Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tác động của hiệp định thương mại tự do ASEAN úc new zealand đến quan hệ thương mại của việt nam với úc và new zealand TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.16 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HÀ PHƯƠNG

Tên đề tài luận án:

TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
ASEAN-ÚC- NEW ZEALAND ĐẾN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆT NAM VỚI ÚC VÀ NEW ZEALAND

Chuyên ngành
Mã số

: Kinh tế quốc tế
: 9 31 01 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Hà Nội, 2019


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng
2. PGS.TS. Đặng Thị Phương Hoa

Phản biện 1: ...............................................................................


..................................................................................
Phản biện 2: ...............................................................................
..................................................................................
Phản biện 3: ...............................................................................
..................................................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại ...............................................................................
..................................................................................................
Vào
hồi………..….giờ…………phút,
ngày………tháng……….năm…………..

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Australia từ năm
1973 và với New Zealand từ năm 1975. Trong hơn 40 năm qua, quan hệ
giữa Việt Nam với Australia và New Zealand đã được liên tục củng cố và
phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Trong những năm gần đây,
Chính phủ Việt Nam, Australia và New Zealand luôn đưa ra nhiều chính
sách thúc đẩy sự mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế và thương mại giữa
các quốc gia, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất
nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của Việt Nam sang hai thị trường quan
trọng này. Hiện nay, Australia và New Zealand là những đối tác thương
mại lớn và tiềm năng của Việt Nam.
Ngày 27 tháng 2 năm 2009, sau 34 năm với nhiều vòng thảo luận và đàm
phán, Hiệp định Thương mại tự do ASEAN- Australia - New Zealand

(AANZFTA) được ký kết tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14 tại Thái
Lan. Vào năm sau đó, AANZFTA bắt đầu có hiệu lực. Theo đó,
AANZFTA là hiệp định thương mại đầu tiên giữa Australia và New
Zealand với các đối tác thương mại từ ASEAN trong đó có Việt Nam.
AANZFTA không chỉ mang đến nhiều cơ hội mà còn nhiều thách thức đối
với quan hệ kinh tế nói chung, thương mại hàng hóa nói riêng giữa Việt
Nam với Australia và New Zealand. Nếu biết tận dụng được cơ hội này,
đây là điều kiện vô cùng thuận lợi để Việt Nam có thể dễ dàng mở rộng thị
trường, học hỏi được công nghệ tiên tiến và nâng cao số lượng cũng như
chất lượng của các mặt hàng xuất khẩu với Australia và New Zealand. Tuy
nhiên, so với một số quốc gia của ASEAN, trao đổi thương mại giữa Việt
Nam với hai quốc gia này còn khiêm tốn. Cụ thể, năm 2017, Việt Nam
đứng thứ 5 trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với Australia và New
Zealand, sau Thái Lan, Malaysia, Singapore và Indonesia với một khoảng
cách tương đối xa. Do đó, việc tăng cường xuất khẩu hàng hóa thông qua
việc tận dụng các ưu đãi trong AANZFTA đối với hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam sang thị trường Australia, New Zealand là yêu cầu cấp bách cả
trong hiện tại và tương lai.
AANZFTA đã được ký kết và thực thi gần 10 năm, trong đó Việt Nam là
một thành viên chính thức. Quá trình thực thi Hiệp định đã có những thay
đổi trong quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam với Australia và
New Zealand. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu về các tác động của
AANZFTA đến quan hệ thương mại, cụ thể là xuất nhập khẩu hàng hóa
của Việt Nam với hai quốc gia này là vô cùng cần thiết trong việc đưa ra
những nhận định và đánh giá kịp thời để có những điều chỉnh chiến lược
1


phù hợp, tận dụng được các cam kết của AANZFTA trong việc thúc đẩy
thương mại và nâng tầm quan hệ với hai bạn hàng tiềm năng này.

Hơn nữa, Việt Nam với Australia và New Zealand cũng là thành viên của
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Vấn đề càng trở
nên phức tạp do Việt Nam và các đối tác cùng phải thực thi các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu tác động thực thi
của AANZFTA có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng chính sách
và định hướng hợp tác chung giữa Việt Nam với Australia và New
Zealand trong thời gian tới. Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu và
dự báo tác động của AANZFTA đến phát triển kinh tế và quan hệ thương
mại của Việt Nam với các đối tác tham gia nhưng trước bối cảnh mới phải
có các nghiên cứu đầy đủ và toàn diện hơn. Do đó, luận án “Tác động của
hiệp định thương mại tự do ASEAN- Úc- New Zealand đến quan hệ thương
mại của Việt Nam với Úc và New Zealand” là vô cùng cần thiết và có tính
thời sự cao trong bối cảnh hội nhập đang diễn ra rất mạnh mẽ như hiện
nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận án xem xét tác động thực tế của Hiệp định thương mại tự do
ASEAN-Úc- New Zealand (AANZFTA) đến thương mại hàng hóa của
Việt Nam với Australia và New Zealand sau khi hiệp định được ký kết để
từ đó đưa ra một số nhận xét, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Luận án tổng hợp lại những nội dung lý luận và thực tiễn là cơ sở của
Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Úc- New Zealand và tác động của nó
đến thương mại hàng hóa của Việt Nam với Australia và New Zealand.

Luận án đánh giá tác động của AANZFTA đến kim ngạch trao đổi
thương mại, tốc độ tăng trưởng và cán cân thương mại, dịch chuyển tỷ
trọng thương mại hàng hóa của Việt Nam với Australia và New Zealand


Luận án xem xét sự dịch chuyển trong cơ cấu hàng hóa trong trao đổi
thương mại của Việt Nam với Australia và New Zealand trước và sau khi
AANZFTA được thực hiện.

Luận án đánh giá và phân tích tác động tạo lập thương mại và chuyển
hướng thương mại của AANZFTA đến thương mại của Việt Nam.

Luận án phân tích triển vọng và giải pháp để Việt Nam có thể tận
dụng được lợi thế của AANZFTA trong trao đổi thương mại hàng hóa với
Australia và New Zealand
2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về tác động của việc thực thi cam kết AANZFTA đến
thương mại hàng hóa của Việt Nam và Australia và New Zealand dựa trên
3 nội dung: tác động đến giá trị thương mại hàng hóa, tác động đến cấu
trúc ngành thương mại, tạo lập và chuyển hướng thương mại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-Nội dung: Luận án giới hạn nội dung về quan hệ thương mại hàng
hóa cụ thể ở đây là xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam với Australia
và New Zealand, trong đó cơ cấu hàng hóa được phân loại theo hai dạng là
Nhóm hàng hóa theo mã HS 2012 và Nhóm hàng hóa theo giai đoạn sản
xuất.
-Thời gian: Luận án sẽ đánh giá trong giai đoạn 2002-2017 và định
hướng 2025.
-Không gian: Các nước trong Hiệp định AANZFTA (bao gồm
Australia, New Zealand, Việt Nam, Brunei, Campuchia, Lào, Indonesia,

Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore và Thái Lan).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Với đối tượng nghiên cứu là trao đổi thương mại hàng hóa giữa Việt
Nam với Australia và New Zealand trong bối cảnh AANZFTA được thực
hiện, tác giả sử dụng các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
đánh giá tác động sau (Post-ante methods) và đưa ra nhận định sơ lược về
tiềm năng thương mại. Các phương pháp này được sử dụng phổ biến để
đánh giá tác động sau khi hiệp định thương mại tự do được thực hiện.
4.1. Phương pháp luận và nguồn tư liệu
Tác giả sẽ tiếp cận vấn đề dựa trên cơ sở lý thuyết về Hiệp định
thương mại tự do, lý thuyết liên quan đến tác động của Hiệp định thương
mại tự do đến thương mại hàng hóa của các quốc gia. Vận dụng các
phương pháp định tính và định lượng để xem xét tác động của AANZFTA
đến thương mại hàng hóa của Việt Nam với Australia và New Zealand.
Trong đó, cơ cấu hàng hóa được phân loại theo hai dạng là Nhóm hàng
hóa theo mã HS 2012 và Nhóm hàng hóa theo giai đoạn sản xuất. Tư liệu
của đề tài được thu thập nguồn số liệu xuất nhập khẩu từ Trade map, Wits,
Tổng cục hải quan Việt Nam; GDP từ World Bank là đầu vào để tính toán
tác động của AANZFTA.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.2.1. Phương pháp định tính
Khi xem các vấn đề về tác động của AANZFTA đến thương mại của
Việt Nam với Australia và New Zealand, tác giả sử dụng một số phương
3


pháp định tính như phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống
kê và phương pháp so sánh trước và sau khi Hiệp định được thực hiện,
phương pháp kế thừa, phỏng vấn ý kiến chuyên gia. Từ đó có thể lý giải
các vấn đề liên quan đến tác động của AANZFTA đến thương mại hàng

hóa của Việt Nam với Australia và New Zealand.
4.2.2. Phương pháp định lượng
4.2.2.1. Phương pháp sử dụng chỉ số
Tác giả sử dụng các chỉ số để tính toán tác động của AANZFTA đến
thương mại bao gồm chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) và chỉ số định
hướng khu vực (ROI). Chỉ số RCA được áp dụng để tính toán lợi thế hay
bất lợi của Việt Nam so với Australia và New Zealand khi tham gia thương
mại tự do. Chỉ số ROI sẽ tính toán xem nhóm hàng nào Việt Nam xuất
khẩu vào khu vực AANZFTA có lợi thế hơn các khu vực khác. Luận án sẽ
kết hợp Chỉ số ROI và RCA để tìm ra các nhóm hàng có nguy cơ gây nên
chuyển hướng thương mại đối với Việt Nam.
4.2.2.2. Mô hình lực hấp dẫn
Để trả lời câu hỏi ảnh hưởng của AAZFTA là tạo thương mại hay
chệch hướng thương mại cho xuất nhập khẩu của Việt Nam thì tác giả sẽ
sử dụng mô hình lực hấp dẫn để đánh giá bằng việc đưa thêm biến giả
FTA và một số các biến liên quan đến trao đổi thương mại.
Đối với đề tài, để ước tính tác động của thương mại Việt Nam đến
các thành viên AANZFTA có ảnh hưởng nhất, cụ thể là New Zealand và
Australia, mô hình trọng lực sau được sử dụng:
Log Imvjt = βo + β1 log Yvt + β2 log Yjt + β3logDvjt + β4BothinFTA +
β5OneinFTA + uvjt (3)
Trong phương trình này, Log Imvjt là biến phụ thuộc, logYvt,
logYjt, logDvjt là các biến giải thích và BothinFTA và OneinFTA là biến
giả. Cụ thể:
• Imvjt là giá trị nhập khẩu của Việt Nam vào đất nước j trong năm t;
• Yvt là GDP của Việt Nam trong năm t;
• Yjt là GDP của đất nước j trong năm t;
• Dvjt là khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và đất nước j;
• β là các hệ số;
• uvjt là biến ngẫu nhiên.

• BothinFTA và OneinFTA là hai biến giả được thêm vào. Biến
BothinFTA sẽ nhận được giá trị là 1 nếu cả Việt Nam và nước đối tác cùng
là thành viên của AANZFTA tại thời điểm t và nhận được giá trị 0 nếu cả
Việt Nam và nước đối tác không cùng là thành viên của AANZFTA. Biến
OneinFTA sẽ nhận được giá trị là 1 nếu Việt Nam tham gia AANZFTA
4


nhưng nước tối tác không tham gia AANZFTA tại thời điểm t và nhận giá
trị là 0 nếu Việt Nam cùng hoặc không cùng tham gia với nước đối tác tại
thời điểm.
Với các giả thuyết có trong mô hình trọng lực, β1, β2 được kỳ vọng
là dương, trong khi β3 được cho là âm. Ngoài ra, khi hai biến BothinFTA
và OneinFTA nhận giá trị dương, Việt Nam sẽ xảy ra hiện tượng tạo lập
thương mại khi tham gia AANZFTA. Ngược lại, hiện tượng chuyển hướng
thương mại xảy ra khi chỉ số BothinFTA dương và OneinFTA âm. Nếu
các trường hợp còn lại xảy ra (BothinFTA và OneinFTA đều âm,
BothinFTA âm và OneinFTA dương) thì không có hiện tượng chuyển
hướng hay tạo lập thương mại.
4.2.2.3. Phương pháp dự báo qua đường xu hướng
Đây là phương pháp dự báo tương lai thông qua các số liệu trước đây
để đưa ra đường xu hướng và phương trình mô tả hai biến. Công cụ để tính
toán đường xu hướng là lệnh Trendline trong Excel. Để dự báo được giá trị
thương mại giữa Việt Nam với Australia và New Zealand đến năm 2025,
luận án sẽ sử dụng số liệu thu thập được trong giai đoạn 2002-2017 và
lệnh Trendline trong Excel 2016.
Cùng với phương trình theo từng dạng hồi quy, lệnh Trendline trong
Excel cũng tự động tính Độ tin cậy của đường xu hướng. Theo đó Đường
xu hướng càng đáng tin cậy khi giá trị R2 gần hoặc bằng 1. Do đó, trong số
sáu loại hồi quy như trên, luận án sẽ sử dụng hàm phù hợp thông qua hai

yếu tố là loại dữ liệu và độ tin cậy.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
• Xây dựng được khung lý thuyết về tác động của FTA đến thương
mại hàng hóa của các quốc gia.
• Góp phần đánh giá đầy đủ về những tác động tích cực và những kết
quả chưa đạt được như kì vọng trong việc thực thi AANZFTA đến thương
mại hàng hóa của Việt Nam với Australia và New Zealand theo 3 tiêu chí
là giá trị thương mại hàng hóa, cơ cấu ngành thương mại hàng hóa, tạo lập
và chuyển hướng thương mại.
• Đưa ra các dự báo triển vọng trong quan hệ thương mại giữa Việt
Nam với Australia và New Zealand đến năm 2025.
• Đề xuất được sáu hàm ý cho Việt Nam để tận dụng được tối đa
những lợi ích mà hiệp định này mang lại trong thương mại hàng hóa với
Australia và New Zealand.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
5



Luận án làm rõ nội dung lý luận cơ bản về Hiệp định thương mại tự
do (FTA) như khái niệm, phân loại, quy tắc chính, các nội dung FTA mới,
tính minh bạch, cơ chế giải quyết tranh chấp.

Phân tích đánh giá một số lý thuyết liên quan đến tác động của FTA
đến thương mại hàng hóa của các quốc gia dựa trên bốn khía cạnh là hiệu
ứng động, lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu, lý thuyết về lợi thế so sánh,
tạo lập và chuyển hướng thương mại. Hệ thống lý luận được đưa ra trong
luận án là cơ sở cần thiết để các bài nghiên cứu có liên quan đến FTA và
đánh giá FTA đến quan hệ thương mại giữa các quốc gia áp dụng và đưa

ra được những kết luận và định hướng phù hợp để tận dụng được lợi ích
mà FTA mang lại.

Chỉ ra cơ sở để vận dụng các lý thuyết trong phân tích đánh giá tác
động của các Hiệp định thương mại tự do nói chung và AANZFTA nói
riêng đến thương mại hàng hóa của quốc gia trong bối cảnh mới
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án.

Luận án làm rõ các nội dung liên quan đến Hiệp định thương mại tự
do ASEAN- Australia- New Zealand trong đó có Việt Nam là thành viên,
bao gồm nguồn gốc hình thành, mục tiêu, quy tắc về tự do hàng hóa và các
cam kết tự do hóa thương mại hàng hóa là cơ sở để đưa ra những phân tích
cho việc đánh giá tác động cũng như định hướng phát triển trong quan hệ
thương mại hàng hóa giữa Việt Nam với Australia và New Zealand đến
năm 2025.

Đánh giá tác động của AANZFTA đến thương mại hàng hóa của
Việt Nam với Australia và New Zealand và chỉ ra tác động tích cực và một
số hạn chế. Từ đó, đưa ra những phân tích về nguyên nhân thành công và
nguyên nhân hạn chế trong việc triển khai Hiệp định, đưa ra định hướng
phát triển, hàm ý chính sách và kiến nghị cho Chính phủ cũng như doanh
nghiệp từ nay đến năm 2025.
7. Kết cấu của luận án.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của Hiệp định thương
mại tự do ASEAN-Australia-New Zealand đến thương mại hàng hóa.
Chương 3: Tác động của Hiệp định thương mại tự do ASEAN-AustraliaNew Zealand đến thương mại hàng hóa của Việt Nam với Australia và
New Zeland.
Chương 4: Dự báo triển vọng quan hệ thương mại hàng hóa của Việt Nam với
Australia và New Zealand đến năm 2025 và một số hàm ý cho Việt Nam.


6


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Vì hiệp định AANZFTA được ký kết vào năm 2009 và có hiệu lực
vào năm 2010 nên các nghiên cứu trong nước trực tiếp liên quan đến việc
đánh giá tác động của AANZFTA đến thương mại của Việt Nam với
Australia và New Zealand còn hạn chế. Vấn đề này được đề cập theo các
nội dung nổi bật sau đây: (1) Nghiên cứu về FTA; (2) Nghiên cứu về mối
quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Australia và New Zealand; (3) Nghiên
cứu về AANZFTA và đánh giá tác động của Hiệp định đến thương mại.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Cũng như các bài nghiên cứu trong nước, các bài nghiên cứu ngoài
nước liên quan trực tiếp đến chủ đề nghiên cứu của luận án không nhiều.
Có thể nêu lên một số công trình nghiên cứu dựa trên các nội dung chính
sau: (1) Nghiên cứu về FTA và các phương pháp đánh giá quan hệ thương
mại giữa các quốc gia; (2) Về các phương pháp đánh giá tác động của FTA
nói chung đến thương mại của các quốc gia; (3) Nghiên cứu về mối quan
hệ thương mại giữa Việt Nam với Australia và New Zealand; và (4)
Nghiên cứu về AANZFTA và tác động của AANZFTA đến thương mại
của các quốc gia trong đó có Việt Nam.
1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho đề
tài luận án cần tập trung nghiên cứu
Rõ ràng các vấn đề liên quan đến AANZFTA và đánh giá tác động
của Hiệp định đối với thương mại Việt Nam với Australia và New Zealand
đã thu hút các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước. Những kết quả
nghiên cứu được phân tích ở trên đã đóng góp vào việc làm rõ một số nội
dung lý luận và thực tiễn cơ bản về FTA nói chung, AANZFTA nói riêng.

Mặc dù các công trình trên đã đạt được những kết quả đáng kể, song vẫn
còn một số khoảng trống cần tiếp tục phân tích làm rõ hơn, nhất là trong
bối cảnh mới hiện nay.
1.3.1. Kết quả và đóng góp
Các công trình trên đã nghiên cứu được nội dung cơ bản về FTA. Đề
xuất và áp dụng nhiều phương pháp đánh giá tác động của FTA nói chung,
nhất là sử dụng phương pháp chỉ số, mô hình lực hấp dẫn để phân tích và
đánh giá quan hệ thương mại. Bước đầu đã phân tích và làm rõ các nội
dung cơ bản của AANZFTA và tác động đến thương mại của Việt Nam
với Australia và New Zealand.

7


1.3.2. Hạn chế và những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu
Mặc dù đã đạt được một số kết quả song các nghiên cứu trước đây
cũng có những khoảng trống nghiên cứu mà luận án cần tiếp tục phân tích
và bổ sung. Các khoảng trống bao gồm: (2) Chưa phân tích đầy đủ và so
sánh sự thay đổi về thương mại trước và sau khi AANZFTA được ký kết;
(2) Các công trình cũng chưa kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định
tính và định lượng (bao gồm chỉ số, mô hình lực hấp dẫn) để đánh giá tác
động thực thi của AANZFTA đến thương mại giữa Việt Nam với Australia
và New Zealand; (3) mặc dù AANZFTA đã thực hiện được một thời gian
song các nghiên cứu trước chưa cập nhật được các thông tin và số liệu mới
nhất.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO ASEAN-AUSTRALIANEW ZEALAND ĐẾN THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA
2.1. Những vấn đề chung về quan hệ thương mại hàng hóa và hiệp
định thương mại tự do
2.1.1. Quan hệ thương mại hàng hóa

Nghiên cứu về quan hệ thương mại quốc tế là những đánh giá và
phân tích về sự trao đổi trong vốn, hàng hóa và các dịch vụ giữa các quốc
gia với nhau. Trong đó, thương mại hàng hóa quốc tế là sự trao đổi hàng
hóa xuyên biên giới giữa các quốc gia với nhau. Để nghiên cứu quan hệ
thương mại quốc tế đối với hàng hóa cần phải xem xét những tương tác
của các quốc gia như chính sách, các chương trình hợp tác, chiến lược phát
triển đối với các sản phẩm là hàng hóa xuất nhập khẩu.
2.1.2. Hiệp định thương mại tự do
2.1.2.1. Khái niệm
Hiện nay có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về Hiệp
định thương mại tự do (FTA). Mỗi tổ chức, mỗi quốc gia và ở các thời
điểm đã đưa ra các định nghĩa riêng. Có thể rút ra nhận định chung về FTA
như sau: FTA là thỏa thuận giữa các bên liên quan để hình thành khối
thương mại tự do. Các thành viên tham gia thỏa thuận FTA sẽ tiến hành
cắt giảm và loại bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan theo lộ trình, thực
hiện các cam kết về đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ…cho
phép mỗi quốc gia tận dụng lợi thế so sánh, chuyên môn hóa sản xuất và
phân công lao động một cách hợp lý nhất để thu được lợi ích tối đa từ
thương mại gia tăng.
8


2.1.2.2. Phân loại Hiệp định thương mại tự do
Căn cứ theo quy mô, số lượng các thành viên tham gia FTA được chia
làm ba loại là FTA song phương, FTA đa phương (FTA khu vực và FTA
hỗn hợp).
2.1.2.3. Quy tắc chính về tự do thương mại hàng hóa trong FTA.
Đối với rất nhiều Hiệp định FTA, thương mại hàng hóa là lĩnh vực
quan tâm chính của các bên tham gia, tạo nên nền tảng của Hiệp định. Các
cam kết về thương mại hàng hóa sẽ giúp các bên hiện thực hóa mục tiêu

chính là mở rộng thị trường, tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu. Các nội
dung chính về thương mại hàng hóa thường được thỏa thuận trong Hiệp
định FTA gồm: Loại bỏ hoặc giảm thuế quan, Loại bỏ hoặc giảm hàng rào
phi thuế quan, Quy tắc xuất xứ, Thuận lợi hóa thương mại và hải quan
2.2. Một số lý thuyết liên quan đến tác động của Hiệp định thương mại
tự do đến thương mại hàng hóa của các quốc gia
2.2.1. Hiệu ứng động
Một trong những tác động của FTA là hiệu ứng động. Một số hiệu
ứng động của FTA phổ biến nhất hiện nay bao gồm: tăng quy mô và sự đa
dạng của nền kinh tế, tăng chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), cạnh tranh và thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất.
2.2.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh.
2.2.2.1. Lý thuyết của David Ricardo
David Ricardo đã nêu một giả thuyết cho rằng trong điều kiện
ngang bằng nhau, một quốc gia có xu hướng chuyên môn hóa sản xuất và
xuất khẩu những mặt hàng nước đó có lợi thế so sánh. Ngược lại, mỗi
quốc gia sẽ được hưởng lợi ích nếu nó nhập khẩu những mặt hàng mà
nước đó không có lợi thế. Thương mại giữa hai nước sẽ hiệu quả hơn nếu
mỗi quốc gia xuất khẩu hàng hóa mà nước đó có lợi thế so sánh.
2.2.2.2. Lý thuyết Hecksher-Ohlin
Từ lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, Eli Heckscher và
Bertil Ohlin đã xây dựng mô hình Heckscher-Ohlin (gọi tắt là Mô hình HO). Trong lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động quốc tế, mô
hình H-O là mô hình cân bằng tổng thể dùng để dự báo những mặt hàng
quốc gia nên sản xuất dựa trên yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia khi
thương mại xảy ra.
2.2.2.3. Áp dụng lý thuyết về lợi thế so sánh trong tự do hóa thương mại
Như vậy, trong trường hợp tự do hóa thương mại diễn ra, sự khác biệt
về giá sẽ rõ ràng hơn khi các quốc gia nhận được nhiều ưu đãi từ việc giảm
thuế và các rào cản phi thuế quan khác. Tự do hóa thương mại sẽ thúc đẩy
trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia và tạo điều kiện cho các quốc gia

9


chuyên môn hóa sản xuất, tận dụng lợi thế của mình. Thương mại tự do
cũng tăng cường tổng hiệu quả tiêu thụ. Hay nói cách khác, người tiêu
dùng có cơ hội được tiếp cận với nguồn hàng phong phú hơn và với giá
thấp hơn so với trước khi có thương mại tự do.

2.2.3. Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu và tác động đến quy trình sản xuất.

FTA là động lực để các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển
cải tiến sản xuất và nâng cao chất lượng đáp ứng các yêu cầu TBT và SPS
của phía đối tác để hưởng ưu đãi thuế quan. Quy trình sản xuất được cải
tiến cùng với lợi ích của các cam kết ưu đãi trong khối cũng là cơ hội để
quốc gia có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Sự phân mảnh của các
quy trình sản xuất dọc theo chuỗi giá trị, hay chuyên môn hóa dọc giúp các
quốc gia phát huy được lợi thế sản xuất của mình
2.2.4. Tạo lập thương mại và chuyển hướng thương mại
Vào năm 1950, Viner đã đưa ra nhận định rằng một liên minh thuế
quan có thể dẫn đến hai tác động là tạo lập thương mại và chuyển hướng
thương mại. Điều này cũng được khẳng định lại bởi Dominick Salvatore
vào năm 2004 trong cuốn sách Kinh tế quốc tế (International economics).
2.2.4.1. Tạo lập thương mại
Tạo lập thương mại xảy ra khi một số nền sản xuất trong nước của
một quốc gia mà là một thành viên của khối liên minh thuế quan, được
thay thế bởi hàng nhập khẩu giá thấp hơn từ một quốc gia thành viên khác.
2.2.4.2. Chuyển hướng thương mại.
Chuyển hướng thương mại xảy ra khi hàng nhập khẩu giá thấp hơn
bên ngoài khối liên minh thuế quan được thay thế bằng hàng nhập khẩu giá
cao hơn từ một thành viên trong khối.

2.2.5. Khung lý luận áp dụng trong luận án

10


Để đánh giá tác động của FTA đến thương mại hàng hóa của quốc
gia cần kết hợp các lý thuyết về hiệu ứng động, lợi thế so sánh, chuỗi giá
trị toàn cầu và tác động đến quy trình sản xuất, tạo lập thương mại và
chuyển hướng thương mại. Các tác động của FTA sẽ ảnh hưởng đến giá
trị, cơ cấu, tạo lập và chuyển hướng thương mại.
Để đánh giá tác động của FTA đến thương mại hàng hóa của quốc
gia cần kết hợp các lý thuyết về hiệu ứng động, lợi thế so sánh, chuỗi giá
trị toàn cầu và tác động đến quy trình sản xuất, tạo lập thương mại và
chuyển hướng thương mại. Các tác động của FTA sẽ ảnh hưởng đến giá
trị, cơ cấu, tạo lập và chuyển hướng thương mại.
2.3. Khái quát Hiệp định thương mại tự do ASEAN- Australia- New
Zealand và các cam kết thương mại hàng hóa của Việt Nam, Australia
và New Zealand
2.3.1. Khái quát Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Úc-New Zealand
AANZFTA là hiệp định tương đối toàn diện với các nguyên tắc tự do
hóa và tạo thuận lợi cho thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư giữa
Australia- New Zealand và các nền kinh tế ASEAN. AANZFTA bao gồm
các biện pháp hỗ trợ nhằm cải thiện dòng chảy kinh doanh và thúc đẩy hợp
tác trong một phạm vi rộng đối với các lĩnh vực kinh tế cùng quan tâm.
AANZFTA là một thỏa thuận thương mại tự do khu vực hiện đại và
toàn diện. Tự do hóa hàng hóa là một trong những quy tắc chính và được
thực hiện ngay khi hiệp định được ký kế. Về tự do hóa hàng hóa, các quy
tắc cần chú ý đó là Hàng rào thuế quan-phi thuế quan; Nguyên tắc xuất xứ;
Thủ tục hải quan; Vệ sinh và kiểm dịch thực vật (SPS); Tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp.

2.3.2. Khái quát cam kết thương mại hàng hóa của Việt Nam, Australia
và New Zealand
2.3.2.1. Cam kết về tự do hóa thương mại hàng hóa của Việt Nam trong
AANZFTA
Việt Nam thuộc nhóm CLMV, nên Việt Nam được hưởng ưu đãi đặc
biệt hơn so với nhóm ASEAN-6. Theo đó, Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế
quan 90% số dòng thuế của Biểu thuế nhập khẩu (Danh mục thông
thường). Trong đó, 54% số dòng thuế vào năm 2016; 85% số dòng thuế
vào năm 2018; 90% số dòng thuế vào năm 2020. Ngoài ra, Việt Nam cũng
đã cam kết xoá bỏ thuế quan vào năm 2016 cho một số sản phẩm mà
Australia và New Zealand đặc biệt quan tâm như thịt bò, thịt cừu, sữa
nguyên liệu, sản phẩm sữa, gỗ ván dăm… Để thực thi AANZFTA một
cách có hiệu quả, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp
luật quy định và hướng dẫn cho cộng đồng và doanh nghiệp. Ngoài ra,
11


Chính phủ cũng ban hành thông tư chỉ đạo việc thực hiện Quy tắc xuất xứ
trong Hiệp định.
2.3.2.2. Cam kết về tự do hóa thương mại hàng hóa của Australia trong
AANZFTA
Thuế suất trung bình của Australia trong AANZFTA là khá thấp tạo
thuận lợi cho hàng xuất khẩu của các nước ASEAN thâm nhập thị trường
này. Có 96% dòng thuế đối với hàng xuất khẩu của ASEAN trong đó
Việt Nam sang Australia sẽ được cắt giảm vàloại bỏ ngay lập tức. Tất cả
các dòng thuế còn lại sẽ được loại bỏ vào năm 2020. Hơn 90% các dòng
thuế của Australia được cắt giảm giúp cho hàng xuất khẩu Việt Nam thâm
nhập thị trường nước này thuận lợi hơn.
Ngoài việc thực thi các quy định theo AANZFTA, Australia cũng
cam kết hỗ trợ các nước ASEAN trong đó có Việt Nam triển khai các biện

pháp phi thuế quan đảm bảo yêu cầu về quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn về vệ
sinh kiểm dịch động thực vật, quy định kỹ thuật.
2.3.2.3. Cam kết về tự do hóa thương mại hàng hóa của New Zealand
trong AANZFTA
Cũng như Australia và các nước ASEAN, New Zealand phải giảm
dần và / hoặc loại bỏ thuế quan đối với hàng hoá có xuất xứ từ các nước
thành viên ASEAN theo lộ trình cam kết kèm theo Hiệp định AANZFTA
và không được tăng thuế hải quan hiện tại (theo Điều 1, Chương 2,
AANZFTA). Các Bên có thể xem xét việc đẩy nhanh các cam kết về giảm
và / hoặc xóa bỏ cam kết (theo Điều 2, Chương 2, AANZFTA). Theo đó,
90,3% dòng thuế của New Zealand đã được cắt giảm và/hoặc loại bỏ vào
năm 2013, năm 2020 sẽ hoàn thành 100% số dòng thuế.
Mặc dù các bên liên quan chưa hoàn thành đầy đủ chi tiết về việc
thực hiện Chương trình Hợp tác Kinh tế trong khuôn khổ AANZFTA,
nhưng New Zealand đã đồng ý chủ trì các dự án với đóng góp kinh phí của
New Zealand dự kiến sẽ là 4,6 triệu đô la trong vòng 3-5 năm.

12


CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
TỰ DO ASEAN-ÚC-NEW ZEALAND ĐẾN THƯƠNG MẠI HÀNG
HÓA CỦA VIỆT NAM VỚI AUSTRALIA VÀ NEW ZEALAND
3.1. Quan hệ thương mại hàng hóa của Việt Nam với Australia và
New Zealand trước khi AANZFTA được thực thi
3.1.1 Hợp tác thương mại giữa Việt Nam với Australia và New Zealand
trước khi AANZFTA được thực thi
3.1.1.1.Tổng quan thị trường xuất nhập khẩu của Australia và Hợp tác
thương mại giữa Việt Nam với Australia.
Australia là quốc gia có nền kinh tế phát triển khá ổn định. Australia

chủ yếu xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên, năng lượng và thực phẩm. Nhìn
chung, thị trường Australia khá cởi mở đối với hàng hóa nhập khẩu. Người
tiêu dùng Australia thường sẽ đưa ra quyết định cuối cùng dựa trên các yếu
tố như chất lượng, kiểu dáng và giá cả hơn là nguồn gốc xuất xứ
Ngày 26/2/1973 Việt Nam và Australia thiết lập quan hệ ngoại giao.
Tuy nhiên, quan hệ hợp tác kinh tế nói chung, thương mại nói riêng bắt
đầu khởi sắc khi hai quốc gia bắt đầu ký kết một số Hiệp định hợp tác
quan trọng. Những hợp tác về kinh tế và cụ thể là thương mại này đã là cơ
sở để mở ra một thời kỳ mới trong phát triển quan hệ kinh tế và thương
mại giữa hai quốc gia.
3.1.1.1. Tổng quan thị trường xuất nhập khẩu của New Zealand và hợp
tác thương mại giữa Việt Nam với New Zealand.
Các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nghề mỏ, năng lượng và đánh cá
đã đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của New Zealand, đặc biệt là
về mặt xuất khẩu và mặt lao động. New Zealand vẫn yêu cầu các quy định
chặt chẽ về an toàn vệ sinh động thực vật liên quan đến vấn đề sức khỏe, dán
nhãn xuất xứ, an toàn vệ sinh và hàm lượng nguồn gốc xuất xứ.
Ngày 19/6/1975, Việt Nam và New Zealand thiết lập quan hệ ngoại
giao. Tuy nhiên trong giai đoạn 1975-1989 hợp tác giữa hai nước hầu như
chưa có gì đáng kể. Giai đoạn 1990-2008, New Zealand khôi phục lại quan
hệ với Việt Nam và phải đến năm 1994, khi hai quốc gia bắt đầu ký kết
Hiệp định Hợp tác Kinh tế Thương mại, hợp tác kinh tế nói chung, thương
mại nói riêng mới có những chuyển biến khởi sắc.
3.1.2. Kết quả trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam với
Australia và New Zealand và những vấn đề đặt ra trước khi AANZFTA
được thực thi

13



3.1.2.1. Kết quả trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Australia và
New Zealand
Với những nỗ lực hợp tác song phương, giá trị thương mại giữa Việt
Nam với Australia và New Zealand đạt được một số kết quả khả quan. Giá
trị thương mại tăng gấp 3,5 lần từ 1,7 tỷ USD năm 2002 lên đến 6 tỷ USD
năm 2008. Trong đó, tốc độ tăng trưởng thương mại năm 2006 so với năm
2005 đạt mức cao nhất với 47,68%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng sau năm
2006 lại chững lại chỉ khoảng 3,45% đối với năm 2007 và 16,39% đối với
năm 2008. Nguyên nhân cho việc tốc độ tăng trưởng chậm như vậy trong
những năm 2008-2009 là do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Mặc dù
cán cân thương mại vẫn nghiêng về Việt Nam song con số này không lớn,
chỉ giao động từ khoảng 1 tỷ đến hơn 2 tỷ USD và có chiều hướng sụt
giảm vào năm 2009 (xuất siêu đạt 1,16 tỷ USD). Đối với cơ cấu xuất nhập
khẩu trước khi AANZFTA được ký kết theo nhóm hàng hóa, ba quốc gia
cũng đã đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế so sánh.
3.1.2.2. Những vấn đề đặt ra trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam với
Australia và New Zealand trước khi AANZFTA được thực thi
Mặc dù đã có những chương trình hợp tác song phương và đa phương song
trong giai đoạn này, do chưa có cơ chế hợp tác chặt chẽ và tự do như FTA
hay các chương trình hỗ trợ, hướng dẫn xuất nhập khẩu cụ thể nên quan hệ
thương mại hai bên còn khó khăn
3.2. Tác động của AANZFTA đến quan hệ thương mại của Việt Nam
với Australia và New Zealand.
3.2.1. Tác động của AANZFTA đến giá trị thương mại hàng hóa của
Việt Nam với Australia và New Zealand
Thứ nhất, tổng kim ngạch trao đổi thương mại của Việt Nam với
Australia và New Zealand cao hơn sau khi hiệp định có hiệu lực vào năm
2010.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng thương mại trung bình giai đoạn sau khi
AANZFTA hình thành cao hơn so với giai đoạn trước.

Thứ ba, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Australia và
New Zealand so với các nước ASEAN đã có sự tăng trưởng vượt bậc.
Thứ tư, cán cân thương mại luôn nghiêng về Việt Nam và tốc độ
tăng trưởng trong xuất khẩu cao hơn nhập khẩu.
Thứ năm, AANZFTA giúp Việt Nam cân bằng trong trao đổi thương
mại giữa hai quốc gia.
Thứ sáu, tốc độ tăng trưởng thương mại hai chiều vẫn tăng giảm
không ổn định với biên độ lớn sau khi có hiệp định AANZFTA. Thứ bảy,
từ sau khi AANZFTA được ký kết, xuất siêu của Việt Nam có xu hướng
14


giảm dần qua các năm. Thứ tám, tỷ trọng thương mại của Việt Nam với
hai quốc gia này còn thấp hơn so với khu vực.
3.2.2. Tác động của AANZFTA đến cơ cấu thương mại của Việt Nam
với Australia và New Zealand.
Thứ nhất, từ khi AANZFTA được thực hiện vào năm 2010, cơ cấu
hàng hóa trong trao đổi thương mại của Việt Nam với Australia và New
Zealand đã dịch chuyển theo hướng chuyên biệt hóa sản xuất và xuất khẩu
các mặt hàng có lợi thế hơn.
Thứ hai, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng ưu đãi từ
AANZFTA đều tăng.
Thứ ba, từ sau khi AANZFTA thành lập, cơ cấu hàng xuất khẩu đã
có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng hóa vốn và
hàng hóa tiêu dùng, giảm dần tỷ trọng hàng nguyên liệu thô và sơ chế; cơ
cấu nhập khẩu chuyển dịch theo hướng ngược lại.
Thứ tư, một số mặt hàng có lợi thế lớn thì không thay đổi hoặc bị
giảm, nhất là xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, mặc dù có nhiều lợi ích song, chuyên môn hóa cũng khiến
cho Việt Nam gặp phải một số vấn đề nếu không cân đối được cơ cấu sản

xuất.
3.2.3. Tác động của AANZFTA đến tạo lập thương mại và chuyển
hướng thương mại.
3.2.3.1. Mô hình định lượng
Kết quả chạy phương trình ước lượng là:
Log Imvjt = -5,310664 + 0,196898 log Yvt + 1,269520 log Yjt 1,247288 logDvjt + 0,790231 BothinFTA + 1.315874 OneinFTA + uvjt (3)
Có thể thấy F-statistics= 0,000000 <0,05, do đó mô hình có ý nghĩa.
Hơn nữa, R-square = 0,451804 có nghĩa là 45,1804% thay đổi nhập khẩu
của Việt Nam với các quốc gia tham gia AANZFTA có thể được giải thích
bằng các biến độc lập trong mô hình.
Kiểm định giả thuyết: Ho: βj = 0. (j=1, 2, 3)
Để bác bỏ giả thuyết này thì |t-Statisticj| > 2 (j=1, 2, 3) do có 176 quan sát
(hơn 20 quan sát)
• |t-StatisticLOG(Yvt)|=0,394850 < 2. Không thể bác bỏ giả thuyết
β1. Điều này có nghĩa là LOG(Yvt) không có ý nghĩa trong phương trình
(3). Do đó, chúng ta không thể kết luận tác động của GDP Việt Nam đối
với xuất khẩu của Việt Nam sang các đối tác khác trong AANZFTA.
• |t-StatisticLOGYjt)|= 10,59519 > 2. Có thể bác bỏ giả thuyết β2.
Hay nói cách khác, GDP của nước đối tác có ý nghĩa ở mức 5% với hệ số
là 1,269520 . Điều này có nghĩa là nhập khẩu của Việt Nam từ các nước
15


đối tác sẽ chịu ảnh hưởng của GDP nước đó. Ví dụ, nếu GDP của
Australia tăng 1% thì số lượng nhập khẩu của Việt Nam với Australia sẽ
tăng 1,269520%
• |t-StatisticLOG(Dvjt)|= 5,098642> 2. Có thể bác bỏ giả thuyết β3
và biến khoảng cách có ý nghĩa ở mức 5%. Điều này có nghĩa là nhập
khẩu của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng bởi khoảng cách hai bên. Biến
khoảng cách đạt giá trị âm nên có thể kết luận rằng, khoảng cách càng xa

thì nhập khẩu của Việt Nam với đối tác sẽ càng ít. So với các quốc gia
trong khối, khoảng cách của Việt Nam với Australia khá lớn nên đây sẽ là
điều khó khăn cho nhập khẩu của Việt Nam với quốc gia này.
• Biến BothinFTA và OneinFTA đều mang giá trị dương nên
AANZFTA sẽ tạo ra hiện tượng Tạo lập thương mại cho Việt Nam. Hay
nói cách khác, Việt Nam đang tăng khối lượng nhập khẩu các mặt hàng có
lợi thế so sánh, giá rẻ từ các nước trong khu vực. AANZFTA giúp tăng
cường chuyên môn hóa và tính kinh tế của quy mô nên tăng hiệu quả sản
xuất trong các nước thành viên.
Qua mô hình có thể thấy R-square = 0,451804, đây là con số không
cao. Nguyên nhân là vẫn có một số mặt hàng gây nên hiện tượng chuyển
hướng thương mại. Hiện tượng này xảy ra khi các quốc gia chuyển hướng
nhập khẩu nhiều hàng hóa từ các nước bạn hàng quen thuộc (với mức giá
trước khi có thuế rẻ hơn) sang nước nằm trong hiệp định (với mức giá
trước thuế đắt hơn). Chuyển hướng thương mại vừa có tác động tích cực
vừa có tác động tiêu cực đến thương mại hàng hóa hai chiều. Để tìm xem
mặt hàng nào gây hiện tượng chuyển hướng thương mại, đề tài sử dụng hệ
số RCA và ROI.
3.2.3.2. Mặt hàng gây hiện tượng chuyển hướng thương mại trong xuất
nhập khẩu của Việt Nam với Australia và New Zealand
Dựa vào số liệu đã tính toán, có thể thấy một số mặt hàng Australia
không có lợi thế so sánh so với Việt Nam song Việt Nam vẫn nhập khẩu
nhiều. Trong khi Australia tận dụng được việc giảm thuế trong AANZFTA
để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nước này không có lợi thế so với
Việt Nam thì ở chiều ngược lại, Việt Nam lại đánh mất cơ hội này đối với
một số mặt hàng. Đối với thị trường New Zealand, AANZFTA không gây
hiện tượng chuyển hướng thương mại cho thị trường nhập khẩu của Việt
Nam. Ở chiều ngược lại, thị trường New Zealand lại có một số mặt hàng
gây nên hiện tượng chuyển hướng thương mại khi đây không phải là mặt
hàng Việt Nam có lợi thế so sánh hơn New Zealand nhưng lại có xu hướng

xuất khẩu nhiều sang thị trường này, nhất là bắt đầu gây nên hiện tượng
này khi AANZFTA được thành lập.
16


3.3.1. Tác động tích cực và nguyên nhân
3.3.1.1. Tác động tích cực
Trước hết, AANZFTA là một trong những điều kiện để tăng tổng
kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều tăng lên với tổng kim ngạch trao
đổi thương mại của Việt Nam với Australia và New Zealand cao hơn sau
khi hiệp định có hiệu lực vào năm 2010, tốc độ tăng trưởng thương mại
trung bình giai đoạn sau khi AANZFTA hình thành cao hơn so với giai
đoạn trước, cán cân thương mại luôn nghiêng về Việt Nam và tốc độ tăng
trưởng trong xuất khẩu cao hơn nhập khẩu và đồng thời AANZFTA giúp
Việt Nam cân bằng trong trao đổi thương mại giữa hai quốc gia. Ngoài ra,
từ khi AANZFTA được thực hiện vào năm 2010, cơ cấu hàng hóa trong
trao đổi thương mại giữa Việt Nam với Australia và New Zealand đã dịch
chuyển theo hướng chuyên biệt hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có
lợi thế hơn. Cụ thể, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Australia và New
Zealand các mặt hàng có lợi thế so sánh sau: Máy móc và thiết bị điện,
Các sản phẩm thực vật, Giày dép Nguyên liệu dệt và sản phẩm dệt. Đồng
thời nhập khẩu từ Australia các mặt hàng nước này có lợi thế như Kim loại
và các sản phẩm kim loại, Động vật tươi sống và các sản phẩm từ động
vật, Nhiên liệu; và nhập khẩu từ New Zealand các mặt hàng chính như
Động vật tươi sống và các sản phẩm từ động vât, Gỗ và các sản phẩm từ
gỗ Kim loại và các sản phẩm kim loại. Nhìn chung, các mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam được hưởng ưu đãi từ AANZFTA đều tăng. Theo cam
kết, phần lớn những sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam như: nông sản,
thuỷ hải sản, dệt may, các sản phẩm chế biến từ gỗ… được Australia và
New Zealand giảm thuế xuống 0% vào năm 2010. Đây cũng là mặt hàng

mà Việt Nam tăng cường xuất khẩu sang hai thị trường này sau khi
AANZFTA được thành lập. Không chỉ vậy, từ sau khi AANZFTA thành
lập, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ
trọng nhóm hàng hóa vốn và hàng hóa tiêu dùng, giảm dần tỷ trọng hàng
nguyên liệu thô và sơ chế; cơ cấu nhập khẩu chuyển dịch theo hướng
ngược lại.AANZFTA là cơ sở quan trọng đối với thị trường nhập khẩu của
Việt Nam khi Việt Nam đang hưởng lợi từ việc tạo lập thương mại khi
tham gia FTA này. AANZFTA giúp tăng cường chuyên môn hóa và tính
kinh tế của quy mô nên tăng hiệu quả sản xuất trong các nước thành viên.
Tạo lập thương mại sẽ có tác động tích cực cho người dân và tổng thể phúc
lợi xã hội của Việt Nam.
3.3.1.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, nhờ biết tận dụng các ưu đãi của AANZFTA mà thương
mại của Việt Nam với Australia và New Zealand được tăng cường.
17


Thứ hai, các cơ quan chức năng Việt Nam đã và đang tiến hành các
hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện AANZFTA.
Thứ ba, Australia và New Zealand đã có những chương trình hỗ trợ
phù hợp trong khuôn khổ AANZFTA để tăng cường thương mại hai bên.
Thứ tư, một số doanh nghiệp cũng đã chủ động trong việc tìm hiểu
và thực thi các cam kết của AANZFTA để được hưởng ưu đãi về thuế
quan và phi thuế quan
3.3.2. Tác động tiêu cực và nguyên nhân
3.3.2.1. Tác động tiêu cực
Sau khi AANZFTA được thực thi, Việt Nam vẫn gặp phải một số
hạn chế và không tận dụng được tối đa lợi ích của hiệp định mang lại. Giá
trị thương mại vẫn chưa đạt được kì vọng khi tốc độ tăng trưởng thương
mại hai chiều vẫn tăng giảm không ổn định với biên độ lớn. Xuất siêu của

Việt Nam có xu hướng giảm dần qua các năm, tỷ trọng thương mại của
Việt Nam với hai quốc gia này còn thấp hơn so với khu vực. Ngoài ra,
trong cơ cấu thương mại, một số mặt hàng có lợi thế lớn thì không thay
đổi hoặc bị giảm, nhất là xuất khẩu của Việt Nam như gỗ và các sản phẩm
từ gỗ nhựa và cao su; da sống, da thuộc và các sản phẩm từ da. Rõ ràng,
dù có nhiều lợi ích, song nếu Việt Nam không cân đối được cơ cấu sản
xuất thì quá trình chuyên môn hóa cũng khiến cho Việt Nam gặp phải một
số vấn đề như thất nghiệp, phụ thuộc vào một số mặt hàng từ Australia và
New Zealand. Mặc dù, nhập khẩu của Việt Nam được hưởng lợi ích từ tác
động tạo lập thương mại trong AANZFTA, song nếu không hiểu rõ về tác
động này, tạo lập thương mại lại có tác động tiêu cực đến việc giảm thu
thuế của chính phủ và tăng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong
nước. Ngoài ra, theo mô hình định lượng, và tính toán chỉ số, Việt Nam
vẫn có một số mặt hàng gây hiện tượng chuyển hướng thương mại, nhất là
đối với nhập khẩu của Việt Nam từ Australia. Điều này sẽ ảnh hưởng đến
tổng phúc lợi và hiệu quả kinh tế của tự do hóa thương mại.
3.3.2.2. Nguyên nhân.
Thứ nhất, quan hệ thương mại của Việt Nam với Australia và New
Zealand chưa bền vững và vẫn chịu nhiều tác động của nền kinh tế toàn
cầu.
Thứ hai, những lợi ích thực tế mang lại từ giảm thuế và phi thuế
quan trong thời gian đầu thực hiện AANZFTA còn hạn chế.
Thứ ba, tỷ lệ tận dụng ưu đãi AANZFTA của Việt Nam vẫn còn thấp
so với tiềm năng của quốc gia.

18


Thứ tư, sự hỗ trợ từ các cơ quan hữu quan chưa thực sự có hiệu quả.
Thứ năm, doanh nghiệp vẫn chưa thực sự chủ động trong việc thực

hiện các cam kết AANZFTA, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ sáu, doanh nghiệp Australia và New Zealand còn chưa mạnh
dạn trong việc đầu tư sang Việt Nam.
CHƯƠNG 4: DỰ BÁO TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM VỚI AUSTRALIA VÀ NEW ZEALAND
ĐẾN NĂM 2025 VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
4.1. Bối cảnh thế giới và khu vực tác động đến quan hệ thương mại
của Việt Nam với Australia và New Zealand
4.1.1. Bối cảnh thế giới
Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang
diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt tự do hóa thương mại song phương
và khu vực được đẩy mạnh.
Bên cạnh quá trình toàn cầu hóa và tự do thương mại, quá trình bảo
hộ thương mại cũng đang trỗi dậy mạnh mẽ. Song hành xu thế toàn cầu
hóa là sự gia tăng phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật toàn cầu. Tình
hình kinh tế thế giới đang có dấu hiệu phục hồi sau cuộc khủng hoảng và
sẽ có những dấu hiệu tích cực cho đến năm 2025. mại trong AANZFTA sẽ
đạt được một cách hiệu quả và bền vững.
4.1.2. Bối cảnh trong nước và khu vực
Hội nhập thương mại Việt Nam với Australia và New Zealand bị ảnh
hưởng một phần bởi bối cảnh an ninh chính trị khu vực. Sự hình thành
Cộng đồng ASEAN (AC) sau năm 2015 là tiền đề cho phát triển thương
mại của Việt Nam với Australia và New Zealand. Thương mại hai chiều sẽ
tăng lên nhanh chóng nhờ các hiệp định khu vực và chủ trương hội nhập
của Việt Nam.
Như vậy, bối cảnh khu vực và quốc tế đang thay đổi một cách nhanh
chóng với nhiều biến động phức tạp và khó lường. Điều này sẽ tác động
đến quan hệ giữa các quốc gia nói chung, các thành viên trong AANZFTA
nói riêng cả tích cực và hạn chế. Do đó, Việt Nam cần phải nắm vững cơ
hội và tận dụng lợi thế và những ưu đãi trong AANZFTA để tăng cường

thương mại với hai quốc gia này.

19


4.2. Định hướng hợp tác thương mại của Việt Nam với Australia và
New Zealand
4.2.1. Định hướng hợp tác thương mại của Việt Nam với Australia
Việt Nam và Australia đã thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1973
và đến nay đã đạt được các kết quả tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực. Trong
những năm tới, hai bên nhấn mạnh vai trò của hợp tác kinh tế trong việc
nâng tầm quan hệ đối tác Chiến lược. Để đạt được điều này, định hướng
hợp tác giữa hai bên được khẳng định thông qua các cuộc hội đàm giữa
lãnh đạo hai bên. Với những định hướng đó, quan hệ thương mại Việt
Nam-Australia sẽ phát triển mạnh vào thời gian tới, tạo ra một bước ngoặt
quan trọng, hướng tới mục tiêu quan hệ thương mại song phương đạt 10 tỷ
USD.
4.2.2. Định hướng hợp tác thương mại của Việt Nam và New Zealand
Cùng với việc ký kết AANZFTA, Việt Nam và New Zealand đã và
đang thực hiện nhiều biện pháp để thúc đẩy hợp tác thương mại. Cụ thể
trong định hướng hợp tác kinh tế, hai quốc gia tiếp tục cam kết triển khai
các biện pháp song phương và đơn phương nhằm giảm rào cản thương mại
hai chiều, đặc biệt là với các mặt hàng nông sản. Như vậy, với định hướng
hợp tác nâng tầm mối quan hệ song phương, nhất là quan hệ kinh tế, triển
vọng trong quan hệ thương mại hai chiều của Việt Nam với New Zealand
sẽ tăng lên nhanh chóng, đạt mục tiêu 1,7 tỷ USD vào năm 2020. Nhất là
Việt Nam sẽ có cơ hội được hưởng đầy đủ các lợi ích mà AANZFTA đem
lại.
4.3. Dự báo triển vọng xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam với
Australia và New Zealand trong khuôn khổ AANZFTA.

Sau năm 2020, khi tất cả các mức thuế xuống còn 0% đối với
Australia và New Zealand và 90% dòng thuế được giảm xuống 0% đối với
Việt Nam, cùng với những định hướng tăng cường hợp tác song phương,
thương mại hàng hóa giữa Việt Nam với hai quốc gia này sẽ phát triển một
cách tích cực và sẽ nhanh chóng tăng trưởng 5 năm tiếp theo..Error! No
text of specified style in document..1
Thứ nhất, giá trị thương mại hàng hóa của Việt Nam với Australia và
New Zealand sẽ tăng lên nhanh chóng, nhất là trong xuất khẩu của Việt
Nam.
Thứ hai, cùng với việc giảm thuế mạnh hơn trong những năm tiếp
theo, AANZFTA sẽ giúp Việt Nam với Australia và New Zealand chuyên
biệt hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế một cách hiệu quả
hơn.
20


Thứ ba, cơ cấu hàng xuất khẩu tiếp tục có sự chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ trọng nhóm hàng hóa vốn và hàng hóa tiêu dùng, giảm dần tỷ
trọng hàng nguyên liệu thô và sơ chế; cơ cấu nhập khẩu chuyển dịch theo
hướng ngược lại.
Thứ tư, trong những năm tới, Việt Nam sẽ tối ưu hóa những lợi thế
của tạo lập thương mại khi tham gia AANZFTA thông qua việc tăng
cường nhập khẩu các mặt hàng nước bạn có lợi thế so sánh.
4.4. Một số hàm ý để Việt Nam tận dụng được lợi thế của AANZFTA
trong thương mại hàng hóa với Australia và New Zealand.
4.4.1. Cần chú ý hơn đến những tác động của bối cảnh khu vực và thế
giới trong việc tăng cường quan hệ với Australia và New Zealand.
Cùng với dòng chảy toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, sự
hình thành AC sau năm 2015 cũng như các hiệp định song phương và đa
phương mà Việt Nam đã và sẽ tham gia là tiền đề cho phát triển thương

mại của Việt Nam với Australia và New Zealand. Do đó, Việt Nam cần tận
dụng thời cơ này để tham gia vào mạng lưới toàn khu vực. Ngoài việc tận
dụng cơ hội mà bối cảnh khu vực và thế giới mang lại, Việt Nam cũng cần
phải khắc phục những khó khăn mới.
4.4.2. Cần tăng cường hợp tác với Australia và New Zealand thông qua
các biện pháp thúc đẩy thương mại trong khuôn khổ AANZFTA.
Cho đến nay, AANZFTA đã thực hiện được 8 năm và đang tiếp tục
được điều chỉnh một số điều khoản để việc thực thi mang lại hiệu quả cao.
Chính vì vậy, Việt Nam cũng cần tiếp tục triển khai thực hiện lộ trình theo
cam kết cũng như thay đổi các thông tư để phù hợp với những điều chỉnh
trong hiệp định.
4.4.3. Cần tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong AANZFTA
Nhìn chung, tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong AANZFTA của Việt Nam
còn ở mức thấp. Do đó Việt Nam cần phải tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong
AANZFTA.iểm soát chặt chẽ hơn trong khâu sản xuất, chế biến và phân
phối các mặt hàng nông thủy sản sang Australia và New Zealand để không
còn sản phẩm kém chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng được
nguồn gốc xuất xứ.
4.4.4. Cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và
doanh nghiệp trong việc thực thi AANZFTA.
Mặc dù, Việt Nam đã tiến hành các hoạt động xúc tiến và hỗ trợ
thương mại và hỗ trợ từ các cơ quan hữu quan, song thực tế vẫn chưa thực
sự đạt hiệu quả cao. Do đó, để tăng cường thương mại hai chiều, tận dụng
được cơ hội AANZFTA mang lại thì hoạt động này cần được nâng cao cả
về chất và lượng, triển khai phối hợp đa dạng với nhiều biện pháp cả trong
21


nước lẫn ngoài nước, hướng tới mục tiêu tăng cường tối đa tính chuyên
nghiệp và hiệu quả trong công tác này.

4.4.5. Nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam với các quốc gia
trong AANZFTA
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam đối với các quốc gia
cùng tham gia hiệp định, Việt Nam cần tăng cường thu hút đầu tư từ
Australia và New Zealand. Để làm được điều này, Chính phủ và doanh
nghiệp cần hợp tác chặt chẽ với nhau để để đổi mới công nghệ, thông qua
đó tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm
để đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt từ phía Australia và New Zealand.
Bên cạnh đó, cần đầu tư xây dựng được thương hiệu cho các sản phẩm
xuất khẩu và cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Có như vậy,
các sản phẩm và doanh nghiệp Việt Nam mới có vị thế trên thị trường
quốc tế và ngay tại thị trường trong nước trong bối cảnh cạnh tranh ngày
càng gay gắt hiện nay.
4.4.6. Cần đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế và
được hưởng ưu đãi thuế từ Australia và New Zealand trong khuôn khổ
AANZFTA.
Để phát huy được lợi thế này mà không gây ảnh hưởng đến cạnh
tranh của doanh nghiệp trong nước thì Việt Nam cần sử dụng chiến lược
nhập khẩu đặc biệt của các sản phẩm khai thác và chế biến ở nước ngoài.
Việt Nam cần chuyên sản xuất các sản phẩm có lợi thế so sánh, có tiềm
năng thương mại cao và nhất là các mặt hàng Australia và New Zealand
giảm thuế sâu.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đi đến một số kết luận sau:
1.Luận án đã tổng quan và phân tích một số công trình, bài viết được
công bố trong và ngoài nước về trao đổi thương mại, FTA và nhất là các
tác động đối với các bên tham gia và cho thấy đây là một chủ đề khá rộng
phức tạp và có nhiều cách đánh giá, nhận xét khác nhau. Những kết quả
nghiên cứu của các công trình được công bố cũng như nguồn số liệu từ các
cơ quan thương mại có uy tín, các ý kiến nhận xét của chính phủ, doanh

nghiệp, các hiệp hội…đã cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn có
giá trị giúp tác giả luận án nhìn nhận các vấn đề đa chiều hơn, kế thừa và
soi rõ hơn thực tiễn tác động thương mại.
2. Trên cơ sở phân tích các khái niệm về Hiệp định thương mại tự do,
phân loại, các quy tắc chủ yếu…luận án đã chỉ ra các nội dung chủ yếu và
sự thay đổi các thỏa thuận trong các Hiệp định theo bối cảnh, lợi ích của
22


các bên tham gia... Luận án cố gắng phân tích cơ sở lý thuyết của các Hiệp
định thương mại tự do và sự tác động đến thương mại hàng hóa của các
quốc gia, đó là: Hiệu ứng động, hiệu ứng kinh tế tiềm năng, các lý thuyết
cơ bản và các nội dung về tạo lập thương mại và chuyển hướng thương
mại…Việc vận dụng cơ sở lý thuyết để đánh giá tác động của các Hiệp
định thương mại là rất cần thiết. Đó là việc sử dụng phương pháp chỉ số
bao gồm: Chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu, chỉ số định hướng khu vực…và
các mô hình: mô hình lực hấp dẫn, phương pháp dự báo qua đường xu
hướng…Để tạo lập cơ sở lý thuyết và thực tiễn tác giả đã cố gắng xây
dựng khung phân tích để đánh giá thực trạng tác động của AANZFTA đến
thương mại Việt Nam và Australia, New Zealand.
3.Mặc dù mới được ký kết vào năm 2009 và có hiệu lực vào năm
2010, nhưng nghiên cứu về AANZFTA đã cho thấy sự tác động khá rõ đến
thương mại của Việt Nam với Australia và New Zealand, đặc biệt là trong
bối cảnh các bạn hàng lớn của Việt Nam như EU, Hoa Kỳ đang giải quyết
các vấn đề hậu khủng hoảng. Với việc giảm thuế nhập khẩu sâu của
Australia và New Zealand và các chương trình hỗ trợ theo chương trình
bên lề AANZFTA, Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu các mặt hàng có lợi
thế như dệt may, thủy hải sản và nhập khẩu các mặt hàng chất lượng với
giá thành thấp mà các quốc gia trong Hiệp định có lợi thế như hoa quả, sữa
và các sản phẩm từ sữa.

Hiệp định này là tiền đề quan trọng giúp tăng cường quan hệ thương mại
hàng hóa của Việt Nam với Australia và New Zealand và điều này đã được
chứng minh sau 8 năm thực thi Hiệp định. Cụ thể, tổng kim ngạch trao đổi
thương mại của Việt Nam với Australia và New Zealand cao hơn sau khi
hiệp định có hiệu lực vào năm 2010. Trong đó, cán cân thương mại luôn
nghiêng về Việt Nam và tốc độ tăng trưởng trong xuất khẩu cao hơn nhập
khẩu. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng thương mại trung bình giai đoạn sau khi
AANZFTA hình thành cao hơn so với giai đoạn trước. AANZFTA cũng
giúp Việt Nam cân bằng trong trao đổi thương mại giữa Australia và New
Zealand. Từ khi AANZFTA được thực hiện vào năm 2010, cơ cấu hàng
hóa trong trao đổi thương mại của Việt Nam với hai quốc gia này đã dịch
chuyển theo hướng chuyên biệt hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có
lợi thế hơn. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng ưu đãi từ
AANZFTA đều tăng. Và cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự chuyển dịch theo
hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng hóa vốn và hàng hóa tiêu dùng, giảm
dần tỷ trọng hàng nguyên liệu thô và sơ chế, trong khi cơ cấu nhập khẩu
chuyển dịch theo hướng ngược lại. Hiện nay, nhập khẩu của Việt Nam
đang hưởng lợi từ việc tạo lập thương mại trong AANZFTA.
23


×