Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

BÀI GIẢNG CHƯƠNG 1 LUẬT SO SÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.69 KB, 21 trang )

MÔN LUẬT SO SÁNH
(10 tiết giảng)
1. Khái niệm Luật so sánh (Comparative law).
- Định nghĩa Luật so sánh (LSS) của Việt nam:
Võ Khánh Vinh: Luật so sánh là “phương pháp xem xét, nghiên cứu và tiếp cận
pháp luật trên bình diện của sự giao lưu quốc tế về pháp luật”.
+ Ưu điểm: văn phong hay, bóng bảy, trau chuốt; vô cùng ngắn gọn, khúc triết.
+ Nhược điểm: đồng nhất LSS với phương pháp nghiên cứu (vấn đề này trước
đây, các học giả trên thế giới tranh cãi, bút chiến thành 2 trường phái: LSS là
phương pháp hay khoa học, đến nay trường phái LSS là một khoa học thắng
thế), trong khi tác giả đưa ra định nghĩa này vào những năm 90 của TK XX mà
chưa cập nhật; chỉ ra đối tượng nghiên cứu là pháp luật, thì quá chung chung vì
ngành nào cũng có nghiên cứu là pháp luật, ko giúp người lần đầu nghiên cứu
phân biệt được với khoa học pháp lý khác.
- Định nghĩa của người Đức:
(Zweigert và Kotz): “LSS là hoạt động trí tuệ mà pháp luật là đối tượng và so
sánh là quá trình”.
+ Hay: ngắn gọn, khúc triết, chỉ ra cả đối tượng và phương pháp của quá trình
nghiên cứu.
+ Dở: mặc dù chỉ ra đối tượng nhưng chung nên ko giúp phân biệt với các khoa
học khác, về phương pháp cũng chỉ ra là phương pháp so sánh nhưng chưa đủ.
- Michael Bogdan: “Luật so sánh bao gồm:
+ So sánh các HTPL khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt;
+ Sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã được xác định, giải thích
nguồn gốc của chúng, đánh giá những giải pháp được sử dụng trong các HTPL
khác nhau, phân nhóm các HTPL thành các dòng họ pháp luật hoặc nghiên cứu
những vấn đề cốt lõi của các HTPL; và


+ Xử lí các vấn đề mang tính phương pháp luận nảy sinh có liên quan đến các
nhiệm vụ trên, bao gồm những vấn đề mang tính phương pháp luận liên quan


đến việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài.”
Phân tích định nghĩa:
- Ưu điểm: Định nghĩa mô tả cụ thể, cung cấp bức tranh khá toàn diện về Luật
so sánh. Đối tượng là các HTPL trên thế giới, cả mục tiêu ban đầu là tìm giống
nhau và khác nhau, mục tiêu sâu xa là lý giải đáp ứng với nhu cầu của người
nghiên cứu; So sánh và từ đó dùng kết quả so sánh để đi đến những mục tiêu cụ
thể mà nhà nghiên cứu tìm đến. Ví dụ:
+ Đánh giá những giải pháp được sử dụng trong các HTPL khác nhau: Vd: cùng
hành vi giết người nhưng nước A, B, C giải pháp khác. Nhà nghiên cứu đánh giá
xem giải pháp đó hay, dở.
+ Phân nhóm các HTPL thành các dòng họ pháp luật : trên 200 HTPL của quốc
gia trên thế giới rất lâu có nghiên cứu hết được. Phân nhóm giúp tìm thấy điểm
chung, và ta chỉ cần nghiên cứu các dòng họ có thể thấy các HTPL trên thế giới.
+ Nghiên cứu những vấn đề cốt lõi của các HTPL: Tìm ra điểm chung cốt lõi
của nhiều quốc gia là gì.
- Nhược điểm: Dài dòng.
2. Đặc điểm của Luật so sánh
Phần này giúp ta hiểu rõ LSS là gì và nó khác với ngành khác như thế nào?
3.1 Luật so sánh không phải là ngành luật hay lĩnh vực pháp luật thực định.
Nghĩa là LSS không phải là “hệ thống các quy phạm pháp luật có đặc tính chung
để điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định của đời
sống xã hội” theo quan điểm của truyền thống về ngành luật. Khái quát hơn thì
LSS không phải là lĩnh vực pháp luật thực định như luật hiến pháp, luật dân sự,
luật hình sự, luật thương mại…
3.2. Luật so sánh là một khoa học được sử dụng để so sánh các HTPL khác
nhau nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt.
- So sánh được tiến hành ở hai hoặc nhiều HTPL khác nhau (không cùng 1
HTPL). Khi 1 nhà nghiên cứu so sánh luật 2 văn bản dưới triều đại, trong giai



đoạn lịch sử khác nhau thì không được coi là công trình nghiên cứu so sánh luật.
VD: so sánh Hoàng việt luật lệ và Quốc triều hình luật.
- Ngoại lệ: So sánh HTPL Scotland với HTPL Vương quốc Anh dù cùng một
HTPL nhưng cũng được coi là công trình nghiên cứu luật so sánh. ( Vì Vương
quốc Anh, gồm 4 vùng lãnh thổ: England, Wales, Northen Ireland và Scotland.
Vùng đất Scotland từng nhiều lần bị xâm chiếm bởi England, hoàng đế Scotland
liên minh với kẻ thù của kẻ thù là nước Pháp để chống lại England, nên đã học
hỏi và xây dựng pháp luật giống với nước Pháp). Tương tự: nghiên cứu so sánh
pháp luật Hồng Kong – Trung Quốc đại lục, pháp luật bang Lusiana – HTPL
Hoa Kỳ, pháp luật tỉnh Quebec – Canada (trước đây tỉnh Quebec là thuộc địa
của Pháp sau đó bán sang cho Anh).
3.3 Nghiên cứu Luật so sánh khác với nghiên cứu luật nước ngoài.
- Giống : nghiên cứu so sánh luật phải sử dụng luật nước ngoài, nhưng không
phải bất kỳ công trình nghiên luật nước ngoài nào cũng là luật so sánh.
VD: Bài viết tạp chí, “Tội phạm trong Bộ luật hình sự của Pháp” có đề cập đến
định nghĩa tội phạm của Luật hình sự Việt nam.
- Khác: Trong công trình nghiên cứu so sánh các luật gia thường so sánh các
HTPL nước ngoài với HTPL nước mình hoặc so sánh HTPL của các nước ngoài
với nhau và phải chỉ ra những tương đồng và khác biệt, lí giải tại sao có sự
giống nhau và khác nhau. Nếu chỉ đơn giản là sự trình bày các HTPL nước ngoài
thì không phải là công trình luật so sánh. Sau đó, kết luận cụ thể, có hay hơn hay
không và nên học tập không. (VD: áp dụng chế tài chế tài tử hình nên bỏ hay
giữ? – Việc này phải căn cứ vào trình độ dân trí, điều kiện kinh tế xã hội, chính
trị, nhận thức để xem nên hay không nên học hỏi nước ngoài).
3.4 Luật so sánh là ngành khoa học độc lập chứ không đơn thuần là phương
pháp nghiên cứu.
Mục sau sẽ nghiên cứu về phương pháp so sánh.
3.5 Luật so sánh có phạm vi nghiên cứu rất rộng.
- Đối tượng so sánh lớn, không bao giờ giải quyết hết vấn đề so sánh. Vì thế một
số nhà nghiên cứu kiến nghị tách Luật so sánh thành Luật so sánh đại cương



(môn này) và luật so sánh chuyên nghành (luật hiến pháp so sánh, luật thương
mại so sánh, luật hợp đồng so sánh…)
- So sánh bất kỳ vấn đề nào pháp luật của các quốc gia, song phương, đa
phương. Nên nhà nghiên cứu thường phải giới hạn phạm vi nghiên cứu thì mới
có thể hoàn tất công trình nghiên cứu của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh
a. Luật so sánh nghiên cứu gì?
- Luật so sánh nghiên cứu quan hệ giữa các HTPL, giữa các bộ phận cấu thành
của các HTPL với nhau, giữa các nhóm HTPL.
* Thuật ngữ cần phải làm sáng tỏ trước khi nghiên cứu đối tượng của Luật so
sánh.
- HTPL:
+ Là tổng thể quy phạm pháp luật, nguyên tắc pháp luật khác với quy tắc đạo
đức, chính trị, có mối quan hệ nội tại, thống nhất (Định nghĩa của môn
LLNNPL). Quan niệm này chỉ đúng với một số quốc gia, khá phiến diện. VD:
Trung Quốc (pháp luật của Hồng Kông không có thống nhất và mối quan hệ gì
với đại lục), Scoland - Anh, Quebec - Canada, Lusiana - Hoa Kỳ cũng tương tự.
Như thế, HTPL gồm nhiều thành tố khác: cơ quan pháp luật, hành nghề luật, đào
tạo luật không chỉ có quy phạm pháp luật và nguyên tắc pháp luật mà không
được đề cập đến.
+ HTPL hàm chỉ hệ thống chính phủ độc lập (cơ quan lập pháp, cơ quan hành
pháp phải độc lập) được các quốc gia khác thừa nhận. Nhưng bó hẹp HTPL
trong gọi là Chính phủ, bó hẹp trong cơ quan lập pháp và hành pháp.
+ HTPL: các nhà khoa học cho rằng tập hợp các thiết chế pháp luật hoạt động
trong phạm vi địa lý nhất định (cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp, cả đội ngũ
cảnh sát).
+ HTPL là một guồng máy hoạt động của các thiết chế pháp luật và các thủ tục,
quy phạm pháp luật (Định nghĩa này bao quát cả ba định nghĩa ban đầu nên khá

đầy đủ hiện nay).
- Nhóm HTPL:


+ Dòng họ pháp luật: tập hợp những HTPL có những điểm tương đồng vì cùng
có nguồn gốc lịch sử, pháp luật đóng vai trò nhất định xã hội, trong ý thức hệ
của người dân trong quốc gia đó. Dòng họ Civil law, common law, hay dòng họ
pháp luật XHCN đã lụi tàn.
+ Truyền thống pháp luật: 2 thuật ngữ có thể sử dụng thay thế nhau. Nhưng môn
này dùng tên chung là dòng họ pháp luật.
b. Phạm vi nghiên cứu.
- HTPL quốc gia nhưng không nghiên cứu một HTPL quốc gia đơn lẻ mà nghiên
cứu HTPL quốc gia này trong mối quan hệ với quốc gia khác.
Quy phạm pháp luật (VD: Định nghĩa chứng khoán của trong pháp luật Việt
Nam, pháp luật chứng khoán Mỹ), thiết chế pháp luật (Quốc hội Mỹ -Việt Nam),
kiểu tư duy pháp lý (Pháp: tư duy trừu tượng dựa trên nền tảng tư duy pháp lý
cộng đồng – Anh: cụ thể pháp luật dựa trên bản án giải quyết tình huống cụ thể
trong thực tế…); hành nghề luật (mỗi quốc gia quan niệm nghề luật không giống
nhau, nhiều quốc gia công chứng, luật sư, công tố, giảng viên coi là hành nghề
luật chịu sự giám sát của cơ quan Nhà nước, có quốc gia nghề luật là luật sư như
ở Anh trong nhiều thế kỷ); đào tạo luật (có quốc gia đào tạo kiểu giảng viên độc
thoại, có quốc gia kiểu giảng viên ngồi nghe với vai trò như trọng tài, sinh viên
là chủ động vai trò chính như chủ tọa). Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác.
- Phạm vi thứ hai: nghiên cứu dòng họ pháp luật đặt trong mối quan hệ với dòng
họ pháp luật khác.
VD: Nghiên cứu so sánh civil law và common law. Đề tài nghiên cứu này quá
lớn để có thể hoàn tất thì phải biết giới hạn mình, với dòng họ civil law chọn
Pháp, Đức, Ý – Anh, Mỹ, Canada. Ngay cả vậy, phạm vi nghiên cứu vẫn quá
rộng, vẫn nên giới hạn tiếp, chọn ra vấn đề tiêu biểu như: chính trị - hiến pháp,
kinh tế - luật thương mại (công ty, chứng khoán, các công cụ chuyển nhượng),

văn hóa (luật gia đình: đa thê hay không, gia trưởng hay bình quyền).
- Phạm vi thứ ba, nghiên cứu pháp luật quốc tế trong mối quan hệ với pháp luật
quốc gia.


Trong bối cảnh hội nhập các quốc gia ký kết các cam kết quốc tế, sau đó về thực
thi như Việt Nam gia nhập WTO. Khi thi hành, phải rà soát xem luật quốc gia
với cam kết quốc tế vênh nhau những gì. Từ đó hoặc là sửa hoặc xây dựng mới
để thực thi hoặc là áp dụng trực tiếp.
*Tình huống thảo luận:
VD1: LTM Việt Nam 1997 và 2005 dưới góc độ so sánh
VD2: BLDS Thái lan và VN hiện hành dưới góc độ so sánh
VD3: BLDS Pháp và Luật thương mại VN hiện hành dưới góc độ so sánh.
Trong những trường hợp trên, trường hợp nào là công trình nghiên cứu luật so
sánh? vì sao?
KL: các HTPL khác nhau mới là đối tượng của LSS.
c. Cấp độ so sánh (vĩ mô – vi mô)
Bất kỳ công trình nghiên cứu so sánh nào cũng phải sử dụng phối kết hợp vĩ mô
và vi mô.
VD: nghiên cứu báo cáo tổng kết về các giải pháp giảm ùn tắc giao thông trên
thế giới để gửi cấp trên. Ta phải xem xét các quy định pháp luật ở các quốc gia,
đánh giá vì sao có quy định như vậy, và có thể áp dụng ở Việt Nam không? (Thủ
đô Jakata (Indonêxia) có quy định vào giờ cao điểm xe đi vào nội thành phải trả
phí và không được đi xe một mình vào nội đô trong giờ cao điểm. Thành đội
ngũ đi thuê.
4. Phương pháp so sánh.
a. Có 2 nhóm phương pháp nghiên cứu:
Nhóm phương pháp nghiên cứu chung: phân tích, tổng hợp, thống kê, logic, …;
Nhóm phương pháp nghiên cứu đặc thù: Phương pháp so sánh chức năng.
b. Phương pháp so sánh chức năng:

Các yếu tố của quá trình so sánh gồm: Yếu tố so sánh, Yếu tố được so
sánh, mẫu số so sánh chung (hay là những điểm chung). Phải có yếu tố những
điểm chung thì việc so sánh mới có giá trị. Việc tìm kiếm mẫu số so sánh chung
luôn là vấn đề được bàn luận khi sử dụng phương pháp so sánh trên tất cả các


lĩnh vực khoa học. Vậy những nhân tố nào là mẫu số so sánh chung của các đối
tượng so sánh trong LSS?
Những điểm chung ở vĩ mô có thể là: kinh tế, chính trị, văn hóa, địa lý,
ngôn ngữ, tôn giáo, hệ thống các giá trị…tùy thuộc mục đích & lĩnh vực quan
tâm của người nghiên cứu. Một số học giả cho rằng nên tiến hành so sánh giữa
các HTPL có cùng bước phát triển nhất định có thể là về kinh tế, xã hội hoặc
pháp luật.
Những điểm chung ở cấp độ vi mô: là chức năng của các chế định, các
quy phạm pháp luật được các học giả thừa nhận là nhân tố thứ ba của so sánh.
Tức là các chế định, các quy phạm pháp luật ở các quốc gia khác nhau có thể so
sánh khi có cùng chức năng. Cách tiếp cận như sau: “Chế định nào trong HTPL
X thực hiện chức năng tương đương với chế định đó trong HTPL Y?” hoặc “Một
vấn đề xã hội/pháp lý được HTPL X,Y giải quyết như thế nào?”.
So sánh chức năng: để so sánh được thì các quy phạm phải có cùng chức
năng, nhưng không nhất thiết phải có cùng mục đích. Ví dụ đạo luật về nạo phá
thai ở hai nước. Ở nước này thì nhằm mục đích là hạn chế sự gia tăng dân số còn
ở nước khác lại là để gia tăng dân số. Sự khác biệt về mục đích là quan trọng để
hiểu được sự khác biệt, và nó cũng là yếu tố để cân nhắc dưới góc độ đánh giá
so sánh các giải pháp đã được ứng dụng.(1) Lưu ý, việc so sánh chức năng cho
thấy việc so sánh luật không tập trung vào cấu trúc, ngôn ngữ hay khái niệm của
các quy phạm pháp luật hoặc trong các chế định luật khác nhau mà chỉ tập trung
vào tình huống thực tế, so sánh cách thức các HTPL giải quyết tình huống đó.
Nói cách khác là so sánh giải pháp pháp lý được sử dụng trong các xã hội khác
nhau để giải quyết cùng vấn đề xã hội/pháp lý tồn tại ở các xã hội đó. Nguyên

tắc so sánh chức năng là nguyên tắc cơ bản nhất của phương pháp luận của luật
so sánh.
Các ví dụ về công trình so sánh chức năng:
- VD1: Công trình “So sánh luật thừa kế của Việt Nam và Pháp” không thực
hiện được vì Việt nam không có Luật thừa kế.
1

Trích M.Bogdan, Luật so sánh, 1994, tr 46.


- VD2: So sánh chế định giám hộ của Việt Nam & Thái Lan. Đề tài này cũng
không tiến hành so sánh được vì Thái Lan gọi tên chế định này là chế định bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên.
- Chú ý: phân biệt phương pháp so sánh và Luật so sánh. Phương pháp so sánh
chỉ đưa ra sự giống và khác nhau của sự vật, hiện tượng còn Luật so sánh sử
dụng phương pháp so sánh, ngoài việc lí giải vì sao, còn nhằm mục đích là gia
tăng sự giống nhau và loại bỏ sự khác biệt.
c. Các bước của quá trình so sánh:
(1) Xây dựng giả thuyết hoặc ý tưởng nghiên cứu
Giả thuyết hoặc ý tưởng xuất phát từ nhiệm vụ được phân công, công việc
của nhà nghiên cứu hoặc sự bất bình trước giải pháp của mình về một vấn đề xã
hội nên đi tìm hiểu cách giải quyết vấn đề tương tự ở HTPL nước khác, hoặc từ
niềm say mê nghiên cứu so sánh pháp luật của các nước khác nhau của các luật
gia, hoặc có thông tin nào đó của pháp luật nước ngoài mà luật gia muốn tìn hiểu
để so sánh với pháp luật nước mình, muốn tăng thêm hiểu biết của bản thân.
Giả thuyết nghiên cứu so sánh phải đảm bảo tính chức năng. Việc so sánh
luật ở đây là so sánh các giải pháp pháp luật, vì vậy giả thuyết nghiên cứu phải
gắn với quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật đó điều chỉnh. Hai là, không nên
đưa vào trong giả thuyết nghiên cứu đó bất kỳ khái niệm pháp lý nào của HTPL
của nước nào. Vì các HTPL khác nhau, có thể khái niệm pháp lý khác nhau,

thậm chí có nước không hề có khái niệm. Ví dụ Tòa án hiến pháp việt nam
không hề có.
(2) Lựa chọn HTPL để so sánh
Việc so sánh càng nhiều HTPL càng có ý nghĩa, tuy nhiên tùy thuộc vào hoàn
cảnh, điều kiện khác nhau để chọn HTPL phù hợp nhất để so sánh mang lại kết
quả cao nhất. Việc chọn những HTPL nào để nghiên cứu phù thuộc vào mục
đích nghiên cứu, khả năng có được nguồn thông tin nước ngoài và cấp độ so
sánh.
Nếu mục đích cải tổ pháp luật thì các luật gia thường tìm đến những HTPL
có sự tương đồng về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, lịch sử để so sánh giúp


học hỏi kinh nghiệm pháp luật. Nếu mục đích là để hài hóa hóa và nhất thể hóa
pháp luật thì yếu tố chính trị lại đóng vai trò quan trọng trong lựa chọn HTPL để
so sánh. Nếu mục đích so sánh là nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin và hiểu biết
thì lựa chọn bất kỳ HTPL nào họ muốn. Nếu mục đích hỗ trợ cho thực hiện và
áp dụng pháp luật hoặc tư vấn pháp luật thì nhà nghiên cứu cân nhắc để lựa chọn
HTPL có liên quan đến vấn đề giải quyết.
Khả năng tiếp cận nguồn thông tin của các HTPL cũng là đòi hỏi nhà nghiên
cứu cân nhắc khi chọn HTPL. Trong điều kiện mạng thông tin toàn cầu thì việc
tiếp cận thông tin pháp luật nước ngoài là không quá khó khăn nhưng có rào cản
ngôn ngữ khá lớn.
Cấp độ so sánh là yếu tố quan trọng. Nếu so sánh vĩ mô, nhà nghiên cứu
thường chọn HTPL gốc của dòng họ pháp luật hay truyền thống pháp luật (vì
các HTPL này đã phát triển ổn định, các HTPL khác thường bắt chước theo).
Nếu so sánh ở cấp độ vi mô, lựa chọn HTPL nào phụ thuộc vào vấn đề nghiên
cứu. Thông thường nhà nghiên cứu thường chọn HTPL mà lĩnh vực pháp luật
đang cần nghiên cứu được đánh giá là điển hình. Ví dụ Zweiget và Kotz viết
“Một số vấn đề thuộc luật tư, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng, bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng và tài sản là những vấn đề có tính chất “cổ điển”. Đối với

những vấn đề đó, thường sẽ rất có ý nghĩa để nghiên cứu pháp luật Anh, pháp
luật Mỹ thuộc dòng họ Anglo-Saxon, pháp luật Pháp và Italia, ở dòng họ
Giecmanh là pháp luật Đức và pháp luật Thụy sĩ.”
(3) Thu thập tài liệu tham khảo.
Đây là khâu quan trọng nhất vì: chọn đúng, đủ tài liệu tham khảo thì mới cho ra
kết quả nghiên cứu chính xác. Nếu thu thập được quá ít tài liệu tham khảo thì
việc đánh giá tổng kết về hệ thống pháp luật đó phiến diện. Việc thu thập tài liệu
tham khảo nên lấy ở những nguồn chính thống và có tính cập nhật.
(4) Xây dựng hệ thống các tiêu chí so sánh (bao gồm cả khái niệm do thuật
ngữ được hiểu khác nhau ở các HTPL khác nhau).
Không được sử dụng các khái niệm không đồng nhất giữa các HTPL cũng như
các khái niệm riêng biệt của 1 HTPL nào đó làm tiêu chí so sánh. Mặt khác, do


có một số HTPL có thể không sử dụng giải pháp pháp luật để giải quyết vấn đề
đã được xác định, vì vậy các tiêu chí phải bao gồm cả những tiêu chí gắn với
giải pháp có tính chất pháp lý và những tiêu chí gắn với giải pháp mang tính xã
hội.
(5) Viết báo cáo về đối tượng cần so sánh
Việc mô tả các HTPL được lựa chọn để so sánh có ý nghĩa quan trọng trong
xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh.
Nhiệm vụ đó đòi hỏi người nghiên cứu phải khám phá và mô tả sự tương đồng
và khác biệt trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập được trong các bản mô tả về các
HTPL.
Yêu cầu của việc mô tả HTPL là tính đầy đủ thông tin về từng HTPL, tính
toàn diện và tính khách quan. Để đảm bảo tính toàn diện, nhà nghiên cứu cần
tìm kiếm tất cả các quy định về các HTPL được sử dụng. Tuy nhiên việc này
khó vì việc giải quyết cùng một vấn đề nhưng ở các HTPL khác nhau họ có thể
giải quyết không cùng chế định pháp luật, không cùng thuật ngữ, khái niệm,
khác nhau cả về nguồn gốc lịch sử, hoặc có quốc gia giải quyết bằng quy phạm

xã hội. Hệ thống nguồn luật, các loại văn bản và hình thức là khác nhau. Để đảm
bảo tính khách quan, khi mô tả các HTPL không được đưa ra bất kỳ bình luận
hay nhận xét nào của cá nhân mình, phản ánh trung thực như nó tồn tại. Lưu ý
các thuật ngữ, kiểu khái niệm, nguồn luật trong HTPL nào phải được sử dụng
như trong bối cảnh kinh tế - xã hội, chính trị của nó. Khi mô tả, các nhà nghiên
cứu có thể trình bày các quy phạm, các khái niệm và các chế định pháp luật của
HTPL đó, thậm chí những vấn đề kinh tế-xã hội gắn với các quy phạm cũng có
thể được trình bày.
(6) Đánh giá có phê phán kết quả so sánh tìm được.
Người nghiên cứu phải giải thích nguồn gốc những tương đồng và khác biệt
đã tìm ra. Việc giải thích những nội dung nào phụ thuộc vào giả thiết nghiên
cứu. Cơ sở để giải thích những G&K là những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa,
lịch sử và địa lý, nhân chủng, yếu tố ngẫu nhiên và hoàn cảnh của mỗi HTPL,…


Sau khi giải thích những tương đồng và khác biệt giữa các, người nghiên
cứu cần phân tích và đánh giá những ưu điểm, hạn chế của các HTPL hoặc các
giải pháp của các HTPL đã được so sánh. Cuối cùng, nếu mục đích nghiên cứu
so sánh là cải tổ pháp luật, người nghiên cứu cần xây dựng giải pháp pháp lý mà
họ cho rằng tối ưu nhất hoặc lựa chọn giải pháp của HTPL nào đó để cấy ghép
vào HTPL của mình.
d. Những điểm cần lưu ý khi sử dụng phương pháp nghiên cứu của LSS:
- Tính chính xác: Điều kiện tiên quyết để nghiên cứu so sánh giữa các HTPL
là khả năng có được những thông tin chính xác, thời sự về HTPL cần so sánh.
Cách đơn giản và hiệu quả nhất để thu thập thông tin về HTPL nước ngoài là tận
dụng những mối quan hệ trực tiếp với các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm tại
nước có HTPL cần nghiên cứu. Nếu không thông thạo ngoại ngữ nước đó thì
nhất thiết phải dựa vào đồng nghiệp có khả năng dịch luật nước ngoài ra những
khái niệm mà ta nắm vững. Điều nguy hiểm nhất đối với người sinh viên luật
nước ngoài là anh ta thường bắt đầu nghiên cứu luật nước ngoài với những suy

luận rằng các khái niệm, thiết chế pháp luật, phương pháp nghiên cứu pháp luật
mà anh ta biết trong HTPL nước mình cũng tồn tại trong HTPL nước ngoài mà
anh ta định nghiên cứu. Vì vậy, các nhà luật so sánh nên thoát ra khỏi HTPL
nước mình và cách tư duy của nó. Hiểu biết pháp luật nước ngoài thiếu chính
xác dẫn đến việc so sánh pháp luật kém chất lượng, sai về thực tiễn, và đôi khi
còn tồi tệ hơn là không so sánh gì cả. Rõ ràng, khả năng có được thông tin chính
xác, cập nhật về HTPL cần so sánh như: các đạo luật, quy định, báo cáo, án lệ…
Để bắt đầu nghiên cứu cần có kiến thức ngôn ngữ vì nó là trở ngại nghiêm trọng
đối với công tác nghiên cứu HTPL nước ngoài.
- Tính cập nhật:
- Hiểu đúng về thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp lý sử dụng trong mỗi HTPL.
- Nhận thức được những nhân tố quyết định sự giống nhau và khác nhau bao
gồm: hệ thống kinh tế, hệ thống chính trị, ý thức hệ, tôn giáo, lịch sử & địa lý,
khí hậu.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT SO SÁNH


1. Sự hình thành và phát triển của Luật so sánh trên thế giới.
a. Trước thế kỷ 19
- Thời kỳ cổ đại, nhiều NN cổ đại đã viện dẫn pháp luật nước ngoài để
xây dựng HTPL của mình. Điển hình là NN Hy Lạp và NN La Mã.
NN Hy Lạp cổ đại: các thành bang khi xây dựng luật của mình đã bắt chước luật
của thành bang khác (chấp nhận 1 phần hoặc toàn bộ), lí do có lẽ là luật lệ của
các vùng đó được coi là tốt hơn, tiến bộ hơn. Những công trình nghiên cứu
được tìm thấy: Laws – các luật lệ của Plato so sánh các luật lệ của các thành
bang Hy Lạp, Chính trị - Aristotle cũng so sánh các luật lệ của 153 thành bang
của Hy lạp, On laws - về các luật lệ của Theophrastus cũng so sánh các HTPL
khác nhau của Hy Lạp.
NN La Mã cổ đại: các luật lệ, đặc biệt là luật 12 bảng cũng được xây dựng trên
cơ sở tìm hiểu luật lệ của Hy Lạp. Cicero và Gaius cho rằng “ủy ban lập pháp đã

được gửi đi Aten để nghiên cứu pháp luật của Hy Lạp. Lí do là nền văn minh
của Hy Lạp cổ đại đã phát triển rực rỡ và ảnh hưởng rất lớn đến nền văn minh
của La Mã. Đến thời kỳ thịnh vượng của Đế chế La mã thì luật so sánh không có
cơ hội phát triển vì quan niệm của họ là luật La mã là luật phát triển nhất xuất
phát từ sự thịnh vượng và hùng mạnh của đế chế La mã.
- Thời kỳ Trung cổ, sau khi đế chế LM sụp đổ, các khu vực Tây âu tồn tại
hai loại luật song song cùng được áp dụng luật la mã và luật giecmanh. Tuy vậy,
không hề có sự so sánh giữa hai loại luật này với nhau.
- Thời kỳ phục hưng, pháp luật của các nước phong kiến, luật giáo hội,
những phần khác nhau của Luật La mã trước khi chế độ Tây La Mã sụp đổ được
đưa vào nghiên cứu so sánh. TK 17, 18, Montesquieu đã sử dụng phương pháp
so sánh để phát triển các bài giảng của mình về những quan điểm của trường
phái pháp luật tự nhiên. Ông được đánh giá là người đi tiên phong trong lĩnh vực
luật học so sánh.
b. Thế kỷ 19 đến nay
Luật so sánh từ TK 19 đến nay phát triển mạnh mẽ với hai hình thức là so
sánh lập pháp và so sánh học thuật. SSLP là quá trình theo đó pháp luật của


nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các văn bản pháp luật của quốc gia; còn
SSHT là việc so sánh các HTPL khác nhau đơn giản nhằm nâng cao hiểu biết về
pháp luật.
- Luật so sánh ở các nước TBCN
Đức là quốc gia tiên phong trong so sánh lập pháp để xây dựng HTPL của
mình. Bộ luật hình sự nước Đức, Bộ luật dân sự Đức 1986.
SSHT ra đời muộn hơn, giữa TK 19 “Luật so sánh dường như mới được thừa
nhận như ngành nghiên cứu pháp luật hoặc ít nhất là phương pháp được chấp
nhận để nghiên cứu các HTPL khác nhau”. Đầu tiên, Tạp chí phân tích liên quan
đến luật so sánh đầu tiên trên thế giới ra đời ở Đức năm 1829 và xuất bản được
28 số. Ở Pháp, tạp chí lập pháp nước ngoài được xuất bản năm 1834. Ở Anh có

công trình “Bình luận về pháp luật thuộc địa và pháp luật nước ngoài” được xuất
bản năm 1938 với nội dung chứa đựng các bình luận về pháp luật của các nước
Châu Âu lục địa, pháp luật của các vùng lãnh thổ thuộc địa của Anh và Pháp luật
Anh là cuốn sách rất hữu ích đối với các luật gia Anh, đặc biệt là Hội đồng Cơ
mật Anh. Công trình nữa là “Luật thương mại trên thế giới” năm 1854 đã so
sánh luật thương mại của Anh và của nhiều nước khác nhau trên thế giới. Ở Mỹ,
chiến trang giành độc lập làm cho người Mỹ chán ghét mọi thứ có nguồn gốc từ
Anh, các luật gia Mỹ cho rằng cần phải phát triển các quy tắc mới phù hợp với
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở Mỹ. Vì thế họ tiến hành nghiên cứu
Luật La mã và pháp luật đương đại của các nước Châu âu lục địa, đặc biệt là
pháp luật Pháp.
Các ấn phẩm chuyên về luật so sánh được ra đời, luật so sánh được đưa
vào giảng dạy tại các trường Luật, các hiệp hội luật so sánh được thành lập. Đại
hội quốc tế về luật so sánh tại Paris năm 1900 đánh dấu bước phát triển mới của
Luật so sánh. Viện Luật so sánh được thành lập ở Đại học Munich (năm 1916),
Đại học Lyons (năm 1926). Những công trình nghiên cứu Luật so sánh, chuyên
luận của Lambert: chức năng của Luật so sánh năm 1903, chuyên luận chức
năng và phương pháp của luật so sánh của Sauser-hall năm 1913.
2. Luật so sánh ở Việt Nam


2.1 Trước năm 1945
Trong thời kỳ phong kiến, các nhà làm luật của các triều đại phong kiến
đã tham khảo kinh nghiệm, chủ yếu là của Trung Quốc để xây dựng HTPL của
mình. Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ.
2.2 Từ 1945 đến nay
a. 1945 đến trước 1986:
- Miền Bắc: Hoạt động so sánh lập pháp phát triển. (Hiến pháp 1959), còn
hoạt động so sánh học thuật kém phát triển.
- Miền Nam: Hoạt động so sánh phát triển trên cả hai lĩnh vực. So sánh

lập Pháp (Sắc luật 1964 về hôn nhân và gia đình có nhiều điều khoản chép y
nguyên bộ luật dân sự pháp), so sánh học thuật (TS. Ngô Bá Thành với cuốn
sách “Những ứng dụng của luật so sánh”, Vũ Văn Mẫu trong “Dân luật khái
luận”, Trần Văn Liêm trong “Dân luật nhập môn”)
Sau 1975, hoạt động lập pháp đã nghiên cứu kinh nghiệm của Liên xô
(hiến pháp 1980)
c. 1986 đến nay: Luật so sánh phát triển mạnh mẽ.
- So sánh lập pháp (xây dựng các dự án luật đều tham khảo kinh nghiệm
nước ngoài như luật doanh nghiệp, luật chứng khoán …)
- So sánh học thuật: công trình “tìm hiểu luật so sánh” năm 1993, “Luật so
sánh” Thông tin khoa học pháp lí năm 1998… Các tổ chức chuyên về luật so
sánh được thành lập: Phòng nghiên cứu luật so sánh (Viện Nhà nước và pháp
luật), Trung tâm luật so sánh và luật quốc tế (Viện khoa học pháp lí thuộc Bộ tư
pháp) năm 2001, Trung tâm luật so sánh (Khoa Luật –Đại học QGHN năm
2003, Trường đại học Luật Hà Nội năm 2004, Đại học Cần Thơ năm 2005).
Môn học luật so sánh cũng được giảng dạy.
III. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của LSS
1. LSS mang tính GD chung:
- Giúp mở mang kiến thức (lịch sử, chính trị, văn hóa, tôn giáo của quốc gia
khác). VD nghiên cứu lịch sử luật so sánh giúp hiểu biết lịch sử các quốc gia


Châu Âu lục địa, vị trí của các quốc gia Châu Âu lục địa, đặc điểm văn hóa các
nước này chủ yếu theo đạo Cơ đốc giáo và nó ảnh hưởng ngược lại pháp luật.
- Tăng cường hiểu biết giữa các dân tộc: Khi nghiên cứu so sánh bắt buộc phải
biết 1 ngoại ngữ và tìm kiếm PL của nước ngoài thiết lập quan hệ với đồng
nghiệp ở nước ngoài, internet, giàu hơn các kiến thức về quốc gia đó.
2. Giúp hiểu biết hơn PL quốc gia
- Các giải pháp pháp lí đang sử dụng trong nước không phải bất biến, không
phải duy nhất.

- Nguyên tắc, quy phạm pháp luật sử dụng hiệu quả trong HTPL này nhưng
không phát huy tác trong HTPL khác. VD Luật Hình Sự Thụy Điển không thừa
nhận án tử hình. ương lai. Áp dụng ở Việt Nam được không khi có sự khác biệt
về dân trí.
- Không lầm tưởng về nguồn gốc của các quy phạm pháp luật đang áp dụng
trong nước.
3. Hỗ trợ tìm kiếm 1 mô hình PL lý tưởng: cung cấp nhiều giải pháp pháp lí để
lựa chọn trong xây dựng PL.
- Trong hoạt động lập pháp, thông qua nghiên cứu luật cần nghiên cứu quy định
tương tự nhiều quốc gia nên có nhiều sự lựa chọn khác nhau tạo ra 1 giải pháp
pháp lý hiệu quả nhất. Sao chép quy định nước ngoài như là đã thử nghiệm
trước đó, đã có kết quả, mức độ rủi ro ít hơn. Luật chứng khoán của Mỹ bị sao
chép nhiều nhất trên thế giới.
4. LSS giúp hài hòa hóa & nhất thể hóa PL
- Hài hòa hóa và nhất thể hóa (quá trình hợp nhất hai hay nhiều hơn thành 1
HTPL duy nhất: Liên minh châu âu có PL chung) là gì? Tại sao LSS được sử
dụng để HHH và NTH PL.
- Khó khăn: bất đồng quan điểm giữa các nhà làm luật về khái niệm pháp lí; bất
đồng giữa các Thẩm phán các quốc gia trong giải thích pháp luật dẫn đến giải
pháp là nghiên cứu so sánh luật. Khi các nước có cùng cách giải thích thì thỏa
thuận đó mới là hài hóa hóa thực sự.
5. Hỗ trợ giải thích và áp dụng PL thực định.


- Chức năng giải thích luật thuộc tòa án, thể hiện trong nội dung bản án vận
dụng PL vào xét xử.
- QPPL do nhập khẩu PL thì cần nghiên cứu giải thích để giống với nước nhập
khẩu luật. VD quy chế 10b.5 Luật chứng khoán Mỹ: bao quát hết các hành vi
gian lận trên TTCK. VN nhập khẩu nguyên si điều luật này do quá hay. Khi tòa
án VN giải quyết tình huống gian lận phải giải thích như nhà làm luật của Mỹ

hiểu, giải thích như thế nào.
6. Hỗ trợ cho nghiên cứu các ngành luật khác và áp dụng PL (Công pháp
quốc tế & Tư pháp quốc tế)
- Nghiên cứu luật nói chung và nghiên cứu luật chuyên ngành nói riêng đòi hỏi
khai thác mạnh LSS.
- Áp dụng pháp luật, đặc biệt công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế cũng đòi hỏi
sử dụng LSS.
+ CPQT: LSS giúp xây dựng nguyên tắc chung của PL (Điều 38 Hiến chương
tòa án quốc tế: liệt kê các nguồn luật mà tòa án quốc tế có thể viện dẫn, có các
nguyên tắc chung của PL được các dân tộc văn minh thừa nhận. Vậy nghiên cứu
so sánh giúp tìm ra các nguyên tắc chung PL của các dân tộc văn minh thừa
nhận); giúp xác định tập quán pháp trong công pháp quốc tế được áp dụng
(nguyên tắc của CPQT: nguyên tắc đối xử quốc gia, quốc gia phải đối xử với
công dân nước ngoài như các chuẩn mực xử xự các dt văn minh với các người
nước ngoài); giúp giải quyết xung đột về thuật ngữ và khái niệm pháp lý (mục
đích để xây dựng PL, khi xây dựng, mỗi thành viên của ban đàm phán từ mỗi
quốc gia khác nhau mang theo thuật ngữ riêng, phải thỏa thuận 1 cách hiểu
chung về vấn đề)
+ Tư pháp quốc tế cũng đòi hỏi nghiên cứu so sánh. VD: Tòa án nước A (người
yêu cầu chia TS) khi phải giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài: phải tìm hiểu
quy định pháp luật liên quan đến tính hiệu lực của di chúc công dân nước X (lập
di chúc), chia tài sản theo di chúc. Tùy theo quy định PL quốc gia nào thì dựa
vào việc người lập di chúc là công dân nước nào. Lúc này áp dụng so sánh
tương ứng dù không phải đưa vào nội dung bản án.


IV. SỰ PHÂN NHÓM HTPL TRÊN THẾ GIỚI
1.Vấn đề phân nhóm các HTPL
a. Tại sao phân nhóm?
- Thực tế là trên thế giới có hơn hai trăm HTPL khác nhau, mỗi hệ thống

đó có điểm riêng biệt, vì vậy chúng ta không thể và không có đủ thời gian để
nghiên cứu được hết các HTPL đó. Thay vì nghiên cứu từng HTPL, việc phân
nhóm sẽ giúp chúng ta sắp xếp một cách trật tự các HTPL trên thế giới, từ đó
nghiên cứu các vấn đề cốt lõi của các dòng họ pháp luật thông qua việc nghiên
cứu những HTPL điển hình của dòng họ pháp luật. Hơn nữa việc phân nhóm
cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu từng HTPL cụ thể mà
chúng ta quan tâm. Với việc xác định các đặc điểm của các nhóm pháp luật, khi
cần nghiên cứu HTPL cụ thể nào đó, chúng ta sẽ dễ dàng đi vào nội dung cụ thể
của HTPL này khi chúng ta đã có được những tri thức cơ bản về HTPL đó nếu
hiểu được HTPL này thuoojc vào dòng họ pháp luật nào.
- Việc phân nhóm các HTPL trên thế giới được xem là nội dung cơ bản
của luật so sánh. Xét ở cấp độ so sánh việc phân nhóm các HTPL khác nhau là
so sánh ở cấp độ vĩ mô. Bởi vì, khi được phân chia vào các dòng họ pháp luật,
các HTPL khác nhau được nhóm vào một dòng họ pháp luật, nghĩa là chúng sẽ
có những điểm khác biệt.
b. Mục đích phân nhóm.
Mục tiêu ban đầu nhằm giảm thiểu đối tượng nghiên cứu luật so sánh,
mục tiêu tiếp theo là giúp trang bị kiến thức cho người học về những nguyên tắc
chung, bao trùm về các HTPL trên thế giới còn giúp ích trong quá trình làm
việc. Nội dung luật thực định có thể thay đổi, nhưng nguyên tắc chung không
thay đổi. VD: civil law có nguồn quan trọng nhất là luật thành văn, cần nghiên
cứu luật nào đó thì cần tham khảo luật các nước này cần tìm ở đâu - chỉ luật
thành văn và tập quán pháp. Còn Anh, Úc cần tìm tới án lệ và luật thành văn.
2. Tiêu chí phân nhóm các HTPL và các cách phân nhóm các HTPL trên thế
giới..


Sự phân nhóm các HTPL trên thế giới là một vấn đề khó khăn phức tạp
bởi vì mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ có HTPL riêng. Sự đa dạng này bắt
nguồn từ sự đa dạng về kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, lịch sử, tôn giáo,

ngôn ngữ, chủng tộc…của các quốc gia và cư dân của các quốc gia đó. Những
yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và nội dung của các HTPL của
mỗi quốc gia. Việc phân nhóm càng phức tạp bởi bản thân các HTPL cũng luôn
luôn thay đổi do các quy phạm pháp luật của nó luôn được bổ sung, sửa đổi bởi
các nhà làm luật hoặc bởi phán quyết của các thẩm phán.
a. Sử dụng một hay nhiều tiêu chí để phân nhóm.
Tiêu chí phân nhóm là yếu tố quyết định đối với việc xác định số lượng
các dòng họ pháp luật cũng như việc đưa một HTPL cụ thể vào một dòng họ nào
đó. Một số học giả cố gắng kiếm một tiêu chí duy nhất để phân nhóm các HTPL.
Đầu tiên là tiêu chí về kinh tế, sau đó chính trị, nguồn gốc lịch sử của pháp luật,
nội dung bản chất cảu pháp luật, nguồn gốc lịch sử của pháp luật, nền văn hóa
và các hình thái pháp luật. Một số học giả kết hợp nhiều tiêu chí khác nhau để
phân nhóm các HTPL.
b. Các cách phân nhóm chủ yếu
- Học giả người Pháp, Renne David kết hợp hai tiêu chí để phân nhóm
HTPL là kĩ thuật pháp lí và hệ tư tưởng. Theo đó, với tiêu chí kĩ thuật pháp lí,
ông cho rằng nếu luật gia được đào tạo trong HTPL này khi hành nghề trong
HTPL khác mà gặp nhiều khó khăn do “sự khác biệt về thuật ngữ của hai HTPL
(các thuật ngữ không thể hiện cùng một khái niệm) hoặc bởi vì hệ thống thứ bậc
các nguồn luật và các phương pháp của mỗi HTPL khác nhau ở mức độ đáng
kể” thì hai HTPL này không được xếp vào cùng một nhóm. Với tiêu chí hệ tư
tưởng, ông cho rằng “hai HTPL không thể được xem là thuộc vào cùng một
dòng họ, ngay cả khi chúng sử dụng cùng các khái niệm và kĩ thuật, nếu chúng
được xây dựng dựa vào những nguyên tắc triết học, chính trị, và kinh tế đối lập
nhau và nếu chúng cố gắng tạo ra hai kiểu xã hội hoàn toàn khác nhau”.


- Hai học giả người Đức là Zweigert và H.Kotz, mặc dù chỉ đưa ra tiêu chí
“kiểu pháp luật” (legal style) để phân nhóm pháp luật nhưng nội dung của tiêu
chí này lại chứa đựng nhiều tiêu chí thành phần khác nhau gồm:

+ Cơ sở và sự phát triển lịch sử của HTPL.
+ Phương thức tư duy pháp lý nổi trội và đặc trưng các vấn đề pháp lí (Dòng họ
common law thì các luật gia có tư duy cụ thể vì quy phạm pháp luật được sản
sinh ra từ bản án giải quyết một tình huống trong thực tế nên mang tính cụ thể
còn dòng họ civil law tư duy trừu tượng do dựa trên thành quả nghiên cứu của
các giáo sư các trường đại học.)
+ Các chế định pháp lí đặc thù (chế định pháp lí đặc thù của dòng họ common
law là chế định ủy thác, của dòng họ civil law là chế định nghĩa vụ).
+ Các nguồn luật mà HTPL này chấp nhận và cách thức nó sử dụng các nguồn
luật đó trật tự nguồn luật quan trọng nhất đến ít quan trọng hơn. VD: HTPL có
nguồn án lệ quan trọng nhất rất có thể là common law,
+ Hệ tư tưởng của HTPL (HTPL nào có hệ tư tưởng theo chủ nghĩa Mác Lênin
rất có thể thuộc dòng họ pháp luật XHCN, quốc gia nào chịu ảnh hưởng của
giáo lý đạo Hồi nằm trong nhóm dòng họ pháp luật Hồi giáo, các quốc gia tư
bản chủ nghĩa có học thuyết khác như quyền tự do kinh doanh…).
Rene David
1. DHPL La mã Giéc manh

Zweigert & Kotz
1. DH PL La mã

2. DH Common law

2. DHPL Giéc manh

3. DH XHCN

3. DH Bắc âu

4. HTPL chịu ảnh hưởng KNPL & trật 4. DH Anh – Mỹ

tự xã hội khác như Hồi giáo, Do thái 5. DHPL Viễn Đông
giáo.

6. HTPL chịu ảnh hưởng tôn giáo (đạo
Hồi, Hindu, Do Thái giáo)

KL: Tiêu chí nào có các kết quả đó, phân nhóm mang tính tương đối. VD nếu
theo tiêu chí chính trị thì trên thế giới có lúc 2 nhóm TBCN và XHCN, dòng họ
civil và common không được tính đến). Không có cách nào khoa học và chính


xác hơn, việc sử dụng tiêu chí nghiên cứu nào hoàn toàn dựa vào mục tiêu và
mục đích của người nghiên cứu.
V- MÔN HỌC LUẬT SO SÁNH
1. Mục đích của môn học
a. Về kiến thức
- Hiểu được khái niệm, đặc điểm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của
luật học so sánh;
- Hiểu được sự hình thành và phát triển của các dòng họ pháp luật trên thế
giới;
- Hiểu được nội dung các loại nguồn luật, cách thức áp dụng các loại nguồn
luật trong các HTPL ở các nước trên thế giới;
- Hiểu được hệ thống toà án và thẩm quyền giải quyết các vụ việc của toà án ở
một số nước trên thế giới;
- Hiểu được việc đào tạo luật và nghề luật ở một số nước trên thế giới.
b. Về kĩ năng
- Hình thành và phát triển năng lực thu thập thông tin về pháp luật của các
nước trên thế giới; kĩ năng tổng hợp, hệ thống hoá thông tin pháp luật nước
ngoài;
- Phân tích, bình luận, đánh giá các HTPL;

- Hình thành và phát triển kĩ năng so sánh pháp luật để ứng dụng vào thực tiễn.
c. Về thái độ
- Tích cực nâng cao trình độ nhận thức về HTPL của các nước trên thế giới;
- Khách quan hơn trong đánh giá HTPL Việt Nam.
e. Các mục tiêu khác
- Góp phần phát triển kĩ năng cộng tác, LVN;
- Góp phần phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo, khám phá tìm tòi;
- Góp phần trau dồi, phát triển năng lực đánh giá;
- Góp phần rèn kĩ năng lập kế hoạch, tổ chức, quản lí, theo dõi kiểm tra việc
thực hiện chương trình học tập.


2. Nội dung của môn học
- Phần chung : (Các kiến thức cơ bản về LSS như khái niệm Luật so sánh, đặc
điểm của LSS, đối tượng và phương pháp của LSS, chức năng của LSS, lịch sử
LSS, phân nhóm các HTPL thế giới...)
Vấn đề 1. Nhập môn luật học so sánh
- Phần riêng: (Các nội dung chính về các dòng họ pháp luật như: lịch sử hình
thành và phát triển, các đặc trưng của dòng họ pháp luật, các chế định đặc thù,
nguồn luật, hệ thống tòa án, đào tạo luật và hành nghề luật...)
Vấn đề 2. Dòng họ civil law
Vấn đề 3. Dòng họ common law
Vấn đề 4. Dòng họ pháp luật xã hội chủ nghĩa
Vấn đề 5. Dòng họ pháp luật Hồi giáo
Vấn đề 6. HTPL của một số quốc gia ở Đông Á
3. Yêu cầu của môn học Luật so sánh
Môn học này được giảng dạy sau khi sinh viên đã có những kiến thức nền tảng
về lí luận nhà nước và pháp luật.




×