Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

“Sự phát triển tính kháng thuốc của quần thể rầy nâu mẫn cảm đối với một số hoạt chất thuốc BVTV năm 2018”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.04 KB, 37 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1.Đặt vấn đề
Nước ta là một nước nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là một trong ba ngành có tác động
lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Nhắc đến nông nghiệp nước ta không thể không
nhắc đến cây lúa nước, cây lúa là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm cây
lương thực của nước ta nói riêng và người dân Châu Á nói chung. Theo tổng
cục thống kê năm 2017, tổng diện tích lúa gieo trồng khoảng ước tính đạt 7,72
triệu ha giảm 26,1 nghìn ha so với năm 2016, năng suất bình quân đạt 55,5 tạ/ha
giảm 0,2 tạ/ha. Hiện nay, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
cây lúa trong đó ảnh hưởng lớn đến sản xuất lúa là sự gây hại của các loài dịch
hại và đặc biệt là nhóm côn trùng gây hại. Trong những năm gần đây, rầy hại lúa
đã bùng phát trên diện rộng gây hại lớn về kinh tế của nhiều địa phương trồng
lúa.
Ở Việt Nam, rầy nâu xuất hiện và gây hại ở tất cả các vùng trồng lúa. Dự
báo sâu bệnh trong tuần từ 08 – 14/5/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn. Tại các tỉnh phía Bắc trên lúa rầy nâu hại trên diện tích hẹp trên các
trà lúa và trên các giống nhiễm. Tại các tỉnh Bắc Trung Bộ rầy nâu đang tiếp tục
tích lũy số lượng và gia tăng phạm vi, mức độ gây hại trong thời gian tới. Các
tỉnh Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long rầy nâu chủ yếu tuổi trưởng
thành mang trứng. Thông báo tình hình sinh vật gây hại chủ yếu 7 ngày trên một
số cây trồng từ ngày 18/5/2018 đến ngày 26/5/2018 của Cục Bảo vệ thực vật,
trên cây lúa rầy hại lúa diện tích nhiễm 13945 ha (tăng 808 ha so với kỳ trước,
giảm 10,154 ha so với CKNT) nhiễm nặng 136 ha, phòng trừ 4012 ha. Tập
trung tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Phú Thọ, Bạc Liêu, Tiền Giang, An
Giang, Long An, .... (Cục BVTV, 2018).
Để phòng trừ rầy nâu sử dụng thuốc BVTV là biện pháp có hiệu lực
mạnh và nhanh chóng, dễ sử dụng, chi phí thấp hơn so với một số biện pháp
1



phòng trừ khác. Tuy nhiên do áp dụng thuốc BVTV không hợp lí nên đã để lại
hậu quả không lười cho con người và môi trường. Sau một thời gian sử dụng
thuốc BVTV lặp đi lặp lại cùng với sử dụng không đúng theo khuyến cáo liều
lượng ghi trên bao bì, không tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng khi sử dụng thuốc,
lạm dụng thuốc BVTV. Do vậy mà khi sử dụng thuốc để phòng trừ rầy nâu gây
hại trên diện tích trồng lúa thì thuốc không còn tác dụng đến rầy nâu nữa, đây là
hiện tượng rầy nâu đã kháng thuốc gây thiệt hại lớn đến tình hình sản xuất lúa ở
nước ta.
Xác định được sự nghiêm trọng và cần thiết của vấn đề rầy nâu đã kháng
thuốc nên mà tôi đực sự phân công của bộ môn Côn trùng, Khoa Nông học, Học
Viện Nông Nghiệp Việt Nam với sự hướng dẫn của PGS.TS. Hồ Thị Thu Giang
tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Sự phát triển tính kháng thuốc của quần thể rầy nâu mẫn cảm đối với một
số hoạt chất thuốc BVTV năm 2018”
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích của đề tài
- Đánh giá sự phát triển tính kháng thuốc của quần thể rầy nâu mẫn cảm
Nilaparvata lugens Stal đối với hoạt chất trừ rầy khác nhau có cơ chế tác động
qua các thế hệ nhằm xác định thời gian kháng thuốc của rầy nâu từ đó lựa chọn
thuốc phòng trừ hợp lí.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá sự phát triển tính kháng của quần thể rầy nâu mẫn cảm với các hoạt
chất qua các thế hệ nuôi trong phòng thí nghiệm.
- Ảnh hưởng của một số thuốc trừ rầy đến đặc điểm sinh học rầy nâu mẫn cảm.
- Đánh giá mức độ kháng chéo của rầy nâu đối với một số hoạt chất.

2


PHẦN II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI

NƯỚC
2.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
2.1.1. Đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy nâu
Theo Hulu, rầy nâu trưởng thành có kích thước 4 – 5mm, màu nâu. Rầy
trưởng thành có hai dạng là rầy cánh dài và rầy cánh ngắn, thời gian sống là 10
– 20 ngày. Trứng có hình dạng lưỡi liềm (0,99 mm), màu trắng, giai đoạn trứng
là 4 – 8 ngày. Rầy non màu trắng sữa, màu kem, với đường viền màu nâu nhạt,
giai đoạn rầy non từ 2 – 3 tuần với 5 tuổi.
Theo Manikandan (2015), các thí nghiệm được thực hiện trong buồng
điều khiển nhiệt độ với năm nhiệt độ khác nhau là 28, 30, 32, 34, 36°C. Kết quả
thí nghiệm cho thấy ở các mức nhiệt độ khác nhau có sự chênh lệch về thời gian
tiền đẻ trứng, thời gian đẻ trứng, vòng đời. Kết quả cụ thể là ở nhiệt độ 28°C thì
thời gian tiền đẻ trứng, thời gian đẻ trứng và vòng đời của rầy nâu lần lượt là 5,
12 và 44 ngày, ở nhiệt độ 30°C lần lượt là 4, 12 và 44 ngày. Ở nhiệt độ 32°C
thời gian tiền đẻ trứng là ngày, thời gian đẻ trứng là ngày và vòng đời là ngày.
Nhiệt độ 34°C thời gian tiền đẻ trứng là ngày, thời gian đẻ trứng là ngày và
vòng đời là ngày. ở nhiệt độ 36°C thời gian tiền đẻ trứng, thời gian đẻ trứng,
vòng đời lần lượt là ngày.
2.1.2. Tính kháng thuốc của rầy nâu ở ngoài nước
Endo et al. (1988) giữa những năm 1970, ở Đài Loan tính kháng của rầy
nâu đối với Ethyl parathion đã tăng 13 lần và đối với BPMC tăng 4 lần. Đến
tháng 10 năm 1978, rầy nâu một số nơi ở Đài Loan kháng được với MIPC và
MIMC. Trong lúa đó, chưa thấy rầy kháng lại những loại thuốc như
Monocrotofos, Acephate và Carbofuran. Đến năm 1982, cũng tại Đài Loan, các
kết quả khảo sát tính kháng thuốc của rầy nâu với 4 loại đã được thông báo.
Dòng rầy nâu kháng thuốc Malathion phát triển rất nhanh trong phòng thí
3


nghiệm: bằng cách liên tục chọn lọc một dòng rây nâu thu từ đồng ruộng qua 9

thế hệ đã tăng tính kháng lên 1.182 lần so với dòng mẫn cảm. Một dòng rầy nâu
kháng thuốc MIPC cũng được chọn lọc tương tự qua 16 thế hệ đã tăng mức
kháng thuốc lên 41 lần. Với hai thuốc Propoxur và Permethrin, cả hai dòng rầy
nâu đều kháng giống nhau và ở mức độ rõ rệt trong khi vẫn mẫn cảm với thuốc
Fenvalerate. Đến năm 1988, mức mẫn cảm của dòng rầy nâu kháng Malathion
và dòng rầy nâu kháng MTMC với thuốc Malathion giảm tương ứng là 39 và 25
lần và với thuốc MTMC giảm tương ứng 2,5 và 4,2 lần sau 45 thế hệ chọn lọc.
Zewen Liu et al. (2003) lựa chọn kháng imidacloprid ở Nilaparvata
lugens các mẫu kháng chéo và cơ chế có thể. Một quần thể Nilaparvata lugens
ruộng (P) được thu thập vào năm 2000 và liên tục được chọn lọc với
imidacloprid cho 25 thế hệ trng phòng thí nghiệm. sự thay đổi của LD50
imidacloprid trong quá trình chọn lọc cho thấy trong bảy thế hệ đầu tiên, chọn
lọc với imidacloprid dẫn đến sự gia tang giá trị LD50 (từ 0,82 đến 1,20 ng/cá
thể). LD50 tăng đều cho đến thế hê 22 giá trị là 8,76 ng/cá thể và duy trì mức
giá trị này. Việc chọn lọc qua 25 thế hệ làm tang giá trị LD50 gấp 11,35 lần, tạo
ra một chủng kháng với tỷ lệ kháng (RR) là 72,83 so với chủng mẫn cảm (LD50
= 0,12 ng/cá thể).
Masumura et al. (2008) tính kháng thuốc của rầy nâu với nhóm
Neonicotinoid (chủ yếu là thuốc Imidacloprid) được ghi nhận đầu tiên ở Thái
Lan năm 2003, sau đó là ở một loạt các nước châu Á như Việt Nam, Trung
Quốc, Nhật Bản. Các nghiên cứu trên các quần thể rầy nâu thu thập từ các nước
Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam trong các năm
2005 và 2006 cho thấy trong 12 nguồn rầy thu thập năm 2005 có 2 nguồn thu
thập từ Ấn Độ đã kháng Imidacloprid, các nguồn rầy còn lại đều mẫm cảm với
thuốc. Nhưng đến năm 2006, tất cả 13 nguồn rầy nau thu thập đều đã kháng
Imidacloprid, trong đó đường phản ứng liều lượng cho thấy có một nguồn rầy
nâu có mức kháng cao gấp 100 lần so với dòng mẫn cảm.
Wang Yanhua et al. (2008) tính nhạy cảm với neonicotinoid và nguy cơ
phát triển tính kháng của Nilaparvata lugens. Kết quả chỉ ra rằng có sự khác biệt
4



đáng kể về tính kháng với các loại thuốc trừ sâu khác nhau trong quần thể rầy.
quần thể rầy đã phát triển các mức kháng biến đổi với nhóm hoạt chất
neonicotinoids, với mức kháng cao đối với imidacloprid (RR: 135.3 – 301.3
fold), mức kháng trung bình với imidaclothiz (RR: 35 – 41.2 fold), mức kháng
thấp với thiamethoxam (lên đến 9.9 lần) và chưa có tính kháng với dinotefuran,
nitenpyram và thiacloprid (RR: < 3 lần). quần thể rầy đã phát triển tính kháng
trung bình fipronil (lên đến 10.5 lần) và một số đã phát triển tính kháng nhẹ với
buprofezin. Ngoài ra, rầy nâu có thể phát triển tính kháng lên 1424 lần với
imidacloprid trong phòng thí nghiệm khi tạo áp lực chọn lọc imidacloprid cho
26 thế hệ.
Wang et al. (2009) khả năng kháng chéo với các thuốc trừ sâu khác được
xác định bằng cách so sánh tỷ lệ kháng của chủng kháng cao imidacloprid (R:
được chọn từ phòng thí nghiệm với RR = 1298 – fold) với tỷ lệ kháng của một
quần thể kháng imidacloprid tương đối thấp (Lab: RR = 200 - fold). Các chủng
resistan (R) cho thấy kháng chéo đáng kể với imidaclothiz (t = 2,96, d.f. = 1,
P<0.05), thiacloprid (t = 2,98, d.f.= 1, P<0.05) và acetamiprid (t = 1,73, d.f. = 1,
P<0.05) và mức độ kháng chéo nhẹ với dinotefuran (t = 1,19, d.f. = 1, P>0.05)
và thiamethoxam (t = 0,35, d.f. = 1, P>0.05). Không có kháng chéo với
nitenpyram (t = 0,43 , d.f. = 1, P > 0.05) buprofezin (t = 0,6, d.f. = 1, P>0.05) và
fipronil (t = 0, d.f. = 1, P>0.05).
Công trình nghiên cứu so sánh giá trị LD50 nhóm thuốc BPMC, nhóm
được sử dụng rất phổ biến dùng để kiểm soát rầy nâu tại 4 quốc gia khác nhau là
Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc và Philippin trong nhiều năm qua của L.
Fabellar, P. Garcia và ctv. Theo đó, mặc dù chúng vẫn duy trì được hiệu quả một
cách tương đối tuy nhiên việc sử dụng liên tục trong một thời gian dài làm tăng
nhanh giá trị LD50 của các nhóm thuốc này. Theo kết quả nghiên cứu trên thì
các quần thể rầy nâu của Philippin có giá trị LD50 thấp nhất trong 4 nước. cụ
thể LD50 của Philippin (0,835 – 4,877µg/g); LD50 của Thái Lan (1,418 – 1,904

µg/g); LD50 của Việt Nam (25,450 – 30,436 µg/g); LD50 của Trung Quốc
5


(12,848 – 44,792 µg/g). Như vậy, trong các quần thể rầy nâu ở 4 nước nghiên
cứu chỉ có quần thể rầy nâu của Thái Lan vẫn duy trì ở mức mẫn cảm. Giá trị
LD50 của hai quần thể rầy nâu tại Việt Nam và Trung Quốc có giá trị tương đối
lớn và rất đáng quan tâm.
Theo L. Fabellar and P. Garcia (2010) mặc dù thuốc trừ sâu sử dụng ở
Philippin tương đối thấp đối với các nước Đông Nam Á đang phát triển khác
như Thái Lan và Việt Nam nhưng các quần thể rầy nâu tại Philippin vẫn có dấu
hiệu suy giảm tính mẫn cảm đáng lo ngại. các thử nghiệm được tiến hành đánh
giá chỉ số LD50 của 5 loại thuốc trừ sâu bao gồm Fipronil, Imidacloprid,
BPMC, Chlorpyrifos, Isoprocarb đối với 6 quần thể nằm phân bố đều trên các
đảo của Philippin cho thấy giá trị LD50 của các nhóm thuốc ở mức cao. Cụ thể,
giá trị LD50 của Fipronil ở 6 địa điểm nghiên cứu dao động từ (93,18 – 243,51
µg/g); LD50 của Imidacloprid (24,45 – 245,39µg/g); LD50 của BPMC (2146,26
– 28540,58 µg/g); LD50 của Chlorpyrifos (5676,60 – 15233,75 µg/g); LD50
của Isoprocarb (907,86 – 3295,38 µg/g).
Basanth et al. (2013) tính nhạy cảm của các quần thể Nilaparvata lugens
khác nhau từ các vùng trồng lúa chính cuả Karnataka, Ấn Độ với các nhóm
thuốc trừ sâu khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ kháng rất khác nhau
ở các quần thể. Chlorpyriphos (1.13 đến 16.82fold), imidacloprid (0.53 đến
13.50fold), acephate (1.34 đến 5.32fold), fipronil (1.13 đến 4.06fold),
thiamethoxam (1.01 đến 2.19fold), clothianidin (1.92 đến 4.86fold), dinotefuran
(0.82 đến 2.22fold), buprofezin (1.06 đến 5.43fold) và carbofuran (0.41 đến
3.52fold).
2.1.3. Ảnh hưởng của thuốc đến đặc điểm sinh học của rầy nâu mẫn cảm
Bao Haibo et al. (2008) nghiên cứu tác dụng phụ của bốn loại thuốc trừ
sâu trên sự sinh sản và hình thành hình dạng cánh của rầy nâu kết quả cho thấy

hai hoạt chất imidacloprid và dinotefuran làm giảm sự phát triển của rầy nâu.
Kết quả cụ thể imidacloprid và dinotefuran lần lượt là 68,8% và 52,4% ở các
rầy nâu cánh dài, lấn lượt là 57,9% và 43,1% ở rầy nâu cánh ngắn đối với đối
chứng không xử lý qua thuốc.
6


2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
2.2.1. Đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy nâu
Theo Nguyễn Viết Tùng (2006), rầy nâu hay còn được gọi là muội nâu có
tên khoa học Nilaparvata lugens Stal, họ Muội bay Delphacidae, Bộ Cánh đều
Homoptera.
Rầy nâu có mặt ở khắp các vùng trồng lúa trong nước nhất là các vùng
lúa thâm canh, từ đồng bằng, ven biển, trung du cho đến các vùng núi cao như
Điện Biên, Mù Căng Chải ( Nguyễn Công Thuật, 1996). Trên thế giới, chúng có
mặt ở Trung Quốc, Đông Nam Á, Ấn Độ, Triều Tiên, Úc. Hàng năm, chúng
xuất hiện ở Nhật Bản do di cư từ miền Nam Trung Quốc, Việt Nam.
Đặc điểm hình thái của rầy nâu:


Rầy trưởng thành có hai dạng: cánh dài và cánh ngắn
- Dạng cánh dài: con cái dài (kể cả cánh) 4,5 – 5mm. Mặt bụng màu nâu vàng,
đỉnh đầu nhô ra phía trước. Mắt kép màu nâu, mắt đơn hai màu nâu đỏ, phần
gốc râu có 2 đốt phình to, đốt roi râu dài nhỏ, nhiều đốm. Trên mảnh lưng ngực
trước và phiến mai đều có bụng rộng, phía cuối dạng rãnh. Con đực dài (kể cả
cánh) 3,6 – 4mm. Đa số màu nâu tối, bé, gầy hơn con cái, cuối bụng dạng loa
kèn.
- Dạng cánh ngắn: con cái dài 3,5 – 4mm, thô, lớn. Cánh trước kéo dài tới giữa
đốt bụng thứ 6 bằng 1/2 chiều dài cánh trước của dạng cánh dài. Con đực dài 2
– 2,5mm, gày, đa số màu đen nâu, cánh trước kéo dài tới 2/3 chiều dài của bụng.




Rầy non: lưng màu nâu đậm. Phần ngực có đốm dạng mây không quy củ. Đốt
thứ 4 – 5 phần bụng có vân ngang màu hổ phách, bụng màu trắng sữa, mầm



cánh kéo dài tới đốt thứ 4 của bụng.
Trứng hình bầu dục dài hơi cong, cuối quả trứng hơi thon, nắp quả trứng tựa
hình thang.
Rầy nâu trưởng thành thường tập trung thành đám trên thân cây lúa phía dưới
khóm để hút nhựa. Khi bị khua động thì lẩn trốn bằng cánh bò ngang hoặc nhảy
7


sang cây khác, hoặc xuống nước hoặc bay đi chỗ khác. Ban ngày trưởng thành ít
hoạt động ở trên lá lúa. Chiều tối bò lên phía trên thân lúa hoặc lá lúa. Khi lúa ở
thời kỳ chín, phần dưới của thân lúa đã cứng khô thì ban ngày chúng tập trung
phía trên cây lúa hoặc gần chỗ non mềm của cuống bông để hút nhựa. Rầy
trưởng thành có xu hướng ánh sáng mạnh ( trừ rầy trưởng thành cánh ngắn) do
đó đêm tối trời lặng gió chúng thường bay vào đèn nhiều nhất là khoảng 19 –
23h.
2.2.2 Tính kháng thuốc của rầy nâu ở trong nước
Theo Nguyễn Thị Me và cs. (2002) đã tiến hành nghiên cứu cho thấy giá
trị LD50 của một số hoạt chất đối với rầy nâu ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng
thu thập năm 2000 – 2001. Giá trị LD50 của các hoạt chất thử nghiệm thì nhóm
lân hữu cơ có giá trị LD50 cao nhất biến động từ 32,14 – 92,65 (µg/g), tiếp đến
nhóm Carbamat chỉ số LD50 biến động 2,15 – 76,27 (µg/g), nhóm Pyrethroid là
thuốc ít dùng đối với rầy nâu song chỉ số LD50 biến động khá cao từ 13,49 –

49,4 (µg/g). Duy chỉ có Ethofenprox là thuốc vẫn còn mẫn cảm với rầy nâu chỉ
số LD50 biến động từ 1,74 – 9,17 (µg/g). (Nguyễn Thị Me và cs, 2002).
Ngô Thanh Trà (2010) tiến hành thí nghiệm đánh giá hiệu lực trừ rầy nâu
của các nhóm thuốc thí nghiệm tiến hành tại Xã Mỹ Thạnh Nam – Huyện Cai
Lậy – Tỉnh Tiền Giang, thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối đầy đủ ngẫu
nhiên. Kết quả thu được cụ thể đối với nhóm thuốc Fenobucarb giá trị LD 50 đạt
6.125,2 – 912,9 (µg/g), hiệu lực trừ rầy nâu ngoài đồng (xử dụng Bassa 50EC,
liều lượng 1,5 (lít/ha) đạt cao nhất 61,21% ở thời điểm 5NSP. Đối với nhóm
thuốc Buprofezin giá trị LD50 đạt 104,3 – 80,1 (µg/g), hiệu lực trừ rầy nâu ngoài
đồng (sử dụng Applaud 10WP, liều lượng 1,2 kg/ha) đạt cao nhất 78,89 % ở thời
điểm 5NSP. Đối với nhóm thuốc Fipronil giá trị LD50 đạt 83,4– 38,1 (µg/g), hiệu
lực trừ rầy nâu ngoài đồng (xử dụng Regent 800WG, liều lượng 0,08 kg/ha) đạt
cao nhất 79,03 % ở thời điểm 5NSP. Đối với nhóm thuốc Imidacloprid giá trị
LD50 đạt 405,6 – 384,3 (µg/g), hiệu lực trừ rầy nâu ngoài đồng (xử dụng Admire
050EC, liều lượng 0,8 lít/ha) đạt cao nhất 51,34 % ở thời điểm 5NSP.

8


Theo Lê Thị Kim Oanh và cs. (2011), cho thấy 7/7 quần thể rầy nâu (Hà
Nội, Nam Định, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Phú Thọ, Bắc Giang) kháng
với hoạt chất fenobucarb với chỉ số kháng (11,18 – 33,31). Có 4/7 quần thể rầy
nâu (Phú Thọ, Bắc Giang, Hưng Yên, Thái Bình) kháng cao với hoạt chất
imidacloprid với chỉ số kháng (20,00 - 98,52). Có 2/7 quần thể rầy nâu (Hưng
Yên, Thái Bình) kháng với hoạt chất fipronil với chỉ số kháng (11,78 – 18,52).
Kết quả cho thấy các quần thể rầy nâu có biểu hiện gia tang mức độ kháng sau 1
năm. Với hoạt chất Fenobucarb cao nhất ở quần thể rầy nâu Bắc Giang tăng
6,76 lần (0,62 đến 4,19 µg/g), Vĩnh Phúc tăng 4,13 lần (2,68 đến 11,08 µg/g),
Thái Bình tăng 2,05 lần (5,16 đến 10,60 µg/g), Hà Nội tăng 1,96 lần (3,73 đến
7,32 µg/g) và Nam Định tăng 1,94 lần (2,62 đến 5,09 µg/g). Đối với hoạt chất

Imidacloprid cao nhất ở quần thể rầy nâu Bắc Giang tăng 4,09 lần (0,46 đến
1,88 µg/g), Thái Bình tăng 1,89 lần (0,36 đến 0,68 µg/g), Nam Định tăng 1,86
lần (0,14 đến 0,26 µg/g) riêng quần thể rầy ở Hà Nội không tăng (0,17 đến 0,14
µg/g).
Theo Nguyễn Thanh Hải (2011) đánh giá tính mẫn cảm của rầy nâu
(Nilaparvata lugens Stal) đối với một số thuốc trừ sâu ở các tỉnh Thái Bình,
Hưng Yên và Phú Thọ vụ mùa năm 2010. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ
mẫn cảm của các quần thể rầy nâu với hoạt chất fenobucarb của các tỉnh Thái
Bình, Hưng Yên và Phú Thọ lần lượt là 10,603 (µg/g), 12,585 (µg/g) và 7,82
(µg/g). Mức độ mẫn cảm của các quần thể rầy nâu với hoạt chất imidacloprid
của các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên và Phú Thọ cụ thể lần lượt là 0,679 (µg/g),
1,435 (µg/g) và 3,349 (µg/g).
Tính kháng thuốc trừ sâu imidacloprid đã được ghi nhận trên các quần thể
rầy nâu ngoài đồng ruộng tại thành phố Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Long An,
Sóc Trăng và An Giang. Tất cả các quần thể rầy nâu tại các đại phương khác
đều tồn tại tính kháng imidacloprid (Ri > 20). Giá trị LD50 giữa các quần thê
rầy nâu khảo sát không chênh lệch nhiều, nằm trng khoảng 5,6 đến 8,509. (Lê
Thị Diệu Trang và cs, 2012)
9


Nguyễn Hồng Phong và cs. (2012) quần thể rầy nâu thu tại Long An có
LD50 với imidacloprid là 12,87µg/g (Ri = 10,5). Sau 2 thế hệ không chọn lọc,
LD50 giảm còn 3,83µg/g ở thế hệ thứ 4. Kết quả chọn lọc với imidacloprid từ
thế hệ thứ 4 cho thấy sau 9 thế hệ chọn lọc LD50 tăng 22 lần từ 3,83 đến 86,564
µg/g, tốc độ gia tăng trung bình là 9,2 µg/g/thế hệ. Trong các thế hệ đầu chọn
lọc tính kháng tăng chậm khoảng 5,4 µg/g/thế hệ đến thế hệ thứ 9, nhưng sau
đó tính kháng tăng nhanh 13, 9 µg/g/thế hệ từ thế hệ thứ 9 đến thế hệ thứ 13.
Đối với hoạt chất fipronil LD50 thế hệ thứ nhất là 0,63µg/g (Ri = 13). Sau 1 thế
hệ không chọn lọc (do các khó khăn trong việc nuôi rầy, rầy nuôi được không

đủ để thí nghiệm), LD50 thế hệ thứ 2 giảm còn 0,35 µg/g. Tuy đã bắt đầu chọn
lọc từ thế hệ thứ 2 nhưng LD50 của thế hệ thứ 3 giảm nhẹ còn 0,27 µg/g, sau đó
tăng dần với tốc độ chậm đến thế hệ thứ 7 (0,58 µg/g), trung bình 0,08 µg/g/thế
hệ. Từ thế hệ thứ 7 tốc độ gia tăng tính kháng tăng lên đạt 1,39 µg/g ở thế hệ
thứ 9, trung bình 0,4 µg/g/thế hệ. Từ thế hệ thứ 9 tính kháng tăng mạnh đạt
5,374 µg/g ở thế hệ thứ 12, trung bình 1,327 µg/g/thế hệ. Như vậy sau 11 thế hệ
chọn lọc LD50 tăng 15,4 lần. Đối với hoạt chất fenobucarb LD50 thế hệ thứ
nhất là 15,59 µg/g (Ri = 7,3). Sau 1 thế hệ không chọn lọc, LD50 ở thế hệ tiếp
theo giảm nhẹ còn 15,2 µg/g ở thế hệ thứ 3. Do đã bắt đầu chọn lọc từ thế hệ
thứ 2, LD50 bắt đầu tăng. LD50 tăng chậm ở các thế hệ đầu chọn lọc, cụ thể
đến thế hệ thứ 4 đạt 24,77µg/g, với tốc độ là 4,79 µg/g/thế hệ. Sau đó LD50
tăng nhanh đến thế hệ thứ 12 là 116,734 µg/g, với tốc độ là 11,5 µg/g/thế hệ.
Như vậy sau 11 thế hẹ chọn lọc liên tục với fenobucarb LD50 tăng 7,7 lần.
Theo Phùng Văn Tương và cs. (2013), quần thể rầy nâu thu thập tại 3
tỉnh: Long An, Tiền Giang và An Giang đều thể hiện tính kháng 3 hoạt chất
thuốc fenobucarb, imidacloprid và fipronil. Tính kháng 3 hoạt chất này tăng dần
theo thời gian trong 3 năm nghiên cứu (2009 – 2011). Kết quả đánh giá mức
mẫn cảm của rầy nâu với hoạt chất fenobucarb, cụ thể chỉ số kháng Ri của quần
thể rầy An Giang tăng mạnh từ 42,6 (2009) lên 65,6 (2010), sau đó tăng chậm
đến 66,4 (2011), đối với chỉ số kháng của quần thể rầy nâu ở Tiền Giang thì
10


tăng liên tục trong 3 năm từ 2009; 2010 đến năm 2011 theo thứ tự là 57,4; 66,9
và 74,9. Còn đối với quần thể rầy nâu ở Long An thì tăng chậm đều đều qua 3
năm theo thứ tự là 61,4; 63,0 và 68,3. Kết quả nghiên cứu mức độ mẫn cảm của
rầy nâu với hoạt chất fipronil, cụ thể chỉ số kháng Ri của quần thể rầy nâu ở An
Giang tăng mạnh từ 21,6 (2009) lên 31,4 (2010), sau đó tăng đến 37,3 (2011),
đối với chỉ số kháng rầy nâu ở Tiền Giang thì tăng cao liên tục trong 3 năm từ
2009; 2010 đến năm 2011 theo thứ tự là 29,4; 37,3 và 41,2. Còn đối với quần

thể rầy nâu ở Long An thì tăng đều qua 3 năm theo thứ tự là 25,5; 27,5 và 35,3.
Mức mẫn cảm với imidacloprid của rầy nâu qua 3 năm (2009 – 2011) cụ thể
như sau. Chỉ số kháng Ri của quần thể rầy nâu ở An Giang tăng từ 40,5 (2009)
lên 61,9 (2010), sau đó tăng đến 73,8 (2011), đối với quần thể rầy nâu ở Tiền
Giang thì tăng cao liên tục trong 3 năm 2009; 2010 đến năm 2011 theo thứ tự là
42,9; 57,1 và 83,3. Còn đối với quần thể rầy nâu ở Long An thì tăng đều qua 3
năm theo thứ tự là 57,1; 66,7 và 78,6.
Trên nguồn rầy nâu mẫn cảm, các hoạt chất fenobucab, imidacloprid và
profenofos đã thí nghiệm có giá trị LD50 tăng nhẹ và khác biệt không có ý
nghĩa thống kê giữa 2 năm 2014 và 2015. Giá trị cụ thể đối với hoạt chất
fenobucab giá trị LD50 của rầy nâu mẫn cảm của 2 năm 2014 và 2015 lần lượt
là 0,5 (µg/g ) và 0,6 (µg/g). Imidacloprid giá trị LD50 của năm 2014 và 2015
lần lượt là 0,12 (µg/g) và 0,13 (µg/g). Đối với hoạt chất profenofos giá trị LD50
của năm 2014 và 2015 lần lượt là 2,1 (µg/g) và 3,1 (µg/g). mức độ kháng của 3
quần thể rầy nâu thu thập từ tỉnh Tiền Giang, Cần Thơ và An Giang trong các
năm 2014 và 2015 có sự thay đổi. Đối với hoạt chất fenobucarb ở hai tỉnh Cần
Thơ chỉ số Ri năm 2015 giảm đi so với năm 2014, cụ thể tỉnh Cần Thơ giảm từ
139.8 xuống 129.5; tỉnh An Giang giảm từ 128.2 xuống 81.8. Riêng tỉnh Tiền
Giang tăng từ 83.8 lên 118.5. Đối với hoạt chất imidacloprid chỉ số Ri từ năm
2014 đến năm 2015 ở tỉnh Tiền Giang giảm từ 219.2 xuống 185.4; tỉnh Cần Thơ
giảm từ 160 xuống 136.2. Riêng tỉnh An Giang tăng từ 203.3 lên 210. (Phùng
Minh Lộc và cs, 2016)
11


Bùi Xuân Thắng và cs. (2017) mức độ kháng thuốc của quần thể rầy nâu
ở An Giang sau một số thế hệ không tiếp xúc với hoạt chất Imidacloprid. Quần
thể rầy nâu ở An Giang nuôi trên 2 giống lúa TN1 và OM6976 không tiếp xúc
với hoạt chất Imidacloprid qua nhiều thế hệ trong phòng thí nghiệm. Kết quả
cho thấy tính kháng của quần thể rầy nâu đối với hoạt chất Imidacloprid giảm

khi số thế hệ tăng. Trên giống TN1, tỷ lệ kháng của rầy nâu với hoạt chất
Imidacloprid giảm nhanh từ 127,98 ở thế hệ thứ nhất (G1) xuống 32,63 ở thế hệ
thứ 12 (G12). Rầy nâu được nuôi trên giống OM6976, tỷ lệ kháng của rầy nâu
với hoạt chất Imidacloprid giảm nhanh hơn so với rầy nâu nuôi trên giống TN1
từ 125,27 ở thế hệ G1 xuống 18,96 ở thế hệ G12. Mức kháng thuốc của quần
thể rầy nâu ở An Giang sau một số thế hệ tiếp súc chọn lọc với hoạt chất thuốc
Imidacloprid. Rầy nâu nuôi trên giống TN1, tỷ lệ kháng của rầy nâu với hoạt
chất tăng từ 127,98 ở thế hệ G1 lên 211,69 ở thế hệ thứ G12. Khi rầy nâu được
nuôi trên giống OM6976, tỷ lệ kháng của rầy nâu với hoạt chất Imidacloprid
tăng chậm hơn so với rầy nâu được nuôi trên giống TN1 từ 125,27 ở thế hẹ G1
lên 179,69 ở thế hệ G12.
Theo Huỳnh Thị Ngọc Diễm và cs. (2017), kết quả cho thấy cả ba quần
thể rầy nâu ở Cai Lậy, Châu Thành và Cái Bè đều đã kháng rất cao với
pymetrozine. Kết quả cụ thể qua 7 thế hệ chọn lọc liên tục với pymetrozine trên
quần thể rầy nâu thu ở huyện Cai Lậy cho thấy LD50 tăng dần sau mỗi thế hệ
chọn lọc (117,615 – 151,644 µg/g) và chỉ số kháng (Ri) cũng tăng cao. Ở thế hệ
2, Ri đạt 964,06 (>160) có nghĩa là rầy nâu ở Cai Lậy đã kháng rất cao với
thuốc. Qua 7 thế hệ chọn lọc, Ri càng tăng, đạt giá trị là 1242, 98 ở thế hê 8 (cao
gấp 1,29 lần so với thế hệ ban đầu dưới áp lực chọn lọc. Đối với quần thể rầy
nâu tại Chân Thành, giá trị LD50 ở thế hệ 2 là 122,370 (µg/g) và tăng dần qua
mỗi thế hệ chọn lọc với thuốc. Ở thế hệ thứ 8, giá trị LD50 đạt 153,185 (µg/g),
chỉ số kháng cũng tăng từ 1003,03 (ở thế hệ thứ 2) đến 1256,59 (ở thế hệ 8) cao
gấp 1,25 lần sao với thế hê ban đầu (thế hệ thứ 2). Điều này cho thấy quần thể
rầy nâu tại Châu Thành cũng kháng rất cao. Qua các thế hệ chọn lọc từ thế hệ
12


thứ 2 đến thế hệ 8, rầy ở huyện Cái Bè có giá trị LD50 đạt từ 126,004 đến
158,728 (µg/g), chỉ số kháng cũng đạt từ 1032,82 đến 1301,05 tăng gấp 1,26
lần so với ban đầu (cao hơn rất nhiều so với chỉ số quy định về mức độ kháng

thuốc cao nhất (> 160) gấp 6,5 đến 8,1 lần).
Theo Phùng Minh Lộc và cs. (2017) đã công bố kết quả đánh giá mức độ
mẫn cảm của các quần thể rầy nâu Tiền Giang, Cần Thơ, An Giang và quần thể
mẫn cảm trong hai năm 2015 và 2016 bằng phương pháp nhỏ giọt. Kết quả cho
thấy giá trị LD50 của các hoạt chất dinotefuran, nitenpyram và sulfoxaflor giữa
3 nguồn rầy tại các tỉnh Tiền Giang, Cần Thơ, An Giang cũng như giữa 2 năm
2015 và 2016 khác biệt không có ý nghĩa thống kê, nhưng khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với nguồn mẫn cảm ở mức độ giới hạn tin cậy 95%. Cụ thể, với
hoạt chất dinotefuran, giá trị LD50 của tỉnh Tiền Giang, Cần Thơ và An Giang
có khuynh hướng tăng nhẹ từ năm 2015 đến năm 2016. Đối với hoạt chất
nitenpyram, giá trị LD50 của tỉnh Tiền Giang, Cần Thơ và An Giang có khuynh
hướng tăng qua 2 năm nghiên cứu. Tương tự, đối với hoạt chất sulfoxaflor, giá
trị LD50 của Tiền Giang tương đối ổn định qua 2 năm 2015 và 2016. Trong khi
đó, giá trị LD50 của hoạt chất nitenpyram và sulfoxaflor ở nguồn rầy Cần Thơ
và An Giang tăng gấp 2 – 3 lần và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở năm 2016 so
với năm 2015. Riêng trên nguồn rầy mẫn cảm, các hoạt chất dinotefuran,
nitenpyram và sulfoxaflor đã thí nghiệm có giá trị LD50 tương đối ổn định, thay
đổi rất thấp và khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 2 năm 2015 và 2016.
Đào Bách Khoa và cs. (2018) nghiên cứu hiện trạng tính kháng thuốc
buprofezin, entofenprox, fenobucarb và fipronil của rầy nâu tại các vùng trồng
lúa chính ở Việt Nam. Hoạt chất fenobucarb thuộc nhóm cacbomat có cơ chế tác
động tiếp xúc và vị độc, kìm hãm vị trí men tác động, dẫn đến hệ thần kinh của
côn trùng không kiểm soát được, làm mất khả năng phối hợp giữa các cơ quan,
giải phóng quá mức hoocmon, côn trùng mất nước và chết. Kết quả cho thấy
các quần thể rầy nâu thí nghiệm đều có chỉ số kháng cao đối với hoạt chất
fenobucarb (Ri = 87 – 116 lần). Quần thể rầy nâu vùng đồng bằng song Cửu
13


Long chỉ số cao nhất (Ri = 92 – 116 lần), tiếp đến là quần thể rầy nâu vùng

đồng bằng song Hồng (Ri = 87 – 119 lần) và cuối cùng là quần thể rầy nâu vùng
duyên hải miền Trung (Ri = 74 – 114 lần).
Hồ Thị Thu Giang và cs. (2018), đã tiến hành nghiên cứu tính mẫn cảm
thuốc trừ sâu của rầy nâu Nilaparvata lugens (Stal) ở một số vùng trồng lúa Việt
Nam. Kết quả cho thấy quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú
Yên và An Giang đã xuất hiện tính kháng từ trung bình đến kháng cao với hoạt
chất fenobucab, imidacloprid. Quần thể rầy nâu đã kháng nhẹ đến trung bình
với hoạt chất pymetrozine, nitenpyram, buprofezin qua các năm từ 2015 – 2017.
Đối với hoạt chất dinotenfuran quần thể rầy nâu thu thập ở các tỉnh Hưng Yên,
Nam Định, Phú Yên, Nghệ An chưa thể hiện tính kháng, riêng quần thể rầy nâu
ở An Giang bắt đầu biểu hiện tính kháng nhẹ. Các quần thể rầy nâu vẫn mẫn
cảm với hoạt chất sulfoxaflor. Giá trị LC50 của 7 hoạt chất thuốc lần lượt theo
thứ tự fenobucab > pymetrozine > buprofezin > imidacloprid > nitenfuram >
dinotenfuran > sulfoxaflor.
2.3.2. Ảnh hưởng của thuốc đến đặc điểm sinh học của rầy nâu mẫn cảm
Theo Bùi Xuân Thắng, Hồ Thị Thu Giang. (2018) “ Ảnh hưởng của hoạt
chất imidacloprid và nitenpyram đến một số đặc điểm sinh học và dạng hình
cánh của rầy nâu Nilaparvata lugens (Stal)” kết quả nghiên cứu cho thấy sức đẻ
trứng của rầy nâu cánh dài xử lý bởi hoạt chất Nitenpyram và Imidacloprid bị
giảm xuống còn 58,91% và 70,28% khi so với rầy nâu không xử lý thuốc. Sức
đẻ trứng của loại hình rầy nâu cánh ngắn khi xử lý hoạt chất Nitenpyram và
Imidacloprid bị giảm xuống còn 52,88% và 62,52% so với rầy nâu không xử lý
thuốc. Kết quả ảnh hưởng của hai hoạt chất đến tỷ lệ trưởng thành cái đẻ trứng,
tỷ lệ trưởng thành cái đẻ trứng lần lượt là 74,44% (đối với hoạt chất
Nitenpyram) và 75,56% (đối với hoạt chất Imidacloprid) so với công thức
không xử lý thuốc là 83,33%. Hai hoạt chất Nitenpyram và Imidacloprid không
ảnh hưởng đến tỷ lệ sống sót các pha trước trưởng thành của rầy nâu và không
có sự sai khác với công thức đối chứng. Hai hoạt chất ảnh hưởng đến tỷ lệ
14



trưởng thành cái rầy râu cánh ngắn đẻ trứng với tỷ lệ lần lượt là 75,56% (hoạt
chất Nitenpyram) và 76,67% (hoạt chất Imidacloprid) so với thí nghiệm không
xử lý thuốc với tỷ lệ là 84,44%.

PHẦN III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Nguồn rầy nâu mẫn cảm chuẩn được Trung tâm nghiên cứu Nông nghiệp
Quốc Gia Kyushu, Okinawa Nhật Bản cung cấp nuôi từ năm 1996
3.1.2. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
- Giống lúa: giống lúa Bắc thơm số 7.
- Dụng cụ thu thập mẫu: ống hút rầy được thiết kế để hút rầy trong phòng thí
nghiệm cũng như ngoài đồng ruộng.
- Dụng cụ nhân nuôi rầy: ống nghiệm, cốc nhựa, ống tuýp, lồng mica, lồng lưới,
khay gieo mạ, dụng cụ đo nhiệt độ, ẩm độ, điều hòa nhiệt độ, ...
- Dụng cụ thử tính kháng thuốc: bộ micropipettes các loại có thể hút chính xác
tới 10µl, bình CO2 ( SGA) để gây mê rầy, hộp nhựa, đĩa peptri , lọ thủy tinh,
bút lông, kính lúp cầm tay, ...
- Hóa chất
15


ST
T

Tên hoạt chất

Thế hệ Dạng
Nhóm thuốc ( theo WHO)

rầy
kỹ thuật

1

Imidacloprid

G26

96 %

Nhóm độc tố II, thuộc nhóm
Neonicotinoid

2

Fenobucab

G26

98 %

Nhóm độc tố II, thuộc nhóm
Carbamat

3

Pymetrozine

G13


97 %

Nhóm độc tố III, thuộc nhóm
Pyridine azomethine

4

Dinotefuram

G6

89 %

Nhóm độc tố III, thuộc nhóm
Neonicotinoid

5

Sulfoxaflor

G31

97,9 %

Thuốc nhóm Sulfloximines

-Cân phân tích: Cân phân tích Mettler Toledo AG245 ( có độ chính xác đến
10-5), dùng cân trọng lượng rầy và thuốc thử thí nghiệm.
-Phòng thí nghiệm: tủ lạnh, kính lúp, kính hiển vi, ống nghiệm, panh, dao, kéo,

khay gieo mạ, lồng nuôi rầy.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Các thí nghiệm được thực hiện tại Bộ môn Côn trùng, Khoa Nông học,
Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam.
3.2.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ tháng 6/2018 đến tháng 1/2019.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá sự phát triển tính kháng của quần thể rầy nâu mẫn cảm với các hoạt
chất qua các thế hệ nuôi trong phòng thí nghiệm.
- Ảnh hưởng của một số thuốc trừ rầy đến đặc điểm sinh học rầy nâu mẫn cảm.
- Đánh giá mức độ kháng chéo của rầy nâu đối với một số hoạt chất.
3.4. Phương pháp nghiên cứu

16


3.4.1. Phương pháp nhân nuôi quần thể rầy nâu phục vụ cho thí nghiệm đánh
giá sự phát triển tính kháng thuốc của quần thể rầy nâu mẫn cảm đối với các
hoạt chất.
- Đối tượng: quần thể rầy nâu mẫn cảm
- Giống lúa nhân nuôi nguồn rầy: Bắc thơm số 7
- Phương pháp: rầy nâu mẫn cảm chuẩn được cung cấp từ Nhật Bản từ năm
1996 và được nhân nuôi riêng trong phòng thí nghiệm sau đó được chuyển ra
nhân nuôi riêng rẽ trong các lồng nuôi rầy lớn kính thước 1×1×1 m để nhân số
lượng lớn phục vụ thí nghiệm. Khi vũ hóa rộ từ 5 – 7 ngày, dùng ống hút hút rầy
cái chuyển vào lồng nuôi rầy khung nhựa kích thước lồng ( kích thước lồng 30
cm × 25 cm × 30 cm) với nguồn mạ mới để cho rầy đẻ trứng. Ngày hôm sau,
lấy khay mạ ra và rũ hết rầy vào khay mạ mới, cho trứng nở và phát triển. Thay
liên tục từ 3 – 5 ngày như vậy để có được những lứa rầy đồng đều. Thí nghiệm

nhân nuôi nguồn rầy được tiến hành liên tục tại phòng thí nghiệm và nhà lưới.
Lúa được gieo liên tục trong các khay mạ, chậu trồng cây, ô chậu vại và ô xi
măng để nhân nuôi và lưu giữ nguồn rầy. Những các thể rầy F2 trở đi mới bắt
đầu tiến hành thí nghiệm.

(Nguồn ảnh: Lê Thị Trang, 2018)
17


Hình 3.1. Nhân nuôi rầy nâu mẫn cảm trong lồng mica
3.4.2. Nhân nuôi rầy để thả vào chậu vại
Tiến hành ghép cặp trưởng thành đực cái (2 cặp/lồng chụp mica nhỏ) bên
trong lồng chụp đã có sẵn dảnh lúa cho rầy trưởng thành tiếp xúc với dảnh lúa 1
– 2 ngày sau đấy chuyển rầy sang lồng chụp khác có rảnh lúa mới cho rầy đẻ
trứng . Các dảnh lúa đã tiếp xúc với rầy được tiếp tục theo dõi cho đến khi trứng
nở và thu được rầy non tuổi 1 – 2 để làm thí nghiệm lây nhiễm rầy. Số cặp để
ghép cho rầy đẻ trứng từ 5 – 10 cặp.

(Nguồn ảnh: Lê Thị Trang, 2018)
Hình 3.2. Nhân nuôi rầy nâu mẫn cảm trong lồng lưới lớn
3.4.3. Phương pháp đánh giá tính kháng thuốc theo phương pháp nhỏ giọt
Phương pháp nhỏ giọt Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI ( Heong et al.
2011)
-Các bước tiến hành thí nghiệm:
Bước 1. Xác định thang nồng độ thử thuốc cho từng nhóm hoạt chất

18


Các nhóm hoạt chất sử dụng trong thí nghiệm là hoạt chất chuẩn. Thang nồng

độ thử thuốc của từng nhóm hoạt chất được chia thành 5 – 10 bậc. Nồng độ
tham chiếu ( nồng độ trung bình) được căn cứ vào nồng độ trung bình của hoạt
chất đó theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Các thang nồng độ khác sẽ lần lượt
được tăng lên theo giá trị 1-1, 25-1, 50 và giảm xuống lần lượt là 1-0, 75-0, 50,

Phương pháp pha: dung dịch có nồng độ cao được dùng làm dung dịch
mẹ (liều 1), muốn chuyển sang nồng độ thấp hơn (liều 2) theo công thức:
C1V1= C2V2
Trong đó:

C1: nồng độ thuốc ở liều 1
C2: nồng độ thuốc ở liều 2
V1: thể tích liều thuốc 1 cần để pha chế
V2: thể tích liều thuốc 2 yêu cầu để pha chế

Tương tự làm như vậy để được nồng độ thấp nhất (liều n)
Vì các thuốc kỹ thuật không đạt độ tinh khiết tuyệt đối nên được hiểu
chỉnh theo hệ số CF để thuốc đạt 100% hoạt chất.
Hệ số CF được hiệu chỉnh theo công thức

Bước 2. Tiến hành thử thuốc để thăm dò thanh nồng độ chuẩn
Tiến hành các thí nghiệm thử thuốc để thăm dò thanh nồng độ đã xác định ở thí
nghiệm 1 khỏa sát sơ bộ các nồng độ có thể gây chết trên và dưới 50% cá thể và
các nống độ tiệm cận. Các thanh nồng độ pha được nếu không đạt các ngưỡng
gây chết đề ra sẽ được điều chỉnh lại sao cho phù hợp (thanh nồng độ chuẩn với
mức 5 – 10 bậc, nồng độ cao nhất gây chết 90 – 95% số các thể và nồng độ thấp
gây chết 5 – 10% số cá thể thí nghiệm).
Bước 3. Tiến hành thử thuốc để xác định LD50 của các quần thể rầy nâu
19



Bước 1: Chuẩn bị mạ

Bước 2: Cân thuốc

Bước 3: Pha thuốc

Bước 5: Cân rầy nâu

Bước 4: Sục khí CO2

Bước 6: Nhỏ thuốc Bước 7: Thả rầy vào lồng chụp
(Nguồn ảnh: Lê Thị Trang, 2018)

Hình 4.3. Các bước tiến hành thí nghiệm theo phương pháp nhỏ giọt
20


- Thí nghiệm được tiến hành trên rầy, trong điều kiện nhiệt độ phòng ổn định
25ºC. Dùng 10 – 20 con rầy cho mỗi lần tiến hành thí nghiệm và với ít nhất 3
lần lặp lại cho mỗi công thức.
- Pha thuốc: dùng thuốc dạng kỹ thuật (Technical grade) pha chế dung dịch quy
về CF để tính ra lượng thuốc cần pha theo liều lượng 1, 2, 4, 8, …lũy tiến theo
logarit.
- 10 cá thể rầy được hút chuyển vào ống hút côn trùng, sau đó được làm bất
động bằng CO2 trong thời gian khoảng 10 – 20 giây. Khi rầy vừa bất động đổ
rầy lên đĩa petri có lót giấy thấm. Dùng máy nhỏ giọt để nhỏ chính xác lên
mành lưng ngực trước của các cá thể rầy với thể tích thuốc đồng đều là 0,2µl.
Kỹ thuật này được thực hiện dưới kính lúp soi nổi độ phóng đại 40 – 60 lần và
đòi hỏi sự chính xác cao. Các thí nghiệm lặp lại cần tiến hành vào các ngày

khác nhau để tránh sự sai số trong cùng một ngày.
- Những cá thể rầy sau khi được tiến hành nhỏ thuốc sẽ được chuyển vào chai
nhựa 15×7cm trong sẵn 15 cây mạ 7 – 10 ngày sau gieo trồng. Tỷ lệ chết của
các cá thể rầy thí nghiệm được theo dõi sau 24 giờ - 48 giờ.
Công thức tính toán:
Giá trị LD50 của từng nhóm hoạt chất thí nghiệm đối với các quần thể rầy nâu
được tính toán theo chương trình POLO PLUS của Viện lúa quốc tế IRRI, xử lí
trên máy tính. Tỷ lệ chết của rầy thử nghiệm với nhóm hoạt chất có tương quan
dương hay tương quan thuận với đường thẳng yk = ax + b. Các liều lượng của
hoạt chất được logarit và tỷ lệ chết tương ứng với từng liều thử được chuyển
thành probit. Mức độ tin cậy của giá trj LD 50 được kiểm định bằng phương
pháp
LD50 được xác định theo công thức:
LD50 =
Để đánh giá mức độ kháng của rầy nâu người ta sử dụng chỉ số kháng thuôc Ri
21


Theo FAO chỉ số Ri được tính bằng côn thức:
Ri =
Nếu Ri < 10: dòng sâu hại chưa xuất hiện tính kháng thuốc
Nếu Ri ≥ 10: dong sâu hại đã kháng thuốc
Ri càng lớn mức độ kháng thuốc càng cao.
* Phân tích và xử lý số liệu theo chương trình POLO PLUS của Viện nghiên
cứu lúa Quốc tế IRRI
3.4.4. Nghiên cứu khả năng phát triển tính kháng thuốc thông qua tạo áp lực
chọn lọc của một số hoạt chất đối với các quần thể rầy nâu mẫn cảm
- Thí nghiệm theo phương pháp (Yan Hua Wang, 2008)
- Dòng rầy mẫn cảm được nhân nuôi riêng biệt trong phòng thí nghiệm để tăng
thế hệ liên tục

- Phương pháp nhúng thân của Zhao et al. (2011)
- Để xác định khả năng hình thành tính kháng thì các thân lúa được nhúng hoạt
chất cần nghiên cứu được chuyển vào lồng mica khoảng 1000 rầy non tuổi 3
được đưa vào lồng sau 3 – 7 ngày tùy nhóm hoạt chất các cá thể sống sót sau đó
sẽ được chuyển sang các lồng nuôi 1×1×1 m có sẵn nguồn lúa sạch trồng trong
chậu để rầy tiếp tục phát triển. Ở mỗi 1 thế hệ, khoảng 500 – 600 các cá thể
sống sót sau mỗi lần phun thuốc sẽ được nhân nuôi tiếp tục cho lần thử nghiệm
sau. Khoảng cách thời gian cho mỗi lần phun tạo áp lực chọn lọc là 1 – 2 thế hệ
rầy (25 – 50 ngày). Thời gian thí nghiệm từ tháng 7/2018 đến tháng 1/2019
Hiệu đính tỷ lệ chết theo công thức Abbott và tính giá trị LC50 chỉ số
kháng RR theo chương trình POLO PLUS, IBM SPSS
3.4.5. Nghiên cứu khả năng kháng thuốc chéo của rầy nâu mẫn cảm. Cần

tạo

ra nòi rầy nâu mẫn cảm kháng với thuốc Imidacloprid. Sau khi đã tạo các nòi
rầy nâu kháng với thuốc Imidacloprid khi bắt đầu tiến hành thử nghiệm tính
22


kháng thuốc chéo của chúng. Nòi rầy nâu kháng với thuốc Imidacloprid được
cho tiếp xúc với hoạt chất imidacloprid làm đối chứng, với các công thức lần
lượt là các hoạt chất fenobucab, pymetrozine, dinotefuram, sulfoxaflor. Các thí
nghiệm này được thực hiện theo phương pháp nhúng thân của Zhao et al.
(2014). Giá trị của từng nhóm hoạt chất thí nghiệm đối với các quần thể rầy nâu
đánh giá được tính toán theo chương trình POLO PLUS, phần mềm IBM SPSS.
3.4.6. Phương pháp nghiên cứu sinh học trong cốc nhựa (đối với rầy nâu trưởng
thành tiếp xúc với thuốc và đối tượng nước lã).
- Thí nghiệm được tiến hành với giống lúa Bắc thơm số 7. Hạt lúa được gieo
vào cốc, khi luá phát triển để lại 1 dảnh/cốc. Khi mạ được 7 – 10 ngày tuổi tiến

hành thả rầy. Bón phân: sử dụng phân ure hòa tan tưới cho mạ 15 ngày sau gieo,
tưới nước giữ ẩm hàng ngày.
3.4.6.1. Thí nghiệm theo dõi thời gian phát dục của trứng
Trưởng thành đực và cái sau khi vũ hóa được ghép đôi tiếp xúc với thuốc
theo phương pháp nhỏ giọt và đối chứng tiếp xúc nước lã những trưởng thành
sống sót tiếp tục nuôi trong cốc có cây mạ 7 ngày tuổi được cách ly bằng ống
mica chụp rầy kích thước lồng chụp mica có kích thước chiều rộng × chiều cao
(10cm × 50cm). Sau 24 giờ, cặp rầy trưởng thành được tách ra khỏi cốc mạ cũ
và chuyển sang cốc mạ mới. Tiến hành chuyển cốc mạ hàng ngày cho đến khi
trưởng thành chết. Những cây lúa sau khi tiếp xúc với rầy được để cách ly theo
dõi để xác định thời điểm trưởng thành cái bắt đầu đẻ trứng và thời gian tiền đẻ
trứng. Theo dõi hàng ngày để ghi lại thời gian nở của quả trứng đầu tiên cho đến
quả trứng cuối cùng từ đó xác định thời gian phát dục của trứng
3.4.6.2. Thí nghiệm theo dõi thời gian phát dục của rầy non.
Khi trứng bắt đầu nở thành rầy non tuổi 1, tách riêng để mỗi cốc mạ chỉ
có một cá thể rầy hàng ngày quan sát ghi chét sự lột xác qua các tuổi đồng thời

23


ghi chép số cá thể rầy chết từ đó tính được thời gian phát dục từng tuổi. Số cá
thể theo dõi n ≥ 30
3.4.6.3. Nghiên cứu sức sinh sản của rầy và nhịp điệu sinh sản.
Thả 1 cặp rầy đực cái mới vũ hóa vào cốc có cây mạ 7 ngày tuổi được
cách ly bằng ống mica chụp rầy kích thước lồng chụp mica (kích thước 40 cm ×
10 cm). Sau 24 giờ, cặp rầy trưởng thành được tách ra khỏi cốc mạ cũ và
chuyển sang cốc mạ mới. Thí nghiệm thực hiện cho đến khi trưởng thành chết
sinh lý ghi chép thời gian sống của trưởng thành đực cái. Các cốc lúa đã được
tiếp xúc với rầy hàng ngày được quan sát ghi chép số rầy cám nở. số cặp theo
dõi n ≥ 20.

* Chỉ tiêu theo dõi và tính toán
- Thời gian phát dục của một cá thể:
X=
Trong đó:

X: thời gian phát dục trung bình
ni: Số cá thể i
xi: Thời gian phát dục của cá thể thứ i
N: Tổng số cá thể

Sức sinh sản (quả/cái) =
Hiệu lực của các hoạt chất với quần thể rầy mẫn cảm sau các ngày xử lý
Hiệu lực của thuốc được hiệu đính bằng công thức Abbott.
H (%) =
Trong đó:

× 100
H là hiệu lực của thuốc
C là số rầy còn sống ở công thức đối chứng
T là số rầy còn sống ở công thức thí nghiệm

24


Phương pháp xử lý số liệu: các số liệu được xử lý thống kê sinh học bằng phần
mềm Excel và Stat View.

PHẦN IV. KẾT QUẢ
4.1. Đánh giá tốc độ hình thành tính kháng một số hoạt chất của quần thể
rầy nâu mẫn cảm

4.1.1. Đánh giá tốc độ hình thành tính kháng thuốc Imidacloprid của quần thể
rầy nâu
Bảng 1.1. Hiệu lực của hoạt chất Imidacloprid 96% trong phòng thí nghiệm
Nồng độ
Ppm
0.6
0.3
0.15
0.08
0.04

Hiệu lực qua các ngày xử lý
24h
48h
33.33
36.67
18.13
23.33
15.00
18.13
10.00
13.33
6.67
8.33

Bảng 1.2. Kết quả chọn lọc rầy nâu mẫn cảm bằng hoạt chất Imidacloprid qua
các thế hệ trong phòng thí nghiệm năm 2018.
Thế hệ

LD50

(µg/g)

Giới hạn tin cậy
(95%)

Độ dốc
(slope)

0.155

0.069 – 1.352

0.854 +-0.211

Ri

G1
G28

4.1.2. Đánh giá tốc độ hình thành tính kháng thuốc Pymetrozine của quần thể
rầy nâu

25


×