Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

MÔ HÌNH QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.39 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA MÔI TRƯỜNG

MÔN HỌC: NGUYÊN LÝ TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG

MÔ HÌNH QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ
DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

Cà Mau, tháng 12 năm 2017
1


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG VÀ QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
I. Tổng quan về cộng đồng và quản lý môi trường dựa vào
cộng đồng……………………………………………………………………4
1.1. Khái niệm cộng đồng …………………………………………......4
1.1.1. Định nghĩa ………………………………………………….4
1.1.2. Những thành phần cơ bản của cộng đồng ………………..5
1.1.3. Tổ chức cộng đồng …………………………………………5
1.1.4. Quản lý dựa vào cộng đồng ……………………………….7
1.2. Sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý môi trường ..12
1.2.1.Khái niệm ………………………………………………….12
1.2.2. Vai trò của cộng đồng với kinh tế chất thải …………….12
1.2.3. Các giai đoạn tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý
môi trường ………………….……………………………………………....15
CHƯƠNG 2. SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG VÀO VIỆC QUẢN
LÝ CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ ……………………………………………..16
II. Sự tham gia của cộng đồng vào việc quản lý chất thải rắn đô thị……16


2.1. Quản lý chất thải rắn đô thị ………………………………………..16
2.2. Các nguyên tắc trong quản lý chất thải rắn đô thị dựa vào cộng đồng
……………………………………………………………………….………..16
2.3. Thực trạng quản lý rác thải dựa vào cộng đồng ở Việt Nam……….17
2.3.1. Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý rác thải có sự tham gia của
cộng đồng ở Việt Nam
………………………………………………...….17
2.3.2. Một số hình thức tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý chất
thải rắn đô thị
……………………………………………………….….18
2.4. Một số hình thức tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý chất
thải rắn trên thế giới
……………………………………………...……..21
2.5 Kinh nghiệm xã hội hóa bảo vệ môi trường ở một số nước trên thế giới
….…………………………………………………………………………….23
2.6 Những tồn tại trong hoạt động quản lý rác thải dựa vào cộng
đồng……………………………………………………………………. …….25
III. Bài học kinh nghiệm trong việc quản lý chất thải dựa vào cộng đồng ở
Việt Nam
…………………………………………………………...…26

MỞ ĐẦU
2


Dân số nước ta đang mạnh mẽ cùng với sự đô thị hóa và hình thành, phát
triển của các ngành nghề sản xuất trong thời gian qua, một mặt thúc đẩy phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước, mặt khác đã làm gia tăng nhu cầu tiêu dùng
hàng hóa, nguyên vật liệu, năng lượng và cũng làm gia tăng nhanh chóng lượng
chất thải rắn phát sinh. Chất thải rắn tăng nhanh chóng về số lượng, với thành

phần ngày càng phức tạp đã và đang gây khó khăn cho công tác quản lý, xử lý.
Công tác quản lý, xử lý chất thải rắn ở nước ta thời gian qua chưa được áp
dụng theo phương thức quản lý tổng hợp, chưa chú trọng đến các giải pháp giảm
thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải dẫn đến khối lượng
chất thải rắn phải chôn lấp cao, không tiết kiệm quỹ đất, tại nhiều khu vực chất
thải chôn lấp ở các bãi chôn lấp tạm, lộ thiên, hiện đã và đang là nguồn gây ô
nhiễm môi trường. Ngoài ra, công tác triển khai các quy hoạch quản lý chất thải
rắn tại các địa phương còn chậm; việc huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng
khu xử lý, nhà máy xử lý chất thải rắn còn gặp nhiều khó khăn; đầu tư cho quản
lý, xử lý chất thải rắn còn chưa tương xứng; nhiều công trình xử lý chất thải rắn
đã được xây dựng và vận hành, nhưng cơ sở vật chất, năng lực và hiệu suất xử
lý thải rắn chưa đạt yêu cầu đã gây những tác động tổng hợp tới môi trường, sức
khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế – xã hội.
Áp lực giữa yêu cầu bảo vệ môi trường với tăng trưởng kinh tế và phát
triển bền vững đất nước đặt ra cho các cơ quan quản lý cần đánh giá thực tế tình
hình quản lý chất thải rắn tại Việt Nam và đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu
quả công tác quản lý chất thải rắn nhằm đáp ứng yêu cầu trong công tác bảo vệ
môi trường theo tinh thần Luật bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23
tháng 6 năm 2014.
Rác thải nếu được thu gom và xử lý đúng mức thông qua tái chế, tái sử
dụng…sẽ mang lại các giá trị kinh tế nhất đình, đồng thời tạo được viện làm cho
người dân, nhưng để thu gom, xử lý rác thải có hiệu quả thì cần phải có sự tham
gia của cộng đồng. Cộng đồng đóng vai trò quan trọng, quyết định trong việc xã
hội hóa thu gom rác thải, vì vậy tôi chọn để tài “mô hình quản lý chất thải rắn đô
thị dựa vào cộng đồng”.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG VÀ QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
3



I.Tổng quan về cộng đồng và quản lý môi trường dựa vào cộng đồng
1.1. Khái niệm cộng đồng
1.1.1. Định nghĩa
Có nhiều khái niệm khác nhau về cộng đồng. Thông thường, cộng đồng
được hiểu là tập hợp những người có chung lịch sử hình thành, có chung địa bàn
sinh sống, có cùng luật lệ và quy định hay tập hợp những người có cùng những
đặc điểm tương tự về kinh tế - xã hội và văn hoá. (Phạm Huỳnh Thanh Vân,
2007)
Nói cách khác cộng đồng ở đây là một tập hợp công dân cư trú trong một
khu vực địa lý, hợp tác với nhau về những lợi ích chung và chia sẻ những giá trị
văn hóa chung.
Theo định nghĩa trên cộng đồng có những cái chung: địa lý, văn hóa và
lợi ích. Xác định đúng đắn một cộng đồng sẽ tạo ra sức mạnh của sự tham gia,
tính đồng nhất và khả năng duy trì lâu dài của một hoạt động phong trào.
Đồng nhất về địa lý: yêu cầu cộng đồng phải cùng chung sống trong vùng
địa lý sinh thái, cùng một đơn vị hành chính. Ví dụ cùng một làng, xã, cùng sống
ở một vùng cửa sông, ở ven biển, ven sông hay trên núi.
Đồng nhất về lợi ích: trong trường hợp bảo về môi trường thì lợi ích về
môi trường cần xác định rõ. Ví dụ cộng đồng cùng chịu thiên tai (lũ, lụt, trượt lở
đất), cùng chia sẻ nguồn nước và chịu ảnh hưởng ô nhiễm của nguồn nước đó,
cùng khai thác nguồn lợi của một thủy vực như đầm, phá, vịnh, cửa sông…
Đồng nhất về văn hóa: tùy trường hợp mà tìm kiếm những giá trị văn hóa
chung để tổ chức sự tham gia. Ví dụ cộng đồng được xác định theo dân tộc, theo
nghề nghiệp (cộng đồng nông nghiệp, ngư nghiệp, chăn thả gia súc, làng nghề
thủ công, các doanh nghiệp…)( Lê Vui, 2006).
Hiện nay ở nước ta, thuật ngữ cộng đồng đã được sử dụng khá phổ biến
trong đời sống kinh tế xã hội. Cộng đồng có thể là một nhóm nhỏ dân cư (ví dụ
như cộng đồng dân cư ở một thôn, xã, cộng đồng những người tái chế chất thải
của một thôn, một xã…), hoặc có thể là cộng đồng dân cư của một dân tộc,

nhiều dân tộc cùng chung các điểm tương đồng (cộng đồng người Việt Nam ở
4


nước ngoài, cộng đồng quốc tế những nước nói tiếng Pháp, cộng đồng các nước
ASEN,… (Phạm Huỳnh Thanh Vân, 2007).
Cộng đồng là một tập hợp người có sức bền cố nội tại cao, với những tiêu
chí nhận biết và quy tắc hoạt động, ứng xử chung dựa trên sự đồng thuận về ý
chí, tình cảm, niềm tin và ý thức cộng đồng, nhờ đó các thành viên của cộng
đồng cảm thấy có sự gắn kết họ với cộng đồng và với các thành viên khác trong
cộng đồng. (Phạm Hồng Tung, 2009).
1.1.2. Những thành phần cơ bản của cộng đồng
Nhà tài trợ: đó là một nhà lãnh đạo hoặc cơ quan, cộng đồng, nhóm dân
cư, doanh nghiệp, ... Trách nhiệm của họ là nhận diện các vấn đề và đưa ra đánh
giá. Người triệu tập/nhà lãnh đạo: Có thể là nhà lập pháp, Chủ tịch UBND, đại
biểu hội đồng nhân dân, người đứng đầu trong cộng đồng được kính trọng,...
Với trách nhiệm tập họp mọi người bàn bạc cùng nhau (quá trình đồng thuận của
tất cả các đối tác tham gia); viết văn bản thỏa thuận của tất cả các đối tác; đảm
bảo sự phát triển bền vững, hiệu quả và quá trình tiến hành lâu dài của dự án.
Nhóm trung lập: đó là trường đại học, trung tâm đồng thuận, các tổ chức dân sự,
chương trình mở rộng,... Các nhóm trên chính là nhóm làm việc cộng đồng,
trong quá trình thực hiện dự án cần phải có sự phối hợp đồng bộ và có sự phân
chia trách nhiệm rõ ràng cho các nhóm.(Đỗ Thị Kim Chi, 2006).
1.1.3. Tổ chức cộng đồng.
Tuỳ theo lịch sử hình thành hay đặc điểm của cộng đồng, có các loại cộng
đồng sau:
- Cộng đồng người địa phương, là những người có quan hệ gần gũi với
nhau, thường xuyên gặp mặt ở địa bàn sinh sống;
- Cộng đồng những người có chung những quan tâm đặc điểm, tính chất
(cộng đồng các nhà nghiên cứu, cộng đồng doanh nhân,…);

- Cộng đồng những người có chung những quan tâm đặc điểm, tính chất,
màu da (cộng đồng người dân tộc thiểu số, cộng đồng người da màu,…);

5


- Cộng đồng có quan niệm chung về các vấn đề quan hệ xã hội, có chung
mục tiêu, quan điểm chung về giá trị, cùng tham gia vào quá trình ra quyết
định(cộng đồng các nước ASEAN, các nước Pháp ngữ,…).
Tổ chức cộng đồng là một khối liên kết của các thành viên trong cộng
đồng vì những mối quan tâm chung và hướng tới một quyền lợi chung, hợp sức
với nhau để tận dụng tiềm năng, trí tuệ của nhau để cùng thực hiện một hoặc
nhiều vấn đề. (Hồ Thanh Mỹ Phương, 2006)
Ở Việt Nam, hiện đang có các loại tổ chức cộng đồng sau đây: (Phạm
Huỳnh Thanh Vân, 2007)
- Tổ chức cộng đồng thành lập theo pháp luật về hội, như liên hiệp hội,
tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ;
- Tổ chức cộng đồng dưới dạng nhóm tự quản như: bản, ấp, nhóm dự án,
nhóm sở thích, câu lạc bộ, tổ hoà giải, tổ dân phố,… Các tổ chức này không có
luật quy định thành lập hay cấm thành lập;
- Tổ chức cộng đồng thành lập theo quy định pháp lý về kinh tế, hợp tác,
như: tổ hợp tác, hợp tác xã,… Một số đặc điểm của cộng đồng người Việt Nam
(Mai Văn Tài, 2006)
- Chưa phát triển nếp sống theo pháp luật, còn nhiều tục lệ ngoài luật.
- Văn hóa nông nghiệp, nông thôn còn sâu đậm; thiếu hoặc chưa hoàn hảo
văn hóa đô thị, văn hóa khoa học – công nghệ, văn hóa môi trường; hay dễ dãi,
tùy tiện.
- Ứng xử tình trước, lý sau, duy tình hơn duy lý.
- Tín ngưỡng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đức tin, lối sống hàng ngày.
- Tiếng phổ thông (tiếng Việt) có nhiều phương ngữ khác nhau, dễ gây

hiểu lầm; còn nhiều bà con dân tộc ít người chưa thạo tiếng phổ thông; không ít
người dù được học hành chu đáo nhưng nói và viết tiếng phổ thông vẫn chưa
chuẩn. Với một số đặc điểm như đã nêu trên của cộng đồng đòi hỏi nhà quản lý
khi tổ chức các hoạt động thu hút sự tham gia của người dân vào bảo vệ môi
trường phải biết rõ về cộng đồng: Họ là ai? Họ có những thói quen, tập quán,

6


phong tục, tín ngưỡng thế nào? Tức là phải hiểu rõ đặc trưng văn hóa cộng
đồng, nhất là tập quán sản xuất và lịch thời vụ của họ.
1.1.4. Quản lý dựa vào cộng đồng.
Khái niệm về sự tham gia của cộng đồng: có nhiều cách hiểu khác nhau về
sự tham gia của cộng đồng:
Paul (1987) cho rằng, phát triển cộng đồng là một quá trình tích cực mà
cộng đồng tác động đến hướng và việc thực hiện dự án phát triển nhằm nâng cao
phúc lợi của họ về mặt thu nhập, phát triển cá nhân, niềm tin cá nhân hoặc các
giá trị khác mà họ mong muốn.
Tổ chức phát triển Quốc tế Canada (CIDA) quan niệm tham gia cộng đồng
là thu hút các nhóm đối tượng mục tiêu vào các khâu của chu trình dự án từ thiết
kế, thực hiện và đánh giá dự án với mục tiêu nhằm xây dựng năng lực của người
nghèo để duy trì được cơ sở hạ tầng và kết quả mà dự án đã tạo ra được trong
quá trình thực hiện, và tiếp tục phát triển sau khi tổ chức hay cơ quan tài trợ rút
khỏi dự án. Cách tiếp cận này được sử dụng khá phổ biến trong các lĩnh vực, các
dự án trên thế giới.
*Vì sao cần có sự tham gia của cộng đồng?
“Mỗi người đều có quyền sống trong một môi trương lành mạnh và có
nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Để khẳng định quyền hạn này và đáp ứng nghĩa vụ
này, các công dân phải được tiếp cận với thông tin, được quyền tham dự trong
quá trình ra quyết định và có sự công bằng trong các vấn đề môi trường. Thông

tin đảm bảo rằng cộng đồng có thể tham gia trong một tình huống có thể thông
báo và tiếp cận với sự công bằng để đảm bảo rằng sự tham gia diễn ra trên thực
tế và không chỉ trên giấy tờ” (UN/ECE 2000)
*Tham gia của cộng đồng là gì?
Là cách thức làm việc với cộng đồng mà các quyết định sẽ chỉ thực hiện
khi nó đem đến một môi trường trong lành và đáp ứng các nhu cầu của cộng
đồng địa phương cho một cuộc sống tốt đẹp hơn (UN/ECE 2000). Sự tham gia
của cộng đồng tạo cho họ có cơ hội hình thành một quan điểm về một kế hoạch

7


và giúp chính quyền biết được quan điểm này trước khi ra quyết định, nghĩa là
một sự thông tin 2 chiều thực sự.
Luật Môi trường Việt Nam có nêu rõ “ Bảo vệ môi trường là sự nghiệp
của toàn dân”. Trong khi phải đương đầu với các vấn đề suy thoái môi trường
gia tăng do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng. Các địa
phương cần phát huy vai trò tối đa của cộng đồng trong mọi hoạt động bảo vệ
môi trường.
Một giải pháp hiệu quả để duy trì công tác bảo vệ môi trường, giảm ô
nhiễm là nâng cao nhận thức cộng đồng, hỗ trợ để dân chúng nhận biết và hiểu
được các vấn đề của họ, tạo điều kiện để họ tự nguyện tham gia vào các hoạt
động bảo vệ môi trường; và kết hợp chặt chẽ biện pháp này để họ tự nguyện
tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường; và kết hợp chặt chẽ với các
biệnpháp quản lý của chính quyền các cấp.
Muốn nâng cao vai trò của tác nhân cộng đồng trong công việc quản lý
môi trường cần phải tuân thủ phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”,
phải xã hội hóa công tác quản lý và bảo vệ môi trường, đơn giản hóa các khái
niệm môi trường để người dân dễ hiểu, dễ thực hiện; cần xây dựng các chương
trình hành động bảo vệ môi trường có tính khả thi cao và dễ duy trì liên tục, lâu

dài. Khi nào người dân thấy được lợi ích và trách nhiệm của mình trong việc
quản lý và bảo vệ môi trường thì khi đó họ mới thực hiện các hành vi đó.
Nhận biết, bàn, làm, kiểm tra là sáng tạo của Việt Nam trong quá trình
thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Áp dụng
quy trình này vào tổ chức sự tham gia của cộng đồng vào bảo vệ môi trường,
cần xác định rỏ nội dung và mối tương quan của 5 bước (Trương Văn Trưởng,
2010)
Bước 1 – Nhận: Để huy động sự tham gia của cộng đồng về bảo vệ môi
trường, cần làm rõ khi tham gia, cộng đồng nhận được những gì, họ sẽ được lợi
gì. Có thể cụ thể hóa các lợi ích như: lợi ích vật chất, ví dụ được vay vốn; lợi ích
tinh thần, ví dụ danh tiếng của làng; lợi ích về chất lượng môi trường sống, ví dụ
có nước sạch, rác được quản lý, giảm bệnh tật…
8


Bước 2 – Biết: Tăng cường nhận thức của cộng đồng qua các câu hỏi liên
quan đến sự tham gia của họ vào một nhiệm vụ, dự án, chương trình cụ thể.
Bằng cách giải đáp 6 câu hỏi sau: Nhiệm vụ đó là gì? Tại sao lại có nhiệm vụ
đó, tại sao họ cần tham gia? Tham gia vào nhiệm vụ đó như thế nào? Thực hiện
nhiệm vụ đó ở đâu? Thực hiện nhiệm vụ khi nào? Bao lâu? Những ai được/phải
tham gia? Bước 3 – Bàn: Tổ chức cho cộng đồng bàn bạc về các giải pháp mà
họ sẽ thực hiện khi tham gia vào chương trình/dự án/nhiệm vụ; bàn bạc về
những gì họ

sẽ nhận được và trách nhiệm của họ trong chương trình/dự

án/nhiệm vụ.
Bước 4 – Làm: Tổ chức cho cộng đồng thực hiện các giải pháp, các nhiệm
vụ.
Bước 5 – Kiểm tra: Tổ chức cho cộng đồng hoặc đại diện cộng đồng có

thể kiểm tra tiến trình thực hiện nhiệm vụ, kết quả của dự án, quyền lợi họ được
nhận. Những hình thức như các tổ tình nguyện, tổ tự quản… có thể được thành
lập.
Để giúp cho việc thực hiện quy trình 5 bước, có thể tổ chức các hình thức
họp, truyền thông, tập huấn…
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của các hoạt động nâng cao nhận thức cộng
đồng, cần chú ý đến một số khía cạnh sau:
- Nội dung các chương trình đào tạo hoặc các hoạt động: cần gắn liền với
tình hình cụ thể của địa phương để người tham gia các chương trình đào tạo
hoặc hoạt động thấy được những lợi ích thiết thực do các hoạt động hoặc
chương trình này đem lại.
- Cần quan tâm đến lối sống, phong tục tập quán đặc thù cùa địa
phương.Có nắm được đặc trưng của dân cư thì mới hiểu được điều cơ bản nhất
trong hoạt động của địa phương, từ đó có cơ chế quản lý, tổ chức và kiểm soát
hoạt động thông qua cơ chế tự điều chỉnh là hiệu quả nhất. Lối sống nông thôn
mang tính chất tập thể cao, trong đó mỗi thành viên lệ thuộc chặt chẽ vào cộng
đồng. Mỗi người sinh ra là đã có vị trí mặc định trong làng xóm và phong cách
sống gần như tương tự nhau. Còn lối sống đô thị có cấu trúc và tính chất khác
9


hẳn, nó được hình thành trên nền tảng phức hợp, đa thành phần, đa dân tộc của
đô thị trên toàn bộ cơ sở vật chất, điều kiện sống hoạt động nghề nghiệp và mối
quan hệ xã hội của tất cả các nhóm cư dân sống trên địa bàn đô thị. (Nguyễn
Việt Dũng- Nguyễn Danh Tĩnh, 2006)
Với những đặc thù về lối sống của từng địa phương, các hoạt động muốn
tăng cường dự tham gia của cộng đồng dân cư cũng cần lưu ý đến khía cạnh này
trong công tác tổ chức. Ví dụ: tổ chức các khóa tập huấn, tuyên truyền: có thể
linh động tổ chức vào những giờ thuận tiện trong sinh hoạt của người dân tại địa
phương; chọn phương tiện truyền thông thích hợp; lồng ghép các chương trình

vào các hoạt động văn hóa, lễ hội của địa phương. Phối hợp và phát huy hiệu
quả các phương tiện truyền thông đại chúng (tivi, đài phát thanh truyền hình,
báo chí, tờ rơi…) trong việc kêu gọi sự tham gia của cộng đồng.
* Quá trình phát triển sự tham gia của cộng đồng
Trước những năm 80, các hoạt động, các chương trình có mục tiêu phục vụ
cộng đồng đều được đề xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện từ cơ quan trung
ương. Thời kỳ này, người ta mới khuyến khích sự tham gia của các ngành vào
chương trình hay hoạt động. Sự hiện diện của các cộng đồng còn rất ít. Vì thế
tính bền vững của chương trình hay hoạt động không được đảm bảo. Khi kết
thúc chương trình hay hoạt động do Chính phủ hay nhà đầu tư tài trợ, các kết
quả của nhiều dự án không được duy trì và phát huy tốt ở các địa phương. (Hồ
Thanh Mỹ Phương, 2006)
Cách tiếp cận sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động, các chương
trình được phát triển mạnh mẽ vào những năm 80 – 90 của thế kỷ 20, đặc biệt là
áp dụng cho các chương trình của tổ chức phi Chính phủ, chương trình thí điểm
liên quan nhiều đến cộng đồng như phát triển đô thị và nông thôn, xoá đói, giảm
nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, chương trình bảo vệ môi trường,
các quỹ xã hội, v.v… Với cách tiếp cận này, các Chính phủ, các nhà đầu tư và
nhất là các nhà tài trợ ở các nước phát triển đã đưa ra các sáng kiến thúc đẩy sự
tham gia của cộng đồng. Kết quả cho thấy tính bền vững được tăng cường,

10


nhưng quy mô còn hạn hẹp và tính đồng thời trong tham gia của cộng đồng vào
các khâu của chương trình, hoạt động còn hạn chế.
Cách tiếp cận phát triển định hướng cộng đồng hay còn gọi là phát triển
dựa trên cộng đồng được áp dụng phổ biến từ năm 2000. Các chương trình, dự
án phát triển định hướng cộng đồng có đặc điểm là trao cho cộng đồng quyền
kiểm soát quá trình ra quyết định và đóng góp nguồn lực vào việc lập kế hoạch,

thiết kế, thực hiện, vận hành, bảo trì những cơ sở hạ tầng. Các chương trình phát
triển định hướng cộng đồng ở thời kỳ này có quy mô lớn hơn so với chương
trình có sự tham gia của cộng đồng và không chỉ dừng lại ở sự tham gia mà tăng
cường sự quản lý của cộng đồng và sự tham gia của chính quyền địa phương,
gắn kết với cải cách ở mức độ rộng hơn và tính thực thi cao hơn. Mức độ trao
thẩm quyền khác nhau trong các chương trình, dự án. Mức trao thẩm quyền thấp
nhất là các tổ chức nhà nước và nhà đầu tư quản lý nguồn vốn đầu tư và thực
hiện các hoạt động, nhưng có lấy ý kiến tham vấn của tổ chức cộng đồng. Mức
trao thẩm quyền cao là tổ chức cộng đồng tham gia vào kiểm soát các quyết
định đầu tư, quản lý các nguồn vốn đầu tư và chịu trách nhiệm toàn bộ các hoạt
động. Mức trao quyền cho tổ chức cộng đồng phụ thuộc vào các yếu tố: (Đỗ Thị
Kim Chi, 2004)
- Năng lực và sự sẵn sàng của cộng đồng để huy động và tổ chức;
- Sự sẵn sàng và phương pháp mà các cấp chính quyền cao hơn trao quyền
cho cấp dưới;
- Sự hạn chế của khung pháp lý đối với cộng đồng trong việc tiếp nhận
quyền kiểm soát các nguồn vốn nhà nước hay nhà tài trợ phát triển chính thức
(ODA);
- Khoảng cách xa xôi của các cộng đồng có thể gây khó khăn cho việc
thực hiện;
- Trình độ học vấn của cộng đồng cũng ảnh hưởng đến việc chuẩn bị tài
liệu của chương trình, dự án và báo cáo;
- Tính chất của công việc sẽ tiến hành.

11


Tuy nhiên, phát triển định hướng cộng đồng không phải là thích hợp và
mang lại hiệu quả với mọi trường hợp. Có các trường hợp mà tư nhân hay tổ
chức công đảm nhiệm tốt hơn, mang lại ích lợi lớn hơn cho địa phương…

Việc phát triển định hướng cộng đồng thích hợp khi các nhóm cộng đồng
có lợi thế cạnh tranh, như các hàng hóa, dịch vụ quy mô nhỏ đòi hỏi sự hợp tác
của địa phương (ví dụ thu gom chất thải tại địa phương), các hàng hóa sử dụng
chung (như thủy lợi), các hàng hóa công (bảo dưỡng đường sá, công trình hạ
tầng của thôn, xã) và các chương trình hay hoạt động mà vấn đề giao việc quản
lý ở cấp thấp nhất thích hợp. (Nguyễn Việt Dũng- Nguyễn Danh Tĩnh, 2006)
1.2. Sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý môi trường
1.2.1. Khái niệm
Là phương thức bảo vệ môi trường trên cơ sở một vấn đề môi trường cụ
thể ở địa phương, thông qua việc tập hợp các cá nhân và tổ chức cần thiết để giải
quyết vấn đề đó. Phương pháp này sử dụng các công cụ sẵn có để tập trung cải
tạo hoặc bảo vệ một tài nguyên nào đó hay tạo ra lợi ích về môi trường như dự
án tái tạo năng lượng, phục hồi lưu vực,... Và đồng quản lý tài nguyên đó thông
qua sự hợp tác giữa các đối tác chính quyền, doanh nghiệp, các tổ chức phi
chính phủ và cộng đồng dân cư.
1.2.2. Vai trò của cộng đồng với kinh tế chất thải
- Kinh tế chất thải là một phạm trù đề cập đến những khía cạnh kinh tế
trong quá trình xử lý chất thải, từ khâu phát sinh, phân loại, thu gom, vận
chuyển, tái sử dụng, tái chế, chôn lấp chất thải cũng như áp dụng các công cụ
kinh tế trong quản lý chất thải. Dân chúng trong cộng đồng đều trực tiếp hay
gián tiếp liên quan đến các khâu này với tư cách hoặc là chủ thể của hoạt động,
hoặc/và là đối tượng thụ hưởng hay đối tượng chịu tác động của các hoạt động
đó về mặt kinh tế hay vệ sinh, sức khỏe, hoặc cả hai. Chính vì vậy, tổ chức cộng
đồng có vai trò quan trọng đối với các thành viên của mình thông qua các quy
định của cộng đồng. (Trương Thành Nam, 2007).
- Phát triển sự tham gia của cộng đồng về kinh tế chất thải chính là mở
rộng vai trò quản lý của quần chúng nhân dân đối với chất thải. Mở rộng chuyển
12



dịch năng lực quản lý chất thải về khía cạnh kinh tế từ trung ương tới địa
phương, từ cấp lãnh đạo đến người dân, tăng cường sự tham gia của mọi người
dân đối với rác thải. Mọi người dân được tham gia vào quá trình xác định lợi ích
và ra quyết định, tăng cường mối quan hệ cộng tác giữa chính quyền trung ương
với các cấp địa phương trong vấn đề quản lý chất thải mang lại hiệu quả kinh tế,
xã hội cao nhất. Vai trò của cộng đồng và tham gia cộng đồng về kinh tế chất
thải thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tính phức tạp, đa dạng về nhiều mặt của kinh tế chất thải cần
huy động sự tham gia của nhiều người và nâng cao trách nhiệm của tất cả mọi
người trong xã hội, bất kể họ thuộc đối tượng nào. Việc phát sinh chất thải
không chỉ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động xã hội khác
mà ngay cả trong sinh hoạt hàng ngày. Trung bình, lượng chất thải sinh hoạt
chiếm từ 50 –70 % tổng lượng thải của một địa phương hay quốc gia. Mọi người
dân đều tham gia vào quá trình phát sinh chất thải này dưới các giác độ khác
nhau. Các hoạt động liên quan đến phân loại tại nguồn hay vận chuyển chất thải
cũng thu hút nhiều nhóm đối tượng khác nhau: nhóm những người nội trợ trong
gia đình, nhóm những người nhặt rác, nhóm những người thu gom rác cấp tổ
dân phố, thôn/xã, nhóm những người thuộc Công ty Môi trường Đô thị,…
Thứ hai, cộng đồng đảm bảo cho hoạt động quản lý chất thải phát triển
bền vững, bởi lẽ:
Họ có kiến thức về địa bàn sinh sống, làm việc, chính vì vậy họ nắm rõ
các đặc thù, điều kiện cũng như vấn đề văn hóa, xã hội ở địa bàn, nắm rõ các
nhu cầu cũng như các phương tiện hiện có để quản lý chất thải ở địa phương. Họ
là những người triển khai mọi hoạt động, chính sách, chiến lược, chương trình.
Các quyết định có sự tham gia của cộng đồng sẽ trở nên có cơ sở thực tiễn và
đây là căn cứ đảm bảo cho tính khả thi của các quyết định về quản lý chất thải
về mặt kinh tế. Chẳng hạn, việc đề ra phí thu gom chất thải rắn không thể nào áp
dụng một mức như nhau cho tất cả các địa phương, mà phải phân cấp cho các
địa phương quyết định trên cơ sở lấy ý kiến cộng đồng


13


Với những quy tắc ứng xử phù hợp và chuẩn mực đạo đức áp dụng trong
cộng đồng sẽ đem lại những thay đổi về hành vi cá nhân theo chiều hướng tích
cực trong bảo vệ môi trường.
Thứ ba, các tổ chức trong cộng đồng khuyến khích và hợp pháp hóa sự
tham gia của các cá nhân trong mọi khâu của quản lý tổng hợp chất thải và đem
lại những lợi ích về kinh tế và xã hội đáng kể bởi các lý do sau đây: Có sự tham
gia của cộng đồng sẽ góp phần điều tiết trong sử dụng nguồn lực đảm bảo tính
bền vững trong quản lý chất thải; Tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hiệu quả
nhất khi biết vận dụng kiến thức của người dân địa phương; Huy động được các
nguồn lực tài chính sẵn có trong cộng đồng vào việc làm kinh tế từ chất thải, từ
đó tạo cơ hội để nâng cao thu nhập của người dân; Có sự tham gia của cộng
đồng sẽ đảm bảo giám sát đánh giá các chương trình liên quan đến quản lý tổng
hợp chất thải nhanh và ít tốn kém hơn, cho phép điều chỉnh kịp thời; Phát huy
được tinh thần tự chủ, trao quyền và tạo cho người dân có tiếng nói dẫn đến
những thay đổi về năng lực làm chủ của họ, và tăng trách nhiệm của họ trong
các khía cạnh của kinh tế chất thải, từ sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên
thông qua sử dụng tiết kiệm nhiên liệu, nguyên liệu, tái sử dụng, tái chế chất
thải, đến quản lý chất thải một cách hiệu quả thông qua việc tổ chức thu gom,
vận chuyển hợp lý và đưa ra các phương án xử lý cũng như chôn lấp thích hợp;
Duy trì được các hoạt động thông qua hợp tác trong cộng đồng và thể chế hóa sự
tham gia của cộng đồng; Nâng cao được nhận thức của mọi người trong cộng
đồng về bảo vệ môi trường thông qua sự tác động lẫn nhau của các thành viên
trong cộng đồng. (Trương Thành Nam, 2007)
Kinh nghiệm của Indonesia (AS 5-13) rõ ràng rằng nhu cầu cần thiết là
điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công dự án quản lý chất thải rắn dựa vào
cộng đồng. Thông thường, nhu cầu thực sự đối với việc thu gom chất thải rắn
đang tồn tại ở các khu vực lân cận, nơi có mật độ dân số cao, nơi có ít không

gian để chứa rác và nơi bãi chôn rác ở xa. Hơn nữa, cơ hội quản lý chất thải rắn
là một vấn đề cấp cao của cộng đồng sẽ cao hơn, khi sáng kiến cho một dự án
quản lý chất thải rắn xuất phát từ chính cộng đồng.
14


Nguồn: Anschtz, J. 1996
1.2.3. Các giai đoạn tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý môi
trường.
Sự tham gia của cộng đồng được phân làm 4 giai đoạn như sau:
Giai đọan lập kế hoạch dự án hay hoạt động: ở giai đoạn này sự tham gia
của cộng đồng bao gồm việc tham gia góp ý kiến và thông tin khảo sát của chính
quyền địa phương hay cơ quan tư vấn để xác định nhu cầu của cộng đồng, năng
lực tài chính và vật chất trong việc tiếp nhận dự án huy hoạt động, xác định
thiện ý và mức độ tham gia của cộng đồng ở các giai đoạn tiếp theo của dự án.
Giai đoạn chuẩn bị kế hoạch khả thi của dự án hay hoạt động: Cộng đồng
có thể đóng vai trò tích cực trong việc lập kế hoạch và thiết kế dự án thông qua
việc đóng góp đầu vào cho các nhà thiết kế kỹ thuật như các thông tin về lượng
rác thải của các hộ, xu thế gia tăng hay giảm lượng rác thải… khả năng tài chính
chi trả cho việc thu gom rác thải…hay được tham khảo ý kiến liên quan đến
phương án giám sát dự án hoạt động.
Giai đọan thực hiện dự án hay hoạt động: Vai trò của cộng đồng bao gồm
từ việc tham khảo ý kiến hay chịu trách nhiệm toàn bộ về công tác quản lý dự
án, đấu thầu, ký hợp đồng thực hiện, giám sát tiến độ hay ở một số hoạt động
nào đó có thể tham gia gia giám sát kỹ thuật hay giám sát tài chính. Cộng đồng
củng có thể tham gia ở góc độ đóng góp công lao động, đóng góp tài chính,
đóng góp vật tư cho dự án hay hoạt động nhất là đối với các công trình công
cộng có liên quan đến quản lý chất thải (Đỗ Thị Kim Chi, 2004).
Sau giai đoạn khi kết thúc dự án: vai trò của cộng đồng là duy trì hoạt
động hay kết quả của dự án thông qua việc góp kinh phí hoặc vật chất để đảm

bảo sự tiếp tục của dự án sau khi nhà đầu tư đã hoàn thành xây dựng khai triển
khai những công việc của dự án.

CHƯƠNG 2. SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG VÀO VIỆC
QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ
II. Sự tham gia của cộng đồng vào việc quản lý chất thải rắn đô thị
15


2.1. Quản lý chất thải rắn đô thị
Quản lý chất thỉa rắn là vấn đề then chốt của việc đảm bảo môi trường sống
của con người mà các đô thị phải có kế hoạch tổng thể quản lý chất thải rắn
thích hợp mới có thể xử lý kịp thời và có hiệu quả.
2. Các nguyên tắc trong quản lý chất thải rắn đô thị dựa vào cộng
đồng
- Ranh giới phải được xác đinh rỏ ràng: xác định được địa điểm cụ thể để
thực hiện việc quản lý chất thải dựa vào cộng đồng. phải có sự phân công cụ thể,
rỏ ràng, công việc đến từng đối tượng, tránh tình trạng xung đột, hồng chéo
trong quản lý. Xem xét sự hợp tác của người dân để từ đó có hướng đi đúng dắn
và kế hoạch sao cho phù hợp đồng thời phối hợp với chính quyền địa phương để
có sự hỗ trợ tốt nhất.
- Có sự cân đối giữa chi phí và lợi ít : cần gắn kết giữa mục tiêu quản lý
chất thải với tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm cho người dân, khi người dân
thu được lợi ít từ hoạt động quản lý rác thải thì họ sẽ tích cực tham gia. Mặt
khác việc thu phí cho hoạt động quản lý môi trường củng được tính theo tỉ lệ để
đảm bảo công bằng. thu phí dựa trên lượng rác chẳng hạn. ví dụ xác định lượng
rác bằng túi rác. Nếu thải ra 02 túi thì họ phải trả gấp đôi phí so với 01 túi
(Nguyễn Thế Chinh, 2003)
- Tham khảo ý kiến cộng đồng: cộng đồng dân cư được phép tổ chức và
tham gia góp ý kiến cho sự hoạt động có hiệu quả hay không hiệu quả của hệ

thống quản lý rác thải cộng đồng. họ được khuyến khích đưa ra các ý kiến đóng
góp của mình trong các cuộc thảo luận. những ý kiến này rất quan trọng vì
người dân là người hiểu rỏ nhất về môi trường sống sung quanh họ và họ là
người được lợi nhất nếu những ý kiến đó được thực hiện.
- Có sự giám sát của cộng đồng: mọi hoạt động, muốn có hiều quả cần
phải có sự giám sát. Hoạt động quản lý diễn ra trên địa bàn nào thì người dân ở
đó sẽ là người có quyền được giám sát. Người dân tham gia giám sát giúp dự án
hoạt động có hiệu quả về thời gian, chất lượng. giám sát của người dân là một
nguyên tắc giúp cho dự án vận hành tốt, tránh những sai phạm có thể xảy ra.
16


- Thưởng phạt rỏ ràng: những cá nhân tham gia quản lý rác thải cộng
đồng chịu sự giám sát của các tổ chức, đặc biệt sự giám sát của cộng đồng về
các hoạt động. thông qua đó, các hành vi sai trái bị phát hiện và bị xử phạt,
những hành động có lợi cho cộng đồng được khuyến khích và khen thưởng. Có
những mức phạt khác nhau đối với từng hành vi sai trái khác nhau, chính điều
này sẽ khuyến khích người dân làm việc có hiệu quả hơn.
- Công nhận quyền hạn, tổ chức: tổ chức thực hiện việc quản lý rác thải
cộng đồng có đủ quyền hạn về tổ chức và thự hiện nhiệm vụ của mình không
không được làm ảnh hưởng tới các cộng đồng khác. điều này có ý nghĩa rất quan
trọng vì vấn đề người dân đưa ra nhiều khi liên quan đến nhiều lĩnh vực khác
chứ không phải chỉ về môi trường, vì thế nguyên tắc này đưa ra nhằm khuyến
khích người dân nêu ra ý kiến của mình.
2.3. Thực trạng quản lý rác thải dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
2.3.1. Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý rác thải có sự tham gia
của cộng đồng ở Việt Nam.
Cộng đồng địa phương là nguồn đóng góp ý kiến, cho các chủ trương,
chính sách của Nhà nước và các dự án đầu tư là người thực hiện, người kiểm tra
giám sát việc thực hiện, triển khai các dự án, các chủ trương, chính sách tại địa

phương, tại cộng đồng. cộng đồng địa phương củng là cơ sở để thực hiện xã hội
hóa công tác bảo vệ môi trường, thực hiện chủ trương dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, phát huy dân chủ từ cơ sở. (Lê Văn Khoa, Lê Thị Minh Ánh,
2008)
Quyết định số 256/ 2013/ QĐ- TTg, ngày 03/12/2003 của Chính phủ phê
duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 cũng nêu “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, của các
cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của mọi người” .Quyết định số 256/
2013/ QĐ- TTg, ngày 03/12/2003 của Chính phủ về “ tư vấn, phản biện và giám
định xã hội” đã xác định vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp
trong việc tham gia đóng góp ý kiến và thực hiện chính sách, các kế hoạch, các
dự án phát triển kinh tế, xã hội và môi trường (Luật Bảo vệ Môi trường năm
17


2014). Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về chủ
trương “Đẩy mạnh xã hội hóa về bảo vệ môi trường”.
2.3.2. Một số hình thức tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý
chất thải rắn đô thị.
2.3.2.1. Trường hợp tham gia cộng đồng vào thu gom, vận chuyển chất
thải rắn đô thị ở Tam Kỳ, Quảng Nam
Năm 2000, Thị xã Tam Kỳ có 172.224 khẩu (40.005 hộ), trong đó khu
vực nội thị gồm 7 phường, có 55.188 khẩu (12.121 hộ). Lượng rác thải sinh hoạt
hằng ngày trên 200 khối, khu vực nội thị 80 khối. Rác thải sinh hoạt Thị xã Tam
Kỳ, nhất là khu vực nội thị tăng rất nhanh, dự kiến đến năm 2005 rác thải cả thị
xã khoảng 460 khối/ngày, trong đó nội thị 146 khối. Để thu gom lượng rác này,
hằng năm ngân sách địa phương chi khoảng 200 triệu đồng và thu tiền phí của
dân là trên 400 triệu đồng (năm 2001 là 460 triệu đồng). Công ty Môi trường đô
thị Tam Kỳ không thể bao quát hết việc thu gom và vận chuyển rác của thị xã.
Hơn nữa, ý thức của dân chúng trong việc quản lý chất thải thấp, ỷ lại cho Nhà

nước. Trước tình hình này, Ủy ban Nhân dân Thị xã, với sự tư vấn của Công ty
Môi trường Đô thị Tam kỳ đã xây dựng mô hình cộng đồng tham gia giữ vệ sinh
môi trường và thu gom, vận chuyển chất thải ở những nơi công cộng, đường
phố.
Đảng Ủy phường ra Nghị quyết về nhiệm vụ quản lý chất thải trên địa bàn
phường, không để tình trạng vứt rác ra đường hay không tập trung để thu gom.
UBND phường đề ra chương trình quản lý chất thải trong phường, trong đó có
thống kê tình hình rác thải để biết lượng rác thải trong ngày, các điểm thu gom,
và lập tổ vệ sinh môi trường.
UBND phường lập ban vệ sinh do đồng chí Chủ tịch phường trực tiếp chỉ
huy, gồm các thành phần: Mặt trận, phụ nữ, thanh niên, y tế, công an, phường
đội. Giúp việc cho ban có hai tổ chuyên trách gồm lực lượng công an và dân
phòng phường, mỗi tổ 4 người.
Cộng đồng dân cư tham gia vào chương trình này được tham khảo ý kiến về
lượng rác thải ra, giờ thu gom rác, mức phí nộp, đóng góp ý kiến để hoàn thiện
18


cách quản lý rác thải trong phường thông qua các buổi sinh hoạt tổ dân phố.
Người dân sống trong địa bàn đã có tổ chức vệ sinh môi trường hoạt động, được
quyền giao rác thải của hộ gia đình mình cho tổ chức vệ sinh môi trường; giám
sát hoạt động của tổ vệ sinh môi trường, giám sát việc giải quyết rác thải của các
đơn vị đóng trên địa bàn; kiến nghị với các cấp chính quyền về công tác quản lý
rác thải, quản lý rác chung quanh khuôn viên nhà mình. Song song với các
quyền trên, người dân nơi đây có trách nhiệm không thải đổ rác ra nơi công
cộng; thực hiện phân loại rác, rác chứa trong sọt và để nơi thuận lợi trong nhà;
giao rác cho người thu gom đúng thời gian, đúng phương thức; đóng tiền hàng
tháng; phát hiện và tố giác hành vi thải đổ rác không đúng nơi quy định.
Hội phụ nữ tham gia công tác quản lý bồ rác và thu tiền rác hằng tháng
(được hưởng 4% trên tổng doanh thu), trang bị sọt rác đồng bộ. Kết hợp với Xí

nghiệp Môi trường Đô thị Tam Kỳ tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức cho
hội viên một cách thường xuyên; phát động và duy trì hàng tuần làm vệ sinh
trước, xung quanh nhà, tham gia tổng dọn vệ sinh nơi công cộng; giám sát hoạt
động của tổ vệ sinh môi trường.
Mặt trận tổ quốc phường đưa công tác vệ sinh môi trường là một trong
các nội dung chính của việc xây dựng tổ văn hóa mới, có kế hoạch chỉ đạo và
kiểm tra đôn đốc thực hiện.
Đoàn thanh niên phường tổ chức Đội tình nguyện xanh, hoạt động vào
ngày chủ nhật hàng tuần về giải quyết rác nơi công cộng, tổ chức tuyên truyền
và công tác rác thải và tuần tra, phát giác các trường hợp đổ thải rác bừa bãi với
UBND phường. Công an, Y tế phường thực hiện công tác kiểm tra, xử lý các
trường hợp vi phạm theo quy định của Nhà nước.
Tổ chức Vệ sinh Môi trường địa phương: thực hiện việc thu nhận rác từ
hộ dân một cách thường xuyên, đúng giờ (lưu ý thời điểm thu nhận rác thải có
kế hoạch cho từng cụm, khu phố một cách khoa học và phù hợp thực tiễn), khi
thu rác phải có kẻng hiệu (nếu xe thô sơ), nhạc hiệu (nếu xe ô tô), hướng dẫn
việc tuyển rác hộ nhân dân, đảm bảo chất lượng phục vụ, xác định tuyến đường,
khu phố cần quét rác hộ nhân dân, để thực hiện theo lịch được duyệt.
19


Kết quả hoạt động của mô hình này là lượng rác được quản lý nhiều hơn,
rác công cộng được giải quyết, rác công nghiệp, y tế bước đầu đưa vào quản lý
đúng theo quy định. Công tác thu gom rác tốt sẽ góp phần giảm ô nhiễm môi
trường. Mặt khác, nhận thức của cộng đồng, các cấp chính quyền, đoàn thể về
môi trường được nâng lên và về kinh tế tăng thu từ cộng đồng, giảm chi phí bù
ngân sách, việc tuyển loại rác ngay tại hộ gia đình để tận dụng, tái sinh rác là
góp phần tạo của cải vật chất xã hội, giảm bớt lượng rác cần xử lý.
Nguồn: Kinh tế chất thải – Tài liệu dành cho khóa đào tạo quản lý tổng
hợp chất thải. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.

2.3.2.2. Trường hợp cộng đồng tham gia thu gom chất thải ở Thạch
Kim, Thạch Hà, Hà Tĩnh
Thạch Kim (Thạch Hà, Hà Tĩnh) là một xã ven biển, nghề sản xuất chính
là khai thác cá biển, chế biến hải sản, đóng và sửa chữa tàu thuyền, máy móc cơ
khí và buôn bán dịch vụ. Bình quân thu nhập đầu người hàng năm đạt 1.600.000
đồng/người. Tuy nhiên, hiện tại số hộ dân trong diện đói nghèo của xã vẫn
chiếm17,6% và tỷ lệ tăng dân số hằng năm là 1,4%.
Do đặc thù của nghề sản xuất này mà người dân nơi đây đang phải đối
mặt với một thực trạng là môi trường sống ngày càng bị ô nhiễm hết sức nặng
nề. Tính trung bình mỗi người dân một ngày thải ra 0,4kg rác, mỗi tháng đã có
tới 120 tấn rác thải, đó là chưa kể tới một lượng lớn chất thải của nghề chế biến
hải sản, dầu mỡ và phế thải trong quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh. Số chất
thải này không được Công ty Vệ sinh Môi trường của địa phương thu gom và
vận chuyển tới nơi chôn lấp. Để giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc của
địa phương, sáng kiến lập ra một đội chuyên làm vệ sinh môi trường (VSMT) đã
được Đảng bộ, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân xã chấp nhận và nhân dân
đồng tình ủng hộ. Đội VSMT có 9 người, (1 đội trưởng và 8 công nhân), hằng
ngày bình quân mỗi ca làm việc liên tục từ 5 giờ sáng tới 8 giờ tối, vừa thu gom
rác thải, phân loại để xử lý, vừa vận chuyển về bãi thải.
Xã đã thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư vào chương trình này bắt
đầu bằng việc nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư về nhiệm vụ và quyền
20


lợi của mình trong công tác VSMT. Thông qua hệ thống loa truyền thanh địa
phương, phát liên tục 3 buổi trong ngày, Đội VSMT xã phổ biến quy định của
UBND Tỉnh Hà Tĩnh về bảo vệ môi trường ở địa phương và các văn bản pháp
quy khác như Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 175/CP của Chính phủ về
hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, phổ biến quy chế của xã về bảo vệ
môi trường. Trên cơ sở nhận thức được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của

mình đối với bảo vệ môi trường ở xã. 1865 hộ dân đã ký cam kết về những việc
cụ thể để bảo vệ môi trường, trong đó có việc đóng góp tài chính của mỗi hộ,
với mức 3000 đồng/tháng vào Quỹ Vệ sinh Môi trường của xã. Bình quân mỗi
tháng thu được trên 4 triệu đồng vào quỹ này. Ngoài ra, xã còn huy động được
14 triệu đồng của các thành viên trong đội VSMT và đầu tư thêm 25 triệu(1) cho
hoạt động của đội. Với cách làm này, môi trường của Xã được cải thiện đáng kể,
tạo việc làm cho 9 người trong đội VSMT và ý thức tự giác của người dân được
nâng lên rõ rệt.
Nguồn: Báo Khoa học và Phát triển số 11/2001
2.4. Một số hình thức tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý
chất thải rắn trên thế giới.
2.4.1. Hợp tác giữa doanh nghiệp nhỏ và CBO ở Bamako, Mali.
GIE Gigui được thành lập bởi một người thất nghiệp sau khi tốt nghiệp như một
doanh nghiệp nhỏ để làm phân ủ và làm xanh thành phố vào năm 1991. Thành
phố đã cho phép nhượng bộ để thu gom rác ở Hamdallaye, một khu lân cận của
Bamako, Mali. GIE Gigui đã phát triển thành một sáng kiến dựa vào cộng đồng,
hoạt động tích cực trong việc thu gom chất thải rắn, lắp đặt hố ngâm, ủ phân và
vườn ươm cây. GIE đã thảo luận kế hoạch thu gom chất thải rắn trong 6 tháng
với cộng đồng tại Hamdallaye. Các ủy ban khu phố của những người cao tuổi và
những người có tiếng tăm khác được thành lập để tạo ra một diễn đàn để khiếu
nại về hoạt động của dịch vụ, đề xuất sửa đổi và chỉ ra những nhu cầu mới.
Thông qua các cuộc thảo luận này, cũng trong các cuộc họp hàng tuần và các
cuộc tranh luận về những nhượng bộ, chiến lược đã được thay đổi. Dần dần các
`comitès des sages 'có được nhiều trách nhiệm hơn. Giờ đây họ chính thức giám
sát hoạt động. Hơn nữa, họ đã tham gia vào việc tổ chức các cuộc họp, trong
21


việc phân phối thông tin, trong các cuộc đàm phán với các đối tác tài chính và
liên lạc với thành phố. Các quyết định ngày càng được đưa ra bởi GIE và các

"hiệp hội". Trong tương lai, các "ủy ban" sẽ được giám sát toàn bộ chương trình
bao gồm cả các cơ sở tín dụng và tiết kiệm.
Nguồn: Anschtz, J. 1996
2.4.2. Hợp tác giữa CBO với cơ quan chính phủ ở Padang, Inđônêxia.
Một ví dụ từ khu phố Lapai ở Padang (AS 9) cho thấy các mức độ ra
quyết định khác nhau và các tổ chức khác nhau tham gia. Trong trường hợp này,
người đứng đầu của keluharan (khu phố), Lurah, có trách nhiệm cuối cùng đối
với dịch vụ. LKMD, một cơ quan bán chính phủ thực hiện dự án phát triển ở cấp
khu phố, đã chủ động cùng với Lurah. Lurah bổ nhiệm một số thành viên của tổ
chức thanh niên địa phương để quản lý dịch vụ. Một trong số họ đóng vai trò là
người quản lý của COPRICOL và tham gia quản lý và giám sát hàng ngày của
thư ký, người thu phí, bốn người thu gom rác và hai lái xe. Tổ chức thanh niên
báo cáo về các vấn đề tài chính đối với LKMD và Lurah. Hai lần một năm cuộc
họp với tất cả các bên liên quan diễn ra.
Nguồn: Anschtz, J. 1996
2.4.3. Các nỗ lực kết hợp CBO - NGO ở Bờ Biển Ngà.
Dự án Bờ Biển Ngà (AF 6) được khởi xướng và tài trợ bởi Quỹ Hợp tác
Gia cư (CHF), một tổ chức phi chính phủ nước ngoài, ở Alladjan, khu lân cận
của Abidjan. CHF đã cùng nhau lập kế hoạch và thực hiện với AMCAV, một
CBO địa phương. AMCAV đã tham gia vào việc thành lập một ủy ban vệ sinh
môi trường địa phương và sắp xếp một nhóm thu gom. Ủy ban vệ sinh được
giám sát hoạt động và chịu trách nhiệm về các quyết định tài chính. AMCAV
chia sẻ quản lý tài chính với ủy ban vệ sinh này để vượt qua những khó khăn
chính trị địa phương. AMCAV và CHF cùng tuyển dụng và đào tạo nhóm thu
thập cũng như các nhân viên y tế địa phương.
Nguồn: Anschtz, J. 1996
2.5. Kinh nghiệm xã hội hoá bảo vệ môi trường ở một số nước trên thế
giới
22



Từ những năm 50 thế kỷ XX, nhiều nước trên thế giới đã sử dụng và phát
huy có hiệu quả phương pháp bảo vệ môi trường cộng đồng. Kinh nghiệm cho
thấy, biện pháp bảo vệ môi trường cộng đồng phát huy được sức mạnh của cộng
đồng trong việc bảo vệ môi trường, quản lý và bảo vệ các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, v. v.. Sau đây là một số kinh nghiệm về phát huy vai trò bảo vệ môi
trường cộng đồng ở một số nước trên thế giới.
- Nhật Bản, với chủ trương vận động tất cả mọi cộng đồng dân cư trong cả
nước thu gom chất thải và xây dựng xã hội tái chế trong thế kỷ XXI. Chính phủ
nước này đã có những chính sách thúc đẩy và khuyến khích việc quản lý chất
thải rắn trên cơ sở của sự tham gia tích cực và tự nguyện của các cộng đồng dân
cư khác nhau. Hệ thống quản lý chất thải rắn của Nhật Bản nhận được sự trợ
giúp của hệ thống tổ chức thu gom hình thành trên cơ sở các tổ chức của khu
vực (Hội đồng thành phố, Hội thiếu nhi và Hội cha mẹ học sinh…). Các tổ chức
hội này tiến hành thu gom và bán các chất thải có thể tái sử dụng cho các công
ty tái chế chất thải. Tính đến năm 1993 đã có tới 82.000 tổ chức loại này hoạt
động ở 92 thành phố. Kết quả làm cho đường phố sạch sẽ, các dịch vụ vệ sinh
môi trường được cải thiện và chi phí cho công tác quản lý chất thải rắn giảm đi
nhiêù lần.
- Thụy Điển, phát huy vai trò của bảo vệ môi trường cộng đồng thông qua
việc tạo điều kiện để cộng đồng tham gia vào đánh giá tác động môi trường.
Chính phủ nước này cho rằng, khi lập kế hoạch về đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng lớn, việc lắng nghe ý kiến của quần chúng ngay ở giai đoạn đầu của dự án
là cách tốt nhất để tránh nhuững khó khăn sau này. Nếu không thực hiện được
điều này, sự phản kháng của dân chúng có thể tăng lên và gây chậm trễ hoặc
phải ngừng dự án. Quá trình đánh giá tác động môi trường (EIA) tại Thụy Điển
thành công lớn nhất khi nó hướng đến mục tiêu trở thành một quá trình dân chủ.
- Ấn Độ, những bất đồng giữa các cơ quan của chính phủ và chính quyền
địa phương đã dẫn đến tình trạng môi trường xuống cấp nghiêm trọng. Việc
nâng cao hiệu quả quản lý môi trường đòi hỏi có sự cam kết từ cả hai phía chính

quyền và nhân dân. Một trong những biện pháp chủ yếu là trao cho cộng đồng
23


dân cư quyền kiểm soát những đối tượng gây ô nhiễm môi trường, dù đối tượng
đó thuộc nhà nước hay tư nhân. Các cơ quan có trách nhiệm kiểm tra ô nhiễm
phải có kế hoạch cho các cộng đồng địa phương và các tổ chức phi chính phủ.
Các bản tóm tắt EIA với ngôn ngữ dễ hiểu, mạch lạc, thông báo về các kết quả
giám sát môi trường, khi đó các nhóm cộng đồng có thể kiểm tra lại nồng độ các
chất thải so với các tiêu chuẩn quy định và kiện ra toà nếu thực tế sai khác với
EIA.
- Brazil, việc đổi mới cơ bản hệ thống cống rãnh ở vùng Đông Bắc nhờ
vào sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư trong việc lựa chọn mức dịch vụ
vận hành và bảo dưỡng cơ sở hạ tầng hệ thống cống, giảm chi phí xây dựng tới
20-30% so với trước đây. Các gia đình có thể lựa chọn phương án cải thiện hệ
thống vệ sinh hiện có của họ, hoặc là nối với hệ thống thoát nước thông thườngmột cống lộ thiên ở đường phố, hoặc nối với hệ thống thoát chung. Sự lựa chọn
là tự do.
- Nepal, Khoảng 50% cư dân ở phía Tây Bắc khu bảo tồn Annapurna đã
đóng góp cả về vật chất và kinh phí cho dự án phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường. Hơn thế nữa, những nhân viên của dự án này cũng là những cư dân của
khu vực. Một chương trình đặc biệt dành ưu tiên đối với phụ nữ và khích lệ sự
tham gia tích cực của họ trong quá trình tạo ra các quyết định, thực hiện những
nỗ lực bảo tồn. Cách tiếp cận của dự án đã tạo nên một mô hình về quản lý tài
nguyên hợp lý trong một khuôn khổ truyền thống địa phương, có tính thuyết
phục cao. Mô hình này đã cho phép nhân dân địa phương tiếp tục các hoạt động
sống bình thường, không ảnh hưởng đến các giá trị bảo tồn và do vậy ngăn ngừa
các mâu thuẫn vốn rất dễ nẩy sinh khi nguồn lợi của cộng đồng bị ảnh hưởng.
Được thành lập vào năm 1986, khu Annapurna ngày nay đã trở thành một vùng
đa dạng, có giá trị. Sự hợp tác của Chính phủ với các nhóm cộng đồng địa
phương đã góp phần to lớn vào thành công của dự án.

-Trung Quốc, hệ thống thu gom chất thải đô thị trên cơ sở cộng đồng tại
Thượng Hải bắt buộc các hộ gia đình có trách nhiệm đưa chất thải rắn của họ tới
các điểm thu gom chất thải gần nhất, đổ vào các thùng chứa bằng bê tông hoặc
24


thép (thường có khoảng cách trên dưới 100 m). Mỗi điểm thu gom này thường
phục vụ cho 100 đến 300 hộ gia đình. Sau đó, chất thải được thu gom bởi các
nhân viên của Phòng Vệ sinh môi trường quận. Hội đồng phường, xã có trách
nhiệm duy trì hoạt động quét dọn, làm sạch đường phố. Các dịch vụ làm sạch đó
được Chính phủ cung cấp tài chính với tỷ lệ nhỏ, tiền phí dịch vụ hộ gia đình là
nguồn tài chính chủ yếu. Tại các khu vực mới xây dựng gần đây ở Thượng Hải,
các thùng thép lớn hơn đã và đang được sử dụng. Khi khoảng cách đến với các
hộ gia đình xa hơn, Hội đồng phường, xã đang tổ chức các điểm thu gom lưu
động bằng các xe đẩy rác nhỏ kéo tay. Các điểm thu gom lưu động được đặt ở
các vị trí do Hội đồng phường, xã quy định (Văn Hữu Tập, 2016).
2.6. Những tồn tại trong hoạt động quản lý rác thải dựa vào cộng
đồng ở Việt Nam.
Cộng đồng còn bị hạn chế tham gia trong các khâu lập kế hoạch và giám
sát trong các dự án, nhiều khi lấy ý kiến người dân còn hình thức, những đóng
góp của người dân chưa được quan tâm đúng mức.
Tính bền vững tham gia của cộng đồng chưa cao, các dự án sau khi hoàn
thành, chủ đầu tư rời khỏi dự án thì hiệu quả hoạt động dự án bị giàm xuống rỏ
rệt, thậm chí nhiều nơi còn bị phá sản do không có sự giám sát thường xuyên
của cơ quan, chính quyền và không hỗ trợ kịp thời.
Đa phần dân chúng trong các cộng đồng ở địa phương không có khẳ năng
tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư của chính quyền địa phương và điểm nàyđã
ảnh hưởng đến khả năng tham, gia rộng rải của họ vào các hoạt động quản lý
môi trường. Mặt khác, sự phân cấp tài chính chưa diễn ra mạnh ở địa phương, vì
thế chính quyền địa phương càng gặp khó khăn trong việc hỗ trợ hoạt động của

cộng đồng.
Sự phối hợp của chính quyền địa phương và cộng đồng chưa được thể
chế hóa, nếp nghĩ, nếp làm củng ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng. Vai
trò của chính quyền địa phương chưa được thể hiện rỏ, các cấp chính quyền địa
phương còn thiếu hiểu biết về cách huy động cộng đồng tham gia, do đó việc
tiến hành còn lúng túng, kết quả còn hạn chế.(Hà Quang Huy, 2008)
25


×