Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Nghiên cứu rủi ro trong xây dựng nhà cao tầng khi cung cấp bảo hiểm xây dựng, áp dụng cho khách sạn lavista đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 104 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tác giả. Các kết quả
nghiên cứu và các kết luận trong luận văn là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một
nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo các nguồn tài liệu (nếu có) đã
được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định.
Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Tú

i


LỜI CÁM ƠN
Tác giả xin chân thành cám ơn quý thầy cô Bộ môn Công nghệ và Quản lý xây dựng –
Khoa Công trình đã truyền đạt kiến thức trong suốt quá trình học tập ở trường.
Tác giả xin được gửi lời cám ơn chân thành nhất đến thầy TS Đinh Thế Mạnh đã nhiệt
tình giúp đỡ, hướng dẫn cho tác giả hoàn thành luận văn này.
Cám ơn sự giúp đỡ của Lãnh đạo, các nhân viên tại Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm
Quân đội đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong việc tìm hiểu và
thu thập thông tin có liên quan để hoàn thiện luận văn này.
Để hoàn thành được luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tác giả còn
được sự quan tâm và giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị, các bạn trong lớp cao học
24QLXD21 và bạn bè đồng nghiệp trong suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn này.
Thời gian làm luận văn chưa phải là nhiều, bản thân kinh nghiệm của tác giả còn hạn
chế nên chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được
sự góp ý của các đồng nghiệp và sự chỉ bảo của quý thầy cô. Đó là sự giúp đỡ quý báu
để tác giả cố gắng hoàn thiện hơn nữa trong quá trình nghiên cứu và công tác sau này.

Xin trân trọng cảm ơn!

ii




MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN............................................................................................................................. i
LỜI

mục
lục .
DA
NH
DA
NH
DA
NH
MỞ
ĐẦ
1.
1
K
h
ái
q
u
á
t
c
h
u
n

g
CH
Ư
ƠN
2.
1
C
ơ
s


t
h
u
y
ết
v

Q
3


3.1 Giới thiệu chung về công trình Khách sạn Lavista Đà Nẵng...........................................
47
3.1.1 Giới thiệu chung về khí hậu, địa chất khu vực dự án ...............................................
47
3.1.2 Biện pháp thi công của dự án................................................................................... 49
3.2 Thực trạng về quản lý rủi ro và cung cấp bảo hiểm xây dựng nhà cao tầng tại các
công ty bảo hiểm ....................................................................................................................... 52
3.2.1 Thực trạng về quản lý rủi ro thiết kế trong cung cấp bảo hiểm xây dựng nhà cao

tầng
.......................................................................................................................................... 53
3.2.2 Thực trạng về quản lý rủi ro kỹ thuật thi công trong cung cấp bảo hiểm xây dựng
nhà cao tầng
............................................................................................................................ 54
3.2.3 Thực trạng về quản lý rủi ro an toàn lao động, vệ sinh môi trường trong cung cấp
bảo hiểm xây dựng nhà cao tầng ...................................................................................... 55
3.3 Đề xuất giải pháp giảm thiểu rủi ro khi cung cấp bảo hiểm xây dựng công trình
Khách sạn Lavista Đà Nẵng..................................................................................................... 57
3.3.1 Đề xuất giải pháp giảm thiểu rủi ro thiết kế trong cung cấp bảo hiểm xây dựng công
trình Khách sạn Lavista Đà Nẵng..................................................................................... 57
3.3.2 Đề xuất giải pháp giảm thiểu rủi ro kỹ thuật thi công trong cung cấp bảo hiểm xây
dựng công trình Khách sạn Lavista Đà Nẵng ...................................................................
64
3.3.3 Đề xuất giải pháp giảm thiểu rủi ro an toàn lao động, vệ sinh môi trường trong cung
cấp bảo hiểm xây dựng công trình Khách sạn Lavista Đà Nẵng ......................................
73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .............................................................................................................. 82
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 83
Kết luận ..................................................................................................................................... 83
Kiến nghị ................................................................................................................................... 83
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................................... 85

4


DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 3.1: Cứu hộ vụ sập giàn giáo Vũng Áng .............................................................................. 56
Hình 3.2: Năng lực của công ty A.S.P.T ......................................Error! Bookmark not defined.8

Hình 3.3: Hình ảnh khách sạn Mường Thanh Đà Nẵng ................................................................ 60
Hình 3.4: Sơ đồ khối thể hiện công tác quản lý rủi ro thiết kế...................................................... 61
Hình 3.5: Sơ đồ khối thể hiện công tác quản lý rủi ro thi công..................................................... 70
Hình 3.6: Sơ đồ khối thể hiện công tác quản lý rủi ro an toàn lao động và vệ sinh môi trường .....76

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Danh mục công trình, hạng mục công trình có ảnh hưởng đến an toàn cộng
đồng............... 28
Bảng 3.1: Một số công trình tiêu biểu của công ty A.S.P.T .......................................................... 59

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ
ATLĐ An toàn lao động

MIC Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội
HĐBH Hợp đồng bảo hiểm
VSMT Vệ sinh môi trường

vii



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Hiện nay, dân số ở các thành phố lớn ở nước ta gia tăng với tốc độ rất nhanh. Điển

hình như Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi năm tăng khoảng 250.000 người, còn Hà Nội,
mỗi năm tăng khoảng 200.000 người. Mật độ dân số của Thành phố Hồ Chí Minh là
3.888 người/km2, cao nhất cả nước, Hà Nội là 2.171 người/km2, cao thứ 2 cả nước.
Với lượng dân tăng như vậy, nhu cầu về chỗ ở là hết sức cần thiết. Để giải quyết vấn
đề chỗ ở, nhà chung cư cao tầng là xu hướng tất yếu.
Từ năm 2006 trở lại đây, các dự án nhà chung cơ cao tầng liên tục được triển khai với
số lượng ngày càng gia tăng. Để phục vụ nhu cầu của người dân, các nhà chung cư này
mở dịch vụ trông xe cho người dân. Và để phục vụ nhu cầu thiết yếu này, các tòa nhà
chung cư cần có tầng hầm để phục vụ nhu cầu gửi xe. Vì vậy, các tòa nhà chung cư
hiện nay đều có thiết kế hầm gửi xe. Tùy theo số lượng người, nhà mà thiết kế số
lượng hầm cho phù hợp, nhưng thông thường sẽ là có từ 2 đến 3 tầng hầm.
Các tòa nhà chung cư được xây dựng ở các thành phố lớn, nên điều kiện địa chất
thường là tốt, thiên tai cũng rất hạn chế. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn nhất khi xây dựng
các nhà chung cư có hầm là có thể làm sụt lún, nứt những công trình xung quanh. Vì ở
các thành phố, mật độ xây dựng thường rất cao. Các nhà thầu thi công tuy đã áp dụng
công nghệ thi công mới: top-down, khoan cọc nhồi,… nhưng có một số trường hợp
không tránh khỏi làm sụt lún, nứt công trình bên cạnh. Điển là vụ sập nhà số 43 Cửa
Bắc, Hà Nội vào ngày 04/08/2016, nguyên nhân là do nhà số 41 bên cạnh sửa chữa
móng. Trường hợp xảy ra sụt lún, nứt công trình bên cạnh sẽ làm thiệt hại cho nhà
thầu, tài sản, tính mạng của công trình, người ở bên cạnh. Theo Nghị định
119/2015/NĐ-CP ngày 13/11/2015, công trình nhà chung cư, nhà tập thể, ký túc xá,
nhà ở riêng lẻ từ 7 tầng trở lên đều phải mua bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư
xây dựng [1]. Việc mua bảo hiểm này có lợi cho 3 bên: Nhà nước, nhà thầu thi công,
chủ sở hữu công trình bên cạnh bị ảnh hưởng.
Vì quy định bắt buộc phải mua bảo hiểm, nên các nhà thầu hoặc chủ đầu tư sẽ tìm đến
các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, khi xem xét có trường hợp công ty bảo hiểm đồng ý,
1


cũng có trường hợp từ chối do: Nguyên tắc của bảo hiểm là bảo hiểm cho những rủi ro

không lường trước được, tức là không biết rủi ro đó có chắc chắn xảy ra hay không.
Đối với công trình mà đánh giá là chắc chắn hoặc gần như sẽ xảy ra rủi ro thì sẽ từ
chối bảo hiểm. Trường hợp bị từ chối, nhà thầu hoặc chủ đầu tư sẽ tìm đến công ty bảo
hiểm khác hoặc thay đổi thiết kế, biện pháp thi công, bởi nếu không được bảo hiểm thì
sẽ không thể xây dựng công trình.
Xuất phát từ thực tế phát sinh như vậy và sự đồng ý của khoa công trình- trường Đại
học Thủy Lợi cũng như sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của Tiến sĩ Đinh Thế Mạnh cùng
ban Tài sản Kỹ thuật, ban Giám định Bồi thường – Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm
Quân đội, nên học viên chọn đề tài “Nghiên cứu rủi ro trong xây dựng nhà cao tầng
khi cung cấp bảo hiểm xây dựng. Áp dụng cho Khách sạn Lavista Đà Nẵng” làm đề
tài nghiên cứu thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp giảm thiểu rủi ro khi cung cấp bảo hiểm xây dựng công trình
nhà cao tầng, áp dụng đối với Khách sạn Lavista Đà Nẵng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối
cứu

tượng

nghiên

Đối tượng nghiên cứu là rủi ro trong thời gian xây dựng công trình khách sạn Lavista
Đà
Nẵng đứng trên góc độ của công ty bảo
hiểm.
Phạm
cứu

vi


nghiên

Nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro khi cung cấp bảo hiểm xây dựng
công trình nhà cao tầng, áp dụng đối với dự án xây dựng Khách sạn Lavisa Đà Nẵng.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận
Tiếp cận các nghiên cứu về công tác quản lý rủi ro và thực trạng về công tác đánh giá
rủi ro khi cung cấp bảo hiểm xây dựng.


2


Các văn bản luật liên quan đến đầu tư xây dựng công trình.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu;
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế;
Phương pháp thống kê;
Phương pháp phân tích so sánh;
Một số phương pháp kết hợp khác để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề được đặt ra.
5. Kết quả đạt được
Đồng ý cung cấp bảo hiểm cho dự án xây dựng khách sạn Lavista Đà Nẵng. Đề xuất
một số biện pháp phòng ngừa, một số biện pháp xử lý rủi ro thường gặp nhằm khắc
phục, giảm thiểu thiệt hại một cách nhanh và an toàn nhất.

3


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO VÀ BẢO HIỂM

TRONG XÂY DỰNG
1.1 Khái quát chung về rủi ro trong xây dựng
Theo nghiên cứu, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro. Tuy nhiên, qua quá trình
học bộ môn Phân tích rủi ro của PGS.TS Mai Văn Công, Giảng viên Bộ môn Công
Trình Cảng – Đường thủy, Khoa Công Trình, trường Đại học Thủy Lợi, học viên nhận
thấy một số định nghĩa về rủi ro đơn giản, dễ hiểu như sau [1]:
Rủi ro là xác xuất xảy ra một sự cố ngoài ý muốn trong một quy trình/quá trình hay của
một đối tượng.
Rủi ro là hậu quả của một sự cố ngoài ý
muốn.
Rủi ro là tích số của xác xuất xảy ra sự cố và hậu quả do sự
cố.
Rủi ro là một hàm của xác xuất xảy ra thiệt hại và hậu quả thiệt
hại.
Như vậy, khái niệm rủi ro liên quan phần lớn đến những hành động mang tính chất
quyết định của con người. Hậu quả của những hành động này là không thể lường trước
được. Rủi ro thể hiện trên rất nhiều khía cạnh: thời gian, chi phí, chất lượng, các hoạt
động xây dựng khác,….
Nghiên cứu rủi ro đề cập đến những sự kiện không may, xảy ra gây thiệt hại về lợi ích
của con người như thiệt hại về sức khỏe, tài sản,….. Rủi ro luôn hiện diện trong mọi
hoạt động của con người. Khi rủi ro xảy ra, ta không thể dự đoán được chính xác kết
quả của rủi ro đó mang lại. Như vậy, rủi ro gây ra sự bất định. Sự bất định là sự nghi
ngờ về khả năng của con người trong việc dự đoán kết quả khi biết được có nguy cơ
xảy ra rủi ro. Nguy cơ xảy ra rủi ro là bất cứ khi nào và không có cách nào dự đoán
được.
Qua các phân tích trên, học viên cho rằng, khái niệm về rủi ro đầy đủ như sau: Rủi ro là
tổng hợp của những sự kiện ngẫu nhiên tác động lên sự vật, hiện tượng làm thay đổi kết
quả của sự vật, hiện tượng và những tác động ngẫu nhiên đó có thể đo được bằng xác
xuất. Rủi ro có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, khi nhắc đến rủi ro, mọi người
phần lớn đều nghĩ đến tiêu cực. Và trong ngành bảo hiểm cũng vậy, rủi ro được hiểu là



sự kiện không mong muốn, ảnh hưởng xấu đến công việc, sự vật, sự việc,
….
4


Như vậy, rủi ro trong xây dựng là tổng hợp của những sự kiện ngẫu nhiên tác động lên
dự án xây dựng thông qua các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến dự án (chủ đầu tư, nhà
thầu chính, nhà thầu phụ, đơn vị tư vấn giám sát,…) làm thay đổi tiến độ, chi phí của
dự án. Nói chung, rủi ro xảy ra làm cho dự án thực hiện không đúng như dự kiến ban
đầu.
1.2 Đánh giá chung về rủi ro và bảo hiểm trong xây
dựng
1.2.1 Đánh giá chung về rủi ro trong xây
dựng
Các dự án xây dựng từ nhỏ đến lớn thì có thời gian thi công khác nhau, tuy nhiên,
trong phạm vi luận văn, học viên chỉ xét đến những dự án xây dựng cho các công trình
nhà cao tầng có hầm. Ngày nay, việc xây dựng tầng hầm cho các tòa nhà cao tầng là
hết sức phổ biến. Xây dựng tầng hầm cần được hết sức coi trọng, nó không chỉ ảnh
hưởng đến công trình tòa nhà cao tầng đang thi công mà còn ảnh hưởng đến các công
trình kiến trúc xung quanh. Hiện nay, vấn đề sự cố trong xây dựng nói chung và trong
xây dựng nhà cao tầng nói riêng được báo chí phản ánh rất nhiều. Do đó, nếu các công
ty bảo hiểm đánh giá rủi ro không kỹ, sẽ gặp những dự án xảy ra rủi ro trong quá trình
dự án đó thi công, dẫn đến việc phải bồi thường, ảnh hưởng đến an toàn tài chính. Các
sự cố có thể gặp phải khi thi công tầng hầm rất phúc tạp, bao gồm cả nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do các yếu tố thời tiết như giông,
bão, lốc, sạt lở đất. Đối với nguyên nhân khách quan, con người không thể phòng ngừa
được mà chỉ có thể sử dụng các biện pháp để giảm thiểu thiệt hại. Nguyên nhân chủ
quan là do con người tạo ra trong quá trình thi công. Đối với nguyên nhân này, con

người hoàn toàn có thể phòng ngừa được trong quá trình thi công. Học viên xin được
trình bày một số rủi ro xảy ra do con người gây ra theo hai nguyên nhân chính sau:
Do không khảo sát địa chất kỹ lưỡng:
Sự cố tại công trình tòa nhà văn phòng ở Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội [2]:
Đây là công trình có diện tích mặt bằng vào khoảng 164

, cao 8 tầng, có 1 tầng

hầm. xây ngay sát ngôi nhà 4 tầng, có kết cấu khung, móng bằng với cốt đáy khoảng 1,2 m. Để thi công móng cọc ép và tầng hầm cho tòa nhà mới, đơn vị thi công ép cừ
xung quanh chu vi móng và tầng hầm bằng cọc ván thép U200 dài 6m. Cọc ép làm
móng chỉ cách căn nhà 4 tầng khoảng 0,5m nên đã thấy ảnh hưởng đến móng và độ ổn
định của căn nhà 4 tầng trong lúc thi công. Sau khi thi công xong tường vây hố móng,


5


đơn vị thi công đã đào hố để rút nước để thi công cọc và tầng hầm. Theo kết quả quan
trắc trong khoảng 04 tháng, độ lún của ngôi nhà 4 tầng về phía hố đào của tòa nhà cao
tầng đã lên đến 5cm, làm cho ngôi nhà bị lún nghiêng, tách hẳn khỏi nhà liền kề có sẵn
ở trên mái khoảng 15cm. Khi đó, công trình tòa nhà cao tầng chưa xong phần móng
nhưng phải dừng lại để tìm biện pháp xử lý. Nguyên nhân của sự cố được xác định là
do khi thi công ép cọc ván thép làm tường cừ đã gây chấn động đến nền và móng của
ngôi nhà 4 tầng. Ngoài ra, khi hút nước trong hố đào đã làm cho nền đất của móng căn
nhà 4 tầng lún. Độ lún không đều đã làm cho căn nhà 4 tầng nghiêng về phía hố đào.
Sự cố gây nứt tường nhà dân xung quanh khi xây dựng tòa nhà văn phòng trên đường
Nguyễn Trãi, Đống Đa, Hà Nội [2]:
Tòa nhà được thiết kế với 15 tầng nổi và 2 tầng hầm. Công trình có hố đào sâu 10m
được bảo vệ bằng tường cừ Larsen sâu 16m với hệ thống thanh chống bằng thép hình
để ổn định hố đào. Trong quá trình thi công ép cọc Larsen và bơm hút nước trong hố

móng đã làm cho nền đất dưới móng của một số nhà dân gần đó bị lún không đều, gây
nứt tường nhà. Công trình đã phải ngừng thi công để xử lý sự cố. Nguyên nhân được
xác định là do chân tường cừ chưa được đặt vào tầng đất sét dẻo cứng mà đặt vào tầng
cát pha chứa nước. Trong khi đó, mực nước ngầm ngoài hố móng chỉ cách mặt đất
khoảng 1m. Vì vậy, khi bơm nước hạ mực nước trong hố móng đã hạ mực nước chênh
lệch làm cho áp lực nước trong lỗ rỗng thay đổi và làm cho nền đất dưới hố móng bị
lún. Một phần cũng là do tường vây bằng cọc Larsen cũ không kín nước, làm cho nước
ở trong và ngoài hố đào thông nhau qua chân và thân tường vây.
Sự cố tạo hố sâu trên vỉa hè khi xây dựng tầng hầm tòa cao ốc Residence tại Thành
phố Hồ Chí Minh [2]:
Tòa cao ốc Residence được thiết kế với 13 tầng nổi và 1 tầng hầm. Khi đào ở độ sâu 8m, dưới đáy hố móng phát hiện nước ngầm phun lên rất mạnh kèm theo các hạt cát
nhỏ. Hậu quả của việc này là ngày 31/10/2007, vỉa hè đường Nguyễn Siêu xuất hiện
hố sụt kích thước 4x4m và có độ sậu 3-4m. Tòa chung cư Casaco trên đường Thi Sách
bị lún nghiêm trọng. Nguyên nhân được xác định là do tường cừ bằng cọc Larsen
không ngăn được nước nên khi hút nước để thi công tầng hầm thì cột nước chênh áp
ngoài thành hố đào đã tạo nên áp lực lớn đẩy nước qua chân tường vây đẩy trồi đáy
móng lên, đồng thời cuốn theo cát làm sụt lún nền của các công trình xung quanh.
6


Biện pháp xử lý được đưa ra là lấp ngay các hố đào sâu và hố sụt nhằm tạo cân bằng
áp lực, tránh tình trạng sụt lún tiếp. Đồng thời, lắp đặt thiết bị quan trắc dịch chuyển,
lún và động thái của nước dưới mặt đất để kịp thời phát hiện sự cố.
Sự cố nứt tường hẻm và làm nghiêng tường ngăn khi xây dựng tầng hầm tòa cao ốc
văn phòng Bến Thành TSC – 186 Lê Thánh Tôn [2]:
Công trình có diện tích mặt bằng 10x40m với thiết kế 2 tầng hầm. Cuối năm 2007, khi
đang đào hố móng phục vụ cho công tác thi công tầng hầm thì nước ngầm ở đáy hố
đào phun lên rất mạnh, đồng thời làm phồng đáy hố và làm xê dịch tường cừ bằng cọc
Larsen. Đất nền bị sụt lún làm nứt tường hèm lân cận và làm nghiêng tường ngăn.
Công trình đã lập từng dừng thi công và dùng biện pháp khoan giếng để hạ mực nước

ngầm.
Nghiêng căn nhà bên cạnh khi thi công công trình Lim Tower tại 9-11 Tôn Đức
Thắng, quận 1, Tp HCM [2]:
Lim Tower được thiết kế với 32 tầng nổi và 2 tầng hầm. Khi xây dựng công trình Lim
Tower, trong quá trình thi công tầng hầm, tại độ sâu -12m, nước ngầm kéo theo cát
chảy mạnh qua công trình đang thi công gây sụt lún, nghiêng khoảng

căn nhà

28/1A Ngô Văn Năm. Hậu quả là đã làm nguy hại đến những căn nhà liền kề, nhiều hộ
dân đã phải di dời khỏi nhà của họ để đảm bảo an toàn tính mạng. Nguyên nhân được
xác định là do tác động của nước ngầm qua lỗ thủng của tường vây.
Do chất lượng thi công chưa tốt:
Sụt lún công trình trung tâm thương mại Đà Nẵng [2]:
Công trình được xây dựng trên nền công trình của Trung tâm thương mại Đà Nẵng cũ
do tập đoàn Nguyễn Kim làm chủ đầu tư. Công trình gồm 3 hạng mục chính:
Công trình xây chợ mới – Siệu thị Đà Nẵng với diện tích 2630

: 1 tầng hầm và 5

tầng nổi.
Trung tâm mua sắm Nguyễn Kim có diện tích 1271

: 1 tầng hầm và 5 tầng nổi.

Trung tâm thương mại phức hợp Đà Nẵng có diện tích khuôn viên lên tới 14.600

:1

tầng hầm và 13 tầng nổi.

Sự cố xảy ra vào đêm ngày 31/5/2011, trong khi đang thi công, công trình đã bị sập 35
m taluy vỉa hè, làm nứt 15 m đường nhựa và vết nứt ăn sâu vào hơn 2 m mặt đường
hẻm. Nguyên nhân của sự cố được xác định là do đoạn tường Barrette bao quanh tòa
7


nhà vị trí phí Đông tầng hầm bị nứt bục khiến đất đá phía ngoài sụt vào bên trong tầng
hầm. Biện pháp xử lý được Ban quản lý dự án đưa ra là đổ bêtông bịt lại chỗ bục, ngăn
không cho đất sụt tiếp. Tiến hành khắc phục phần đường và vỉa hè bị sụt, nứt. Công
trình được thực hiện dưới sự giám sát của 3 đơn vị: Công ty cổ phần tư vấn xây dựng
công nghiệp và đô thị Việt Nam (tư vấn quản lý dự án); Công ty cổ phần tư vấn kiến
trúc xây dựng TT-AS và Công ty cổ phần tư vấn phát triển công nghệ xây dựng (tư
vấn thiết kế).
Sập nhà gần cao ốc M&C tại Thành phố Hồ Chí Minh [2]:
Tòa cao ốc M&C (Saigon One Tower) tại thửa đất số 33, tờ bản đồ số 4, 34 Tôn Đức
Thắng, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, Tp HCM. Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần
Địa ốc Sài Gòn M&C với tổng mức đầu tư khoảng 256 triệu USD. Hiện tại, công trình
này vẫn chưa xây xong cho dù vào cuối năm 2011, lúc ngưng thi công, khoảng 80%
khối lượng công việc đã được hoàn thành. Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến việc qua
hơn 6 năm, dự án vẫn không được thực hiện: cổ đông chưa thu xếp được vốn; giãn tiến
độ để chờ thị trường bất động sản hồi phục; đền bù giải phóng mặt bằng. Dự án sử
dụng chiểu yếu là vốn vay nên cho dù ngưng thi công thì vẫn phải chịu chi phí 1 tỷ
VNĐ tiền lãi/ngày. Vào tháng 11/2015, Công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn M&C đã bị
Cục thuế Tp HCM thông báo phong tỏa hóa đơn vì nợ thuế quá hạn. Ngày 21/8/2017,
cao ốc M&C bị Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) thu giữ. Tài sản
cụ thể khi đó bao gồm: 14.954

diện tích thương phẩm của khu căn hộ cao cấp,

quyền sở hữu và khai thác kinh doanh toàn bộ công trình tầng hầm, khu trung tâm

thương mại, văn phòng cho thuê và công trình phụ trợ. Khi thi công tầng hầm thứ 3 đã
xảy ra sự cố, làm cho 2 ngôi nhà: ngôi nhà 3 tầng tại số 3 Hàm Nghi bị sụp đổ hoàn
toàn; ngôi nhà 3 tầng tại số 5 Hàm Nghi bị kéo vách sụp đổ khoảng 50% diện tích.
Nguyên nhân được xác định là do lỗ hổng của tường vây, nước ngầm cùng bùn đất
chảy vào tầng hầm công trình gây sụt lún nền móng và sập đổ 2 căn nhà nêu trên.
Ngay sau khi xảy ra sự cố, chủ đầu tư đã tiến hành bịt ngay lỗ hổng tường vây, đồng
thời khắc phục hậu quả đối với 2 căn nhà bị sụp đổ nêu trên.
Sự cố nứt tường nhà, vỡ ông nước của các hộ dân xung quanh công trình Trung tâm
thương mại thuộc khu chợ Đà Lạt [2]:

8


Công trình Trung tâm thương mại được thiết kế với 4 tầng hầm và 10 tầng nổi. Khi thi
công tầng hầm, đã xuất hiện vết nứt dài khoảng 200 m chạy qua khu dân cư gần đó,
làm ảnh hưởng tới khoảng 20 hộ. Vết nứt làm vỡ một loạt ống nước, nứt tường nhà,
chỗ rộng nhất khoảng 7 cm và tụt sâu 20 cm so với mặt đất. Nguyên nhân được xác
định là do tường vây của đơn vị thi công không đảm bảo nên đã làm đất đá phía ngoài
tường vây mất ổn định và gây ra các hiện tượng nếu trên. Ngay sau khi phát hiện sự
cố, đơn vị thi công đã phụt vữa hàn gắn các vết nứt, lún xung quanh và phối hợp với
các hộ dân để khắc phục hậu quả.
Sập căn nhà 4 tầng tại số 792A Nguyễn Kiệm, phường 3, quận Gò Vấp, Tp Hồ Chí
Minh [2]:
Đây là sự cố do chính người dân gây ra cho nhà của họ. Chủ căn nhà 4 tầng đã tiến
hành xây một căn nhà với 2 tầng hầm ngay bên cạnh căn nhà cũ. Khi đào hố móng sâu
khoảng 6 m, dài 9 m, rộng 3 m ngay sát với căn nhà cũ thì căn nhà cũ bị đổ sập hoàn
toàn. Điều đáng nói là căn nhà cũ được xây kiên cố với 4 tầng và việc xây dựng căn
nhà mới của chủ nhà chưa được cơ quan chính quyền cấp phép xây dựng. Nguyên
nhân xác định là do không có biện pháp chống đỡ kiên cố, chỉ đóng cọc để đảm bảo sự
ổn định cho ngôi nhà cũ là chưa đủ nên đã xảy ra trường hợp đáng tiếc trên.

Sạt lở móng tòa nhà MD Complex Tower trên đường Nguyễn Cơ Thạch, Mỹ Đình, Hà
Nội [2]:
Công trình tòa nhà MD Complex Towe do công ty TNHH MTV đầu tư và phát triền
nhà đô thị làm chủ đầu tư. Công trình xảy ra sự cố sạt lở đoạn móng dài hơn 10 m
trong giai đoạn thi công. Khu vực sạt lở tiếp giáp với đường Nguyễn Cơ Thạch nên đã
làm ảnh hưởng tới một phần đường ống tuynel ngầm dưới lòng đất. Nguyên nhân được
xác định là do hố móng sâu 10 m đã được cắm 2 lớp cừ Larsen nhưng do mùa mưa
làm cho đất đá đẩy cong tường cừ gây sạt lở. Biện pháp xử lý ngay sau đó là ép lại cừ
phần bị sạt lở và thêm một lớp nữa ở sát đường Nguyễn Cơ Thạch.
Sự cố đổ sập tòa nhà Viện khoa học xã hội vùng Nam bộ ở Tp Hồ Chí Minh khi xây
dựng tòa nhà Pacifi [2]c:
Công trình tòa cao ốc Pacific do công ty Bia Thái Bình Dương làm chủ đầu tư, nằm tại
số 43-45-47 đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bến Nghé, quận 1, Tp Hồ Chí
Minh: phía Bắc giáp với tòa nhà YOCO cao 12 tàng của Báo Tuổi trẻ, phía Đông giáp
9


với đường Nguyễn Thị Minh Khai, phía Đông Nam tiếp giáp tòa nhà 2 tầng của Viện
Khoa học xã hội vùng Nam bộ, phía Tây giáp Sở Ngoại vụ. Công trình tòa nhà Pacific
được cấp phép xây dựng vào tháng 2/2005 với diện tích mặt bằng 1.750

, cao 78,5

m, 4 tầng hầm (11,8 m), 20 tầng nổi. Tổng diện tích sàn xây dựng là trên 22.000

.

Tuy nhiên, trong quá trình thi công, chủ đầu tư cao ốc Pacific đã điều chỉnh thiết kế
thành 6 tầng hầm (21 m) và 21 tầng nổi mà chưa được Sở xây dựng thành phố cho
phép. Công trình sử dụng móng bêtông cốt thép đặt trên 65 cọc barrette với kích

thước 2,8x1,2m sâu 67m. Theo thiết kế được phê duyệt, hệ tường vây gồm 50 tấm
panel kích thước từ 2,8 đến 5,7 m, dày 1 m, sâu 45 m nhưng khi thi công, đã thay đổi
thành 24 tấm panel kích thước ,28 đến 7,7 m, dày 1 m, sâu 45 m. Đến tháng 10/2007,
trong quá trình thi công tầng hầm của tòa nhà Pacific, tòa nhà 2 tầng của Viện Khoa
học xã hội vùng Nam bộ đã bị sập hoàn toàn. Qua quá trình giám định, Công ty Kiểm
định Xây dựng Sài Gòn kết luận: Nguyên nhân gây ra sự cố là do có khuyết tật tại các
vị trí roan tiếp giáp giữa 2 đột tường vây giáp với Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ
tại cao trình khoảng -21 m so với cốt nền tầng 1 xuất hiện một lỗ thủng dài 169 cm,
rộng 30-35 cm. Khuyết tật này xuất hiện trong quá trình đổ bêtông cho tường vây, kết
hợp với áp lực nước ngầm rất mạnh tại vị trí lỗ thủng cũng như xuất hiện các túi nước,
túi bùn do cấu tạo địa chất dẫn đến tràn một lượng rất lớn nước và đất từ phía Viện
Khoa học xã hội Nam bộ. Việc này dẫn đến sụp đổ hoàn toàn căn nhà 2 tầng của Viện
Khoa học xã hội Nam bộ. Ước tính thiệt hại là 4,6 tỷ đồng (chưa tính thiệt hại về hồ
sơ, tài liệu).
Như vậy, có thể thấy rằng, rủi ro xảy ra trong quá trình thi công dự án do con người,
cụ thể là do khảo sát địa chất chưa kỹ hoặc do chất lượng thi công không đảm bảo là
có thể phòng tránh được dựa vào báo cáo địa chất, quy trình, biện pháp thi công đã
được thiết kế. Ngoài ra, bên cạnh các rủi ro do nguyên nhân từ con người, còn có
những rủi ro từ thiên nhiên, đó là giông, bão, sạt lở đất,…. Những rủi ro do thiên nhiên
gây ra thì không thể phòng tránh được, chỉ có thể sử dụng những biện pháp nhằm hạn
chế tổn thất do rủi ro đó gây ra mà thôi. Bởi vậy, để hạn chế, quản lý được rủi ro thì
chúng ta phải quản lý thật chặt ngay từ khi khảo sát dự án cho đến khi dự án được
nghiệm thu.

10


Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại mà cho tới
nay vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất hiện từ khi nào. Từ xa xưa, kinh nghiệm
cho thấy rằng đôi khi cũng sẽ xảy ra việc mất mùa hoặc quân xâm lược ngăn cản người

dân của một thành phố thu hoạch lương thực ở những vùng xung quanh. Mặc dù, mỗi
gia đình đều có thể tự phòng cho trường hợp này nhưng họ đã nhận ra rằng việc dự trữ
chung hoặc theo từng nhóm sẽ hiệu quả hơn. Mỗi người sẽ đóng một khoản thuế nhỏ
trong những năm được mùa, khi đó, giá lương thực sẽ thấp. Khi mất mùa hoặc thành
phố bị vây hãm, họ sẽ dùng lượng lương thực dự trữ đó để sống. Vì vậy, ý tưởng lập
một quỹ chung đã xuất hiện, đó là tiền đề của bảo hiểm.
1.2.2 Bảo hiểm trong xây
dựng
Cuối thế kỷ XV, khi châu Âu thực hiện những chuyến buôn bán bằng tàu thủy đến châu
Á và châu Mỹ. Do có một số tàu trên đường đi hoặc trên đường về gặp rủi ro, không
hoàn thành chuyến đi. Một số tàu bị chìm do bão tố, cạn kiệt nhiên liệu, đá ngầm, lạc
đường,… hoặc gặp cướp biển. Những người tham gia vào chuyến đi đã cảm thấy việc
chia sẻ rủi ro để tránh việc một số người bị mất trắng khoản đầu tư do những rủi ro
ngẫu nhiên trên. Người ta đã tìm ra hai cách để đáp ứng nhu cầu này. Cách thứ nhất là
thành lập một liên danh có góp vốn cổ phần, một nhóm các nhà đầu tư sẽ cùng đầu tư
vào một chuyến hàng chung. Như vậy, khi xảy ra rủi ro, mỗi người sẽ chịu một ít. Cách
thứ hai là mỗi nhà đầu tư đề nghị trả một khoản tiền cho người nào đó nếu người đó
đồng ý sẽ bồi thường cho họ nếu con tàu của họ không hoàn thành chuyến đi với một
lịch trình cụ thể. Một số cá nhân hoặc công ty đã thu phí bằng tiền mặt để đổi lấy cam
kết sẽ bồ thường cho nhà đầu tư nếu xảy ra các rủi ro ngẫu nhiên. Đó chính là tiền thân
của các công ty bảo hiểm.
Thời gian đầu tiên, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các công ty bảo hiểm là hỏa hoạn.
Những thành phố đông đúc ở châu Âu vào thế kỷ XVII hầu hết nhà cửa đều làm bằng
gỗ, người ta dùng lửa để sưởi, đun nấu và chiếu sáng. Do vậy, rủi ro xảy ra cháy là rất
cao. Với một cộng đồng ở nông thôn, khi một căn nhà bị cháy, những người hàng xóm
sẽ hợp sức giúp xây dựng lại ngôi nhà. Nhưng ở thành phố, hàng xóm của gia đình bị
cháy đều có những công việc chuyên môn riêng, họ không có thời gian để giúp đỡ hàng
xóm xây dựng lại căn nhà. Do vậy, chủ nhân của mỗi ngôi nhà sẽ đóng một khoản phí
11



cho công ty bảo hiểm để nhận được hai cam kết: cung cấp dịch vụ cứu hỏa (dập lửa,
ngăn không cho lửa cháy lan sang nhà khác, hạn chế tối đa thiệt hại của vụ cháy) và bồi
thường bằng tiền mặt cho người được bảo hiểm để tạo điều kiện cho họ thuê mướn
những người thợ có chuyên môn cần thiết, sửa chữa hoặc xây lại ngôi nhà.
Người bán bảo hiểm không bán một sản phẩm hữu hình mà là bán cam kết. Người sở
hữu đơn bảo hiểm được cấp một văn bản, đơn bảo hiểm để làm bằng chứng cho việc đã
xác lập một hợp đồng giữa người tham gia bảo hiểm và công ty bảo hiểm. Cảm kết
trong hợp đồng là cam kết thanh toán bằng tiền theo giá trị tương đương với tổn thất.
Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm chỉ được chứng minh vào một thời điểm tại tương lai.
Nếu xảy ra rủi ro trong thời gian hiệu lực của hợp đồng và rủi ro đó không bị loại trừ,
công ty bảo hiểm sẽ phải thanh toán tiền bồi thường cho người được bảo hiểm.
Có rất nhiều định nghĩa về bảo
hiểm:
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phát triển, phân
phối và sử dụng các quỹ tập trung nhằm xử lý các rủi ro, đảm bảo cho việc sản xuất,
đời sống xã hội được diễn ra bình thường.
Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của một số ít người cho cả cộng
đồng những người có khả năng gặp rủi ro tương tự bằng cách mỗi người trong cộng
đồng đóng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp
thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may gặp phải rủi ro.
Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài trợ rủi ro,
được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất về tài chính,
sức khỏe.
Bảo hiểm được xem là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng
từ một cá thể sang cộng đồng thông qua chi phí bảo hiểm.
Qua quá trình làm việc, học hỏi từ những người đồng nghiệp, học viên nhận thấy, Bảo
hiểm là một ngành kinh doanh, mà đối tượng kinh doanh của ngành này là rủi ro. Công
ty bảo hiểm sẽ nhận một số rủi ro từ người khác và chịu trách nhiệm nếu những rủi ro
đó

xảy ra. Tuy nhiên, không phải tất cả các rủi ro đều có thể được bảo hiểm. Theo cuốn
12


sách Insrance Principles and Practice (tạm dịch là: Bảo hiểm Nguyên tắc và thực hành)
của Tiến sĩ David Bland [3], từng là Tổng Giám đốc Học viện Bảo hiểm Hoàng gia
Anh thì chỉ những rủi ro có đầy đủ các tính chất sau thì có thể được bảo hiểm:
Rủi ro mang tính chất ngẫu nhiên: Đối với người được bảo hiểm, một rủi ro có thể được
bảo hiểm phải hoàn toàn ngẫu nhiên. Những rủi ro chắc chắn xảy ra sẽ không được bảo
hiểm do ở đây không có yếu tố không chắc chắn về tổn thất, và vì vậy việc chuyển giao
rủi ro sẽ không diễn ra.
Những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra như thiệt hại do sự hao mòn, hư hỏng, khấu hao gây
ra sẽ bị loại trừ. Bất cứ thiệt hại hoặc tổn thất nào do người được bảo hiểm gây ra cũng
sẽ bị loại trừ. Hành động cố ý của người khác sẽ không bị loại trừ với điều kiến hành
động đó là hoàn toàn ngẫu nhiên đối với người được bảo hiểm.
Chỉ có một rủi ro chắc chắn xảy ra nhưng vẫn được bảo hiểm, đó là rủi ro chết. Con
người ai cũng sẽ chết, và mọi người ai cũng có thể mua bảo hiểm nhân thọ. Dường như
đây là điều sai với quy tắc này? Câu trả lời là không. Rủi ro này được bảo hiểm bởi vì
thời điểm chết là ngẫu nhiên và bảo hiểm nhân thọ thì quan tâm đến điều này.
Rủi ro gây ra thiệt hại định mức được về mặt tài chính: Điều cốt yếu của bảo hiểm là
hoạt động giống như một cơ chế chuyển giao rủi ro và bồi thường về mặt tài chính cho
người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất. Bảo hiểm không loại trừ được rủi ro nhưng nó
lại cố gắng bảo vệ về mặt tài chính trước những hậu quả của rủi ro gây ra. Như vậy, rủi
ro được bảo hiểm phải dẫn đến tổn thất có thể lượng hóa được bằng phương diện tài
chính. Mọi người dễ dàng nhận ra điều này trong trường hợp tổn thất về mặt tài sản.
Giá trị tiền tệ của tài sản bị tổn thất có thể xác định được bảo bồi thường theo các điều
khoản của đơn bảo hiểm. Chỉ sau khi xảy ra rủi ro, chúng ta mới có thể biết được chính
xác giá trị của tổn thất. Riêng đối với bảo hiểm nhân thọ, vì tính mạng của con người
là vô giá nên khoản tiền bồi thường cần phải được thỏa thuận ngay trong hợp đồng.
Rủi ro xảy ra với số lượng đủ lớn: Nếu có đủ số lượng các tình huống xuất phát từ

những rủi ro tương tự nhau, công ty bảo hiểm có thể dự đoán được mức độ tổn thất. Khi
đó, sẽ xác định được mức phí bảo hiểm. Nếu không có đủ số lượng rủi ro cùng loại thì
việc dự đoán mức độ tổn thất sẽ chỉ là dựa trên sự phỏng đoán. Trong trường hợp này,
13


các công ty bảo hiểm có thể đưa ra mức phí bảo hiểm không chính xác, song chắc chắn
công ty bảo hiểm sẽ bảo vệ cho chính họ bằng cách ấn định một mức phí bảo hiểm
trong đó đã tính đến trường hợp xấu nhất xảy ra.
Rủi ro không được trái với đạo đức, pháp luật: Có nguyên tắc chung đó là các hợp đồng
không được trái với chuẩn mực về đạo đức và lẽ phải được xã hội công nhận. Những
hợp đồng bảo hiểm về việc giết người, trộm cắp,… là hoàn toàn không thể chấp nhận
được. Xã hội không thể chấp nhận được ý tưởng rằng bọn trộm cướp có thể được cấp
một đơn bảo hiểm, mà theo đó chúng sẽ được trả một khoản tiền dự định kiếm được
sau vụ trộm trong trường hợp vụ trộm không được thực hiện thành công.
Để có được một hợp đồng bảo hiểm, người nhân viên khai thác đóng vai trò quan trọng
nhất. Nhiệm vụ của một nhân viên khai thác là đánh giá rủi ro mà khách hàng muốn
mua bảo hiểm; quyết định chấp nhận hay không chấp nhận các rủi ro đó, nếu chấp nhận
thì chấp nhận ở mức độ nào; đưa ra điều khoản, điều kiện và phạm vi bảo hiểm; đưa ra
mức phí bảo hiểm thích hợp. Tuy nhiên, đây chỉ là đề xuất của nhân viên khai thác, còn
quyết định có chấp nhận những đề xuất của nhân viên khai thác hay không và nếu chấp
nhận thì chấp nhận ở mức độ nào, cần thêm hay bớt điều kiện, điều khoản, phạm vi
không, tỷ lệ phí bảo hiểm đã hợp lý chưa lại là quyết định của bộ phận Nghiệp vụ.
Có 2 loại hình bảo hiểm chính: Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân
thọ:
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm mà
trong đó, công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền cho người tham gia có những rủi
ro đã được định trước nhưng không biết thời điểm nào xảy ra rủi ro đó. Chẳng hạn như
chết, thương tật toàn bộ vĩnh viễn, hết hạn hợp đồng, sống đến một thời hạn nhất định.
Trong khi đó, người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng phí đầy đủ và đúng kỳ

hạn. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ giống như một hình thức tiết kiệm, mỗi người khi
tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ nộp định kỳ những khoản tiền nhỏ trong một khoảng
thời gian dài đã được thỏa thuận trước. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả lại số tiền
lớn đã định trước cho người được bảo hiểm khi họ đạt đến độ tuổi nhất định, khi hết
thời hạn bảo hiểm, khi họ xảy ra một sự kiện (kết hôn, nghỉ hưu,…) và trả cho người
nhà của họ nếu
trong trường hợp họ không may bị chết. Với việc này, bảo hiểm nhân thọ góp phần xóa
14


×