Trung Quốc, tại khoản 10 Điều 18 cũng quy định: bất động sản là
đối tượng của vụ tranh chấp nằm trên lãnh thổ của nước nào thì Tòa án nước đó có
thẩm quyền giải quyết.
Việc xây dựng quy định về thẩm quyền theo tòa án nơi có bất động sản xuất
phát từ tính chất đặc biệt của bất động sản là loại tài sản gắn liền với đất không di
chuyển được. Tòa án nơi có bất động sản là tòa án có điều kiện thuận lợi hơn cả trong
việc xác minh, thu thập chứng cứ và giải quyết chính xác vụ việc. Đối với các tranh
chấp bất động sản, thông thường các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản sẽ do

cơ quan tài nguyên môi trường, nhà đất, chính quyền nơi có bất động sản đó lưu giữ và
các cơ quan này cũng là những cơ quan nắm vững những thông tin về nguồn gốc, hiện
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 8


trạng tài sản và tình trạng pháp lý của tài sản. Do vậy, Tòa án nơi có bất động sản sẽ là
Tòa án có điều kiện thuận lợi nhất trong việc xác minh, thu thập các tài liệu, các thông
tin liên quan đến bất động sản đang tranh chấp.
- Vụ án dân sự mà các bên được lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải quyết theo
pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các bên đồng
ý lựa chọn Tòa án Việt Nam (Điểm c Khoản 1).
3. Xung đột pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tô
nước ngoài
3.1 Khái niệm xung đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Trong quan hệ Hợp đồng có yếu tố nước ngoài, do pháp luật các quốc gia
thường thống nhất khi giải quyết các vấn đề về Hợp đồng và do tồn tại nhiều văn bản
pháp lý quốc tế thống nhất điều chỉnh nên có thể nói lĩnh vực Hợp đồng ít phát sinh
xung đột pháp luật. Trong hệ thống các văn bản pháp lý quốc tế này có thể kể đến Bộ
nguyên tắc UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế, Bộ nguyên tắc châu Âu về
Hợp đồng, Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế, Công ước Viên năm 1980
hay Incoterms quy định về các quy tắc thương mại quốc tế… Tuy trong lĩnh vực Hợp
đồng có yếu tố nước ngoài ít xảy ra xung đột pháp luật nhưng không phải là không có.
Do đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là sự tham gia của hai hay nhiều
hệ thống pháp luật và mỗi quốc gia trên thế giới có hệ thống pháp luật riêng của mình.
Chính vì vậy nên mới có hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ
thống pháp luật đồng thời có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài. Một khi có xung đột pháp luật xảy ra thì việc cần thiết là phải lựa
chọn một trong các hệ thống pháp luật đó để giải quyết các quan hệ Hợp đồng trên.

Nhưng việc lựa chọn luật phải dựa trên những nguyên tắc nhất định, không thể tùy
tiện. Việc lựa chọn này không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Tòa án, cũng không
phụ thuộc vào ý muốn của các bên.
3.2 Giải quyết xung đột pháp luật về Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
3.2.1 Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của Hợp đồng có yếu tố
nước ngoài
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 770 BLDS 2005 quy định hình thức của hợp
đồng phải tuân theo “pháp luật nơi giao kết hợp đồng”, thì Khoản 7 Điều 683 BLDS
2015 thay đổi lại quy định là phải tuân theo “pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó”.
Nói cách khác, pháp luật do các bên lựa chọn hoặc do dẫn chiếu bởi quy phạm xung
đột sẽ điều chỉnh cả nội dung và hình thức của Hợp đồng. Thêm vào đó, BLDS 2015
cũng đã mở rộng khả năng công nhận hình thức Hợp đồng. Nếu như BLDS 2005 quy
định hình thức của Hợp đồng không phù hợp với pháp luật nơi giao kết nhưng phù hợp
với pháp luật Việt Nam thì được công nhận tại Việt Nam, thì BLDS 2015 quy định nếu
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 9


hình thức của Hợp đồng không phù hợp với hình thức Hợp đồng theo pháp luật áp
dụng đối với Hợp đồng đó, nhưng phù hợp với hình thức Hợp đồng theo pháp luật của
nước nơi giao kết Hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức Hợp đồng đó được
công nhận tại Việt Nam.
3.2.2 Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của Hợp đồng có yếu tố
nước ngoài
Trước năm 2016, theo quy định tại Điều 769 BLDS 2005 quy định: “Quyền và
nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực
hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, khả năng lựa chọn pháp luật
áp dụng của các bên trong quan hệ hợp đồng chỉ được suy ra từ quy định “nếu không
có thỏa thuận khác”. Ví dụ, một Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa một công ty Việt

Nam và một công ty Đài Loan, hai bên thoả thuận sẽ giao hàng tại cảng Đài Loan
nhưng việc thanh toán sẽ diễn ra tại ngân hàng HSBC Hà Nội. Vậy một thắc mắc lớn ở
đây là theo quy định của BLDS 2005, Hợp đồng có yếu tố nước ngoài này có được
thực hiện ở Việt Nam hay không và có phải tuân thủ theo pháp luật nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam hay không. Điều này có thể dẫn tới sự mất an toàn pháp lý,
gây tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam.
Trong BLDS 2015 đã có cải cách quan trọng khi ghi nhận: “Các bên trong
quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng…”
(Khoản 1 Điều 683). Các bên cũng có thể thoả thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối
với hợp đồng với điều kiện việc thay đổi đó “không được ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ
trường hợp người thứ ba đồng ý” (Khoản 6 Điều 683). Việc quy định lại điều này cho
thấy Việt Nam cũng đã thích ứng hơn với thế giới. Trong quan hệ Hợp đồng có yếu tố
nước ngoài, việc cho phép các bên tự do lựa chọn pháp luật áp dụng là một quy định
rất quan trọng được thừa nhận rộng rãi trên thế giới trong các điều ước quốc tế, cũng
như trong các đạo luật quốc gia. Nhiều quốc gia cũng có quy định tương tự. Chẳng
hạn, Điều 3 Nghị định Rome 2008 của Liên minh châu Âu về luật áp dụng cho nghĩa
vụ hợp đồng quy định “hợp đồng được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn”.
Tương tự, Điều 58 Bộ luật Tư pháp quốc tế của CH Dominica ngày 18/12/2014 quy
định: “Hợp đồng được điều chỉnh bởi pháp luật do các bên lựa chọn. Thỏa thuận chọn
pháp luật nằm trong hợp đồng, hoặc trong một văn bản riêng quy dẫn đến hợp đồng,
hoặc có thể được suy ra từ hành vi rõ ràng của các bên”. Như vậy, chỉ cần Hợp đồng
có yếu tố nước ngoài là các bên có thể lựa chọn pháp luật áp dụng, mà không cần quan
tâm đến việc Hợp đồng đó có giao kết và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam hay không.

HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 10



Tuy nhiên, quyền của các bên lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng không
phải là một quyền tuyệt đối mà có những giới hạn nhất định, BLDS 2015 đã đặt ra các
giới hạn như sau:
- Giới hạn về phạm vi: Hợp đồng có đối tượng là bất động sản. Theo Khoản 4
Điều 683 BLDS 2015, khi hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì “pháp luật áp
dụng đối với việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động
sản, thuê bất động sản hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
là pháp luật của nước nơi có bất động sản”. Nói cách khác, các bên không thể lựa
chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng có đối tượng là bất động sản. Đây là quy định
hợp lý và phù hợp với tư pháp quốc tế của nhiều nước. So với quy định tại BLDS 2005
thì quy định tại BLDS 2015 đã rõ ràng hơn, tránh được những bất cập khi thực hiện
Hợp đồng có yếu tố nước ngoài liên quan đến bất động sản là chỉ những hợp đồng “có
đối tượng là bất động sản” thì các bên mới không được lựa chọn pháp luật áp dụng.
- Giới hạn về nội dung pháp luật: Hợp đồng lao động và hợp đồng tiêu dùng.
Hợp đồng lao động và hợp đồng tiêu dùng có bản chất là hợp đồng gia nhập. Người
lao động và người tiêu dùng hầu như không có cơ hội để đàm phán các nội dung của
hợp đồng. Khi được trao quyền lựa chọn pháp luật, bên đề nghị giao kết hợp đồng
(thường là bên sử dụng lao động và bên chuyên nghiệp có nhiều thông tin và kinh
nghiệm hơn) sẽ có xu hướng đưa vào trong hợp đồng điều khoản lựa chọn áp dụng hệ
thống pháp luật có lợi nhất cho mình, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và
người tiêu dùng. Để khắc phục tình trạng này, Khoản 5 Điều 683 BLDS 2015 quy
định: “Trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động, hợp đồng
tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng
theo quy định của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng”.
- Giới hạn về hậu quả áp dụng pháp luật nước ngoài và chứng minh pháp
luật nước ngoài: Theo Điều 670 BLDS 2015, pháp luật nước ngoài do các bên lựa
chọn cũng sẽ không được áp dụng khi hậu quả của việc áp dụng pháp luật đó trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, hoặc không chứng minh được nội dung
pháp luật nước ngoài. Điểm đáng lưu ý ở đây là BLTTDS 2015 đã có một quy định
mới về nghĩa vụ xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài. Theo đó, trường hợp các

bên được lựa chọn và đã lựa chọn pháp luật nước ngoài thì các bên “có nghĩa vụ cung
cấp pháp luật nước ngoài đó cho tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự. Các đương sự
chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của pháp luật nước ngoài đã cung
cấp”. Như vậy, khi các bên trong hợp đồng có thỏa thuận chọn pháp luật nước ngoài
áp dụng cho hợp đồng của mình thì khi giải quyết tranh chấp trước tòa án Việt Nam,
các bên có nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài. Nếu các bên không thống nhất
được với nhau về pháp luật nước ngoài thì cũng chưa có nghĩa là thỏa thuận chọn pháp
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 11


luật nước ngoài của các bên không được áp dụng. Khi đó tòa án sẽ “yêu cầu Bộ Tư
pháp, Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngoài hoặc thông qua Bộ Ngoại giao đề nghị cơ quan đại diện ngoại giao của
nước ngoài tại Việt Nam cung cấp pháp luật nước ngoài”. Chỉ khi việc này không đạt
kết quả thì thỏa thuận lựa chọn pháp luật của các bên mới không phát huy tác dụng và
pháp luật áp dụng sẽ là pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, BLDS 2015 cũng quy định chi tiết thế nào được xem là pháp luật của
nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng tại Khoản 2 Điều 683. Điểm thay đổi
căn bản đó là BLDS 2015 không còn sử dụng tiêu chí “nơi thực hiện hợp đồng” để
xác định luật áp dụng cho hợp đồng mà thay vào đó là tiêu chí “mối liên hệ gắn bó
nhất với hợp đồng”. Hệ thuộc luật “nơi thực hiện hợp đồng” hiện hành gây khó khăn
cho việc xác định pháp luật áp dụng do không rõ ràng, đặc biệt đối với các hợp đồng
song vụ, các nghĩa vụ hợp đồng có thể được thực hiện ở nhiều nơi, nhiều nước khác
nhau hoặc trong trường hợp nơi thực hiện hợp đồng bị thay đổi dẫn đến khó dự đoán
trước được nơi thực hiện hợp đồng. Để đảm bảo sự mềm dẻo cho hệ thuộc luật áp
dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố
nước ngoài khi chọn pháp luật áp dụng, mặt khác hạn chế được tình trạng lẩn tránh
pháp luật, các nước (Trung Quốc, Nhật Bản, Thụy sĩ…) đều quy định cho phép các

bên được thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng, pháp luật áp dụng với
hợp đồng sẽ điều chỉnh toàn bộ nội dung và hình thức của hợp đồng, kể cả vấn đề về
giao kết hợp đồng, trường hợp các bên không chọn pháp luật áp dụng thì pháp luật áp
dụng là pháp luật của nước “nơi có quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng”.
Bên cạnh việc tự do lựa chọn pháp luật áp dụng đối với Hợp đồng có yếu tố
nuóc ngoài, cũng cần xét đến khía cạnh về khả năng lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật
cho Hợp đồng. BLDS 2015 không cho biết một cách minh thị các bên có được lựa
chọn nhiều hệ thống luật áp dụng cho Hợp đồng của mình hay không. Đây là điểm
khác biệt của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước. Có thể thấy trên thế
giới, các nước đã có quy định rõ ràng về điều này. Ví dụ tại Điều 38 Luật Tư pháp
quốc tế CH Monténégro ngày 23/12/2013 quy định “Hợp đồng được điều chỉnh bởi
pháp luật do các bên lựa chọn. Sự lựa chọn này phải rõ ràng hoặc được suy ra từ các
quy định của hợp đồng hoặc các hoàn cảnh cụ thể. Các bên có thể lựa chọn pháp luật
áp dụng cho toàn bộ hoặc một phần hợp đồng. Sự tồn tại của thỏa thuận và hiệu lực
của thỏa thuận về luật áp dụng được điều chỉnh bởi điều 14, khoản 2, điều 44 và 45
của Luật này”. Hay trong Khoản 1 Điều 3 Nghị định Rome 2008 về luật áp dụng cho
nghĩa vụ Hợp đồng cũng có quy định tương tự. Việc cho phép các bên lựa chọn nhiều
hệ thống pháp luật được giải thích là tôn trọng quyền tự do lựa chọn, nhưng giải pháp
này đặt ra nhiều khó khăn thực tiễn và có lẽ chỉ phù hợp với các quốc gia có hệ thống
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 12


tư pháp phát triển. Tuy nhiên các hệ thống pháp luật khác nhau có thể có những quy
định khác nhau, trong khi đó các nội dung của Hợp đồng có thể có liên quan đến nhau
và không áp dụng riêng rẽ từng hệ thống luật cho từng nội dung của Hợp đồng. Sự
khác nhau này có thể sẽ dẫn tới việc Tòa án không áp dụng được đồng thời các hệ
thống pháp luật nước ngoài mà các bên đã lựa chọn và khi đó sẽ áp dụng pháp luật
nước mình để giải quyết. Vì vậy việc chưa có quy định rõ ràng về khả năng lựa chọn

nhiều hệ thống pháp luật cho Hợp đồng cũng là một điểm bất cập, gây khó khăn khi
giao kết Hợp đồng có yếu tố nước ngoài trên thực tế.
Trong thực tế chúng ta thấy không hiếm trường hợp các bên trong Hợp đồng
mặc dù được pháp luật trao quyền lựa chọn pháp luật áp dụng cho Hợp đồng của mình,
nhưng lại không thực hiện quyền đó. Để giải quyết tình huống đó BLDS 2015 vẫn quy
định trình tự xác định luật áp dụng cho Hợp đồng như quy định trong BLDS 2005,
nhưng đã có nhiều thay đổi về nội dung của các quy định. Tại Khoản 1 Điều 664,
BLDS 2015 quy định “Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài được xác định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên hoặc luật Việt Nam”. Theo quy định tại BLDS 2015 này đã thiết lập rõ hơn
thứ tự ưu tiên áp dụng Điều ước quốc tế so với luật quốc gia. Trong khi đó BLDS
2005, Điều ước quốc tế chỉ được ưu tiên áp dụng khi pháp luật Việt Nam không khác
với Điều ước quốc tế đó. Tuy nhiên, BLDS 2015 vẫn chưa giải quyết được vấn đề
xung đột giữa hai Điều ước quốc tế về nội dung hoặc hai Điều ước quốc tế về xung đột
luật. Ví dụ, Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà Việt Nam
vừa gia nhập, bởi Công ước này chứa đựng các quy định về quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Công ước này sẽ được ưu tiên
áp dụng so với các Điều ước quốc tế về xung đột pháp luật mà Việt Nam là thành viên.
3.2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng có
yếu tố nước ngoài
BLDS 2005 không có quy định nào về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận lựa
chọn pháp luật áp dụng cho Hợp đồng. Do thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng là
một thỏa thuận Hợp đồng, nên có thể suy ra rằng nó phải tuân thủ các quy định chung
về giao dịch dân sự. Chính hạn chế này mà tới BLDS 2015 đã có điều chỉnh. Theo
Điều 117 BLDS 2015, để có hiệu lực, thỏa thuận lựa chọn pháp luật phải đáp ứng
được các điều kiện sau: “a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân
sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Như vậy, nếu thỏa thuận chọn pháp
luật áp dụng do người không có thẩm quyền ký hoặc ký do bị cưỡng ép, bị lừa dối, đe

dọa thì sẽ không có hiệu lực pháp luật. Tương tự, thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 13


dụng cho những Hợp đồng mà trong đó pháp luật không cho phép lựa chọn pháp luật
áp dụng, Hợp đồng có đối tượng là bất động sản chẳng hạn hay thỏa thuận chọn pháp
luật áp dụng nước ngoài nhằm lẩn tránh áp dụng một hệ thống pháp luật mà lẽ ra phải
được áp dụng bắt buộc thì cũng sẽ không có hiệu lực.
4. Tình huông
4.1 Tình huống 1
Tháng 5/2017, Công ty A thực hiện mua bán hàng hóa với Công ty B tại Thái
Lan với trị giá lô hàng khoảng 5.700 USD. Cho đến nay, Công ty B không giao hàng
theo thoả thuận sau khi công ty A hoàn thành chuyển tiền và có dấu hiệu lừa đảo. Công
ty A có đầy đủ chứng từ thanh toán tiền hàng qua ngân hàng và thông tin của người
bán (Công ty B không nghe điện thoại và trả lời email của Công ty A).
Đặt vấn đề:
1. Trong trường hợp này, Công ty A nên gửi đơn tố cáo đến cơ quan thẩm quyền
nào?
2. Án phí khi giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền?
Hướng giải quyết:
- Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi nộp đơn khởi kiện:
Đối tác Thái Lan có ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với giá trị lô hàng khoảng
5.700 USD. Công ty A đã thực hiện các nghĩa vụ như trong hợp đồng đã thỏa thuận,
tuy nhiên Công ty B không thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa và Công ty A cho rằng có
dấu hiệu lừa đảo trong trường hợp này. Với trường hợp này, đây được xác định là
tranh chấp trong thương mại. Khi tranh chấp trong hợp đồng xảy ra, thì hình thức
giải quyết tranh chấp như thế nào, cơ quan nào là cơ quan giải quyết tranh chấp. Sẽ có
các trường hợp sau xảy ra:

+ Trường hợp 1: Trong hợp đồng, các bên thỏa thuận, khi có tranh chấp xảy ra
sẽ do Trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp. Khi đó, Công ty A có thể làm đơn
khởi kiện đến trọng tài thương mại để yêu cầu giải quyết.
+ Trường hợp 2: Trong hợp đồng, các bên thỏa thuận, khi có tranh chấp xảy ra
sẽ do Tòa án giải quyết. Khi đó, công ty A có thể làm đơn khỏi kiện đến Tòa án nhân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo Khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015 quy
định thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh như sau:
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ
việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và
khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 14


b) Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
quy định tại các điều 27, 29, 31 và 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4
Điều 35 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.”
Do trong trường hợp này có đương sự đang ở nước ngoài, vì vậy công ty A làm
đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi công ty đương sự có trụ sở (căn cứ
vào khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
+ Trường hợp 3: Các bên không thỏa thuận về cơ quan nào giải quyết tranh
chấp thì công ty A khởi kiện ra TAND cấp tỉnh để được giải quyết.
- Về án phí khi giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền:
+ Trường hợp 1: Với trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ

việc thì phí sẽ do Hội đồng trọng tài ấn định và bên thua kiện phải chịu phí trọng tài, trừ
trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng trọng tài quy định khác hoặc
Hội đồng trọng tài có sự phân bổ khác (Điều 34 Luật Trọng tài thương mại 2010). Hiện
nay, Pháp luật chưa quy định mức phí cụ thể đối với phí trọng tài thương mại.
+ Trường hợp 2: Do Tòa án giải quyết tranh chấp. Mức án phí được tính theo
quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
4.2 Tình huống 2
Ngày 01/01/2017, công ty Việt Nam (có quốc tịch Việt Nam và trụ sở tại Quận
3, TP Hồ Chí Minh) đã giao kết hợp đồng mua bán cá hồi với Công ty Trung Quốc
(quốc tịch Trung Quốc, có trụ sở tại Trung Quốc) và hợp đồng được ký kết tại
Singapore. Theo hợp đồng, hàng hóa sẽ được chuyển từ Trung Quốc về Việt Nam. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng đã xảy ra tranh chấp do Công ty Trung Quốc
không giao đủ hàng. Vì vậy, Công ty Việt Nam khởi kiện tại TAND Thành phố HCM
và tòa án đã thụ lý vụ kiện.
Đặt vấn đề:
1. Toà án Việt Nam thụ lý giải quyết có đúng thẩm quyền không? Giải thích?
2. Pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật?
Hướng giải quyết:
- Thẩm quyền giải quyết vụ án:
Trước tiên, cần phải xem hợp đồng ký kết giữa 2 bên có thoả thuận về cơ quan
giải quyết tranh chấp hay không.
+ Trường hợp hợp đồng có quy định cơ quan giải quyết tranh chấp: Trong hợp
đồng có thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp là trọng tài thương mại hay toà án
nước ngoài thì Toà án Việt Nam sẽ không có thẩm quyền giải quyết mà thẩm quyền giải
quyết là cơ quan giải quyết tranh chấp được thoả thuận trong hợp đồng. Nếu Toà án Việt
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 15



Nam vẫn thụ lý vụ án, có thể bị coi la vi phạm một trong các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam “…mọi cam kết, thoả thuận không vi phạm điều cấm của luật có
hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng” (Khoản 2 Điều
3 BLDS 2015), bên cạnh đó bản án có thể sẽ không được công nhận tại Trung Quốc.
+ Trường hợp hợp đồng không có thoả thuận: Thực tiễn Tư pháp Quốc tế cho
thấy khi một tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh thì toà án của 2 pháp
nhân trên đều có thể có thẩm quyền giải quyết. Điều này xuất phát từ nguyên tắc bình
đẳng và tôn trọng về chủ quyền giữa các quốc gia. Do đó nếu tranh chấp liên quan đến
pháp nhân mang quốc tịch nước mình hoặc có trụ sở tại nước mình thì toà án quốc gia
đó có thẩm quyền giải quyết. Bên cạnh đó, trong Hiệp định Tương trợ tư pháp Việt Trung tại Khoản 5 Điều 18 cũng có quy định về thẩm quyền xét xử: “Trong trường
hợp tranh chấp về hợp đồng, mà hợp đồng đã được ký kết trên lãnh thổ của Bên ký kết
đó hoặc đã hay sẽ được thực hiện ở đó hoặc đối tượng được tranh chấp hiện có trên
lãnh thổ của Bên ký kết đó” thì Toà án của một trong hai Bên ký kết ra quyết định sẽ
được coi là có thẩm quyền đối với vụ việc. Căn cứ vào điều này thì khi hàng hóa được
chuyển từ Trung Quốc về Việt Nam là đã thực hiện theo hợp đồng ký kết, do đó Toà án
Trung Quốc hay Toà án Việt Nam đều có thẩm quyền đối với vụ việc. Áp dụng tất cả
những quy định nêu trên trong tình huống này thì công ty Việt Nam có thể khởi kiện
tại Toà án Việt Nam hoặc Toà án Trung Quốc vì toà án của 2 nước đều có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp trên.
Hợp đồng được ký kết tại Singapore nên quan hệ dân sự này được xác lập ngoài
lãnh thổ Việt Nam nhưng có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công ty Việt Nam,
do đó đây là vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền chung của toà án
Việt Nam (Điểm e Khoản 1 Điều 469 BLTTDS 2015).
Tại Khoản 3 Điều 35 BLTTDS 2015 có quy định những tranh chấp quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 35 Bộ luật này mà có đương sự ở nước ngoài thì không thuộc
thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện mà thuộc TAND cấp tỉnh. Vậy trong tình
huống trên thì công ty Việt Nam nộp đơn khởi kiện tại TAND thành phố Hồ Chí Minh
là đúng (Điểm c Khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015).
- Pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật: Đây là
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài do có một bên tham gia là pháp nhân nước ngoài,

vì vậy việc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
được tuân theo các quy định tại Điều 664 BLDS 2015. Nếu điều ước quốc tế hoặc luật
Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì áp dụng pháp luật mà các bên lựa
chọn. Trường hợp không xác đinh được pháp luật áp dụng tại khoản 1 và 2 Điều 664
BLDS 2015 thì pháp luật của nước có mối liên hện gắn bó nhất với quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài đó được áp dụng.
HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 16


+ Đối với nội dung của hợp đồng: Các bên trong quan hệ hợp đồng được thoả
thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng trừ trường hợp quy định tại các
khoản 4, 5 và 6 Điều 683 BLDS 2015.
Trường hợp Tòa án Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài theo như thoả
thuận 2 bên thì trách nhiệm xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài được thực hiện
theo quy định tại Khoản 1 và 4 Điều 481 BLTTDS 2015.
Trường hợp các bên không có thoả thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của
nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng, cụ thể hợp đồng này
là hợp đồng mua bán hàng hoá nên pháp luật của nước nơi người bán (Trung Quốc) sẽ
được áp dụng (Điểm a Khoản 2 Điều 683 BLDS 2015). Tuy nhiên nếu chứng minh
được pháp luật của Việt Nam hoặc pháp luật của nước khác có mối liên hệ gắn bó hơn
thì áp dụng pháp luật của nước đó (Khoản 5 Điều 683 BLDS 2015).
+ Đối với hình thức của hợp đồng: Nếu hợp đồng có hình thức không phù hợp
với hình thức hợp đồng theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó nhưng phù hợp
với hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật
Việt Nam thì hình thức hợp đồng đó được công nhận tại Việt Nam (khoản 7 điều 683
BLDS 2015). Như vậy công ty Việt Nam và công ty Trung Quốc ký kết hợp đồng tại
Singapore nên pháp luật Singapore hoặc pháp luật Việt Nam sẽ công nhận về hình thức
hợp đồng trong trường hợp hợp đồng có hình thức không phù hợp với hình thức hợp

đồng theo pháp luật được áp dụng.
Tuy nhiên khi pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu mà hậu quả của việc áp dụng
pháp luật đó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hoặc nội dung của
pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết
theo quy định của pháp luật tố tụng thì pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng mà
thay vào đó là sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam (Điều 670 BLDS 2015).
KẾT LUẬN
Pháp luật Hợp đồng có yếu tố nước ngoài của Việt Nam hiện nay, tuy có một số
hạn chế nhất định đang được các nhà làm luật tiếp tục sửa đổi, bổ sung để bắt kịp với
thực tiễn xã hội nhưng nhìn chung được xem là khá tiến bộ và phù hợp với xu hướng
phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hiện nay. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung các chế
định về Hợp đồng đã phần nào quán triệt, thể chế hoá các chủ trương, chính sách về phát
triển kinh tế - xã hội của nhà nước và đáp ứng được các yêu cầu trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Các quy định về giao kết, thực hiện Hợp đồng có yếu tố nước ngoài đã
thể hiện quan điểm tăng cường quyền tự do Hợp đồng thông qua việc các bên được toàn
quyền quyết định về đối tác tham gia ký kết Hợp đồng, hình thức Hợp đồng, nội dung
của Hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi có vi phạm.

HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 17


Do đặc điểm của Hợp đồng có yếu tố nước ngoài là sự tham gia của hai hay
nhiều hệ thống pháp luật và mỗi quốc gia trên thế giới có hệ thống pháp luật riêng của
mình, pháp luật của các nước không hoàn toàn giống nhau, thường có sự khác nhau khi
giải quyết những vấn đề cụ thể, vì vậy, việc áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau sẽ
mang lại hệ quả pháp lý khác nhau. Chính vì vậy để tránh những xung đột pháp luật hay
những rủi ro đáng tiếc trong quá trình giao kết và thực hiện Hợp đồng có yếu tố nước
ngoài, các bên tham gia ký kết cần có sự tìm hiểu rõ ràng về pháp luật nước sở tại cũng

như pháp luật nước ngoài, các Điều ước quốc tế mà các bên cùng tham gia.
Chính vì sự phức tạp của việc thực hiện và giải quyết xung đột về Hợp đồng có
yếu tố nước ngoài, bên cạnh sự nỗ lực của các bên tham gia ký kết Hợp đồng có yếu tố
nước ngoài thì nước ta cũng cần hoàn thiện hơn hệ thống pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi
hơn để áp dụng pháp luật nước ngoài khi có xung đột luật xảy ra. Để làm được điều này,
nước ta cần mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các quốc gia khác trên thế giới, đầu tư
nghiên cứu, học hỏi các chế định, các văn bản luật quốc tế liên quan đến Hợp đồng có
yếu tố nước ngoài để tránh trường hợp gây thiệt hại không đáng có cho các cá nhân,
pháp nhân Việt Nam tham gia mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài./.

HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Page 18


C. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2015
2. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
3. Luật Trọng tài thương mại 2010
4. Luật Thương mại 2005
5. Hiệp định Tương trợ tư pháp Việt Nam và Trung Quốc
6. Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2013
7. Tra Nguyen, Xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài, />8. Định nghĩa Hợp đồng quốc tế, />9. TS Ngô Quốc Chiến và TS Nguyễn Minh Hằng, Pháp luật áp dụng cho các nước có
đủ điều kiện theo luật định trong năm 2015 và đề nghị cho các doanh nghiệp Việt Nam.
10. TS Ngô Quốc Chiến và ThS. LS Nguyễn Tiến Nùng, Những điểm mới của pháp
luật Việt Nam liên quan đến hợp đồng có yếu tố nước ngoài, />11. Phạm Thị Hồng Đào, Quyền lựa chọn pháp luật của các chủ thể có yếu tố nước
ngoài trong Bộ luật Dân sự năm 2015.




×