Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Phương pháp sử kể trong nghiên cứu lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.52 KB, 12 trang )

PHƯƠNG PHÁP SỬ KỂ TRONG NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
Vũ Thị Thu Thanh
Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ

1.

Định nghĩa

Sử kể, nguyên gốc tiếng Anh là Oral history. Có nhiều định nghĩa khác nhau về sử kể.
Trong tài liệu Step-by-step Guide to Oral History (1999), Judith Moyer cho rằng: “Sử
kể là một tập hợp có hệ thống về sự tường thuật lại của những con người còn sống về
kinh nghiệm riêng của họ. Sử kể không phải là những câu chuyện dân gian, những
chuyện tán gẫu hay những tin đồn. Những sử gia chuyên nghiên cứu lời kể cố gắng
xác minh những điều nghe được, phân tích và đặt chúng trong bối cảnh lịch sử tương
ứng. Các sử gia này cũng quan tâm đến việc lưu trữ những kết quả phỏng vấn của họ
cho các học giả sau sử dụng” (Judith Moyer, 1999, tr.2).
Hiệp hội Sử kể [Oral History Association] đưa ra định nghĩa như sau: “Sử kể vừa là
một lĩnh vực nghiên cứu vừa là một phương pháp sưu tầm, gìn giữ và giải thích những
tiếng nói và ký ức của con người, những cộng đồng và những người đã tham gia vào
các sự kiện xảy ra trong quá khứ. Sử kể bao gồm cả hình thức tìm hiểu lịch sử xưa cũ
nhất, trước khi có chữ viết, lẫn cách tìm hiểu lịch sử hiện đại nhất, khởi đầu bằng
những thiết bị ghi âm ở thập niên 1940 và bây giờ là những thiết bị kỹ thuật số của thế
kỷ 21” (Oral History Association, Oral history: Defined).
Tài liệu hướng dẫn Fundametals of Oral History của Texas Historical Commission
cho rằng: “Sử kể là sự thu thập và sự thu âm tiếng nói về ký ức cá nhân như là một tài
liệu lịch sử. Sử kể chứng minh bằng tài liệu những dạng thức của sự tường thuật mà
thông thường không được ghi chép lại thành tài liệu và nó nhấn mạnh vào tầm quan
trọng kinh nghiệm của con người” (Ngô Vĩnh Long, 2008, tr.1).
Tuy mỗi định nghĩa nhấn mạnh vào một khía cạnh nhất định nhưng đã toát lên một số
nội dung quan trọng. Thứ nhất, sử kể là sự nỗ lực của người nghiên cứu nhằm khai
thác lời tường thuật của các nhân chứng đã không được ghi chép trong các nguồn sử




liệu thành văn. Thứ hai, sử kể đòi hỏi phải có sự có mặt của những thiết bị ghi âm vì
mục đích lưu trữ và làm sử liệu cho các nghiên cứu sau. Thứ ba, sử kể là lời tường
thuật của những người còn sống về kinh nghiệm riêng của họ. Thứ tư, sử kể không
phải là những câu chuyện dân gian, những chuyện tán gẫu hay những tin đồn.
Mục đích của việc thực hiện sử kể là sưu tầm và giữ gìn những tiếng nói của các nhân
chứng lịch sử mà chúng có thể sẽ mất đi khi những nhân chứng này không còn nữa.
Sử kể dưới dạng các đoạn hội thoại được ghi âm/ghi hình hay dưới dạng các bản gỡ
băng được đưa vào các kho lưu trữ, các thư viện hoặc được trình bày trong các bảo
tàng, các báo cáo chuyên đề và có thể được biên tạp để in thành sách nhằm phổ biến
lịch sử đến với công chúng.
2.

Phân biệt sử kể với lịch sử truyền miệng và phỏng vấn bổ sung tư liệu

Đối với Việt Nam cũng như một số dân tộc khác, trước khi có chữ viết, lịch sử chủ
yếu được truyền lại qua những câu chuyện truyền khẩu. Những câu chuyện giải thích
về nguồn gốc dân tộc, về các nhân vật lịch sử, các sự kiện được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác pha lẫn huyền thoại đã tạo nên một phần bản sắc trong văn hóa của
một dân tộc. Tuy nhiên, chúng không phải là sử kể.
Nhiều người thường sử dụng nhầm thuật ngữ lịch sử truyền miệng hay huyền khẩu
[oral tradition] thay cho sử kể, nhưng hai thuật ngữ này không giống nhau về nội hàm.
Lịch sử truyền miệng là những câu chuyện được truyền qua nhiều thế hệ bằng lời nói
vượt qua cuộc đời của bất cứ cá nhân nào. Ngược lại, sử kể là những lời tường thuật
về những điều đã chứng kiến, những hồi tưởng về các sự kiện đã qua và những kinh
nghiệm xảy ra trong quãng đời của người được phỏng vấn (Ngô Vĩnh Long, 2008, tr.
2).
Mặc dù một sự kiện lịch sử gần đây, chẳng hạn như nạn đói ở Việt Nam 1945, những
kinh nghiệm và ký ức của những người đã từng trải qua sự kiện này không được ghi

chép lại mà những hiểu biết về sự kiện này chỉ được kể lại gián tiếp bởi một thế hệ sau
thì chúng ta không thể gọi chúng là sử kể. Như vậy, sử kể chỉ có được thông qua
phỏng vấn trực tiếp và nó phải là chính cuộc đời và trải nghiệm trực tiếp của người
được phỏng vấn.


Rõ ràng, sử kể dùng phỏng vấn để lưu lại lời kể của nhân chứng nhưng Stephen J.
Lofgren, trong tài liệu U.S. Army Guide to Oral History (2006), nhấn mạnh rằng “sử
kể” và “cuộc phỏng vấn” không thay thế cho nhau. Cuộc phỏng vấn là sự ghi lại
những lời đáp của cá nhân đối với các câu hỏi của sử gia. Cuộc phỏng vấn, trong bất
cứ hình thức thu thập nào, tạo thành một tài liệu chính thức và phải được nghiên cứu
(và lưu giữ) theo đúng nghĩa của nó. Còn “sử kể” là một mối quan hệ cộng tác phản
ánh sự nỗ lực của cả người phỏng vấn và người được phỏng vấn để tạo ra một tài liệu
lịch sử duy nhất thông qua việc rà soát và hiệu đính bản ghi lại của cuộc phỏng vấn.
Bản ghi lại của một cuộc phỏng vấn không được hiệu đính không phải là sử kể cũng
không phải là một thể loại thay thế (Stephen, J. Lofgren, 2006, tr. 2-3). Có nghĩa là sử
kể mặc dù sử dụng hình thức phỏng vấn nhưng nó phải là kết quả của sự hợp tác của
cả người phỏng vấn và người được phỏng vấn để hướng tới những thông tin xác thực
nhất từ câu chuyện của người kể.
Nhưng cũng cần phân biệt giữa sử kể với cuộc phỏng vấn bổ sung tư liệu. Các sử gia
luôn thu thập chứng cớ để giải thích lịch sử. Khi nghiên cứu một vấn đề lịch sử không
quá xa với hiện tại, những thông tin thể hiện trong các tài liệu viết không đủ để cho
các nhà sử học giải thích vấn đề. Để bổ sung cho những thiếu sót này, nhà sử học tiến
hành phỏng vấn người có liên quan để thu thập thêm thông tin nhằm củng cố vững
chắc cho sự giải thích của mình. Đây là cuộc phỏng vấn bổ sung tư liệu. Ngược lại,
một cuộc phỏng vấn thu thập lời kể là sự sưu tầm những câu chuyện kể về những sự
kiện đã xảy ra trong cuộc đời của nhân chứng và nó chính là những kinh nghiệm, suy
nghĩ, cảm xúc chứ không đơn thuần là sự tường thuật. Đây là một cuộc phỏng vấn đòi
hỏi sự nỗ lực từ hai phía, cả sử gia lẫn người được phỏng vấn, cả hai cùng “khám phá”
lẫn nhau. Cuộc phỏng vấn thu thập lời kể chủ yếu dựa vào ký ức và chú trọng khai

thác những tác động của lịch sử lên suy nghĩ và hành động của người được phỏng vấn.
Người nghiên cứu có thể hiểu được những giá trị và hành động cá nhân đã hình thành
trong quá khứ như thế nào và quá khứ đã định hình cho những giá trị và hành động
hiện tại như thế nào (Barbara Truesdell, 2010). Tương tự, thông qua sự dẫn dắt của
người phỏng vấn, người được phỏng vấn có cơ hội để tổng hợp những kinh nghiệm và
quan điểm của mình đối với một sự kiện xảy ra trong quá khứ. Mặc dù lời kể của họ


đã được nhận thức lại và được trình bày cho phù hợp với hiện tại nhưng nó đã giúp
cho họ khám phá chính bản thân của mình.
3.

Sử dụng sử kể như là một nguồn sử liệu như thế nào

Sử kể là nguồn tài liệu sơ cấp hay thứ cấp? Những loại sử liệu như hồi ký, tự truyện,
nhật ký v.v... có phải là sử kể không? Đây là những câu hỏi được chúng tôi đặt ra khi
tìm hiểu về sử kể. Theo như một số sách phương pháp nghiên cứu sử học thì nguồn sử
liệu bằng lời kể [oral sources], tức những tư liệu ghi âm từ các cuộc phỏng vấn thu
thập lời kể, được xem là nguồn tài liệu sơ cấp (Mary Lynn Rampolla, 2007, tr. 7). Bởi
vì, nó là những thông tin trực tiếp được cung cấp bởi những người đã từng tham gia
hoặc chứng kiến một sự kiện xảy ra trong quá khứ. Tiếp đến, hồi ký, tự truyện, nhật
ký v.v... cùng với sử kể đều là câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của một người.
Chúng đều thuộc nguồn tài liệu sơ cấp. Tuy nhiên, có hai điều mà chúng tôi muốn
nhấn mạnh về sự khác nhau giữa chúng. Thứ nhất, sử kể khác với những cái còn lại ở
chỗ kết quả nghiên cứu của nó có được từ sự hợp tác giữa hai nhân vật thông qua
phỏng vấn. Thứ hai, sử kể bắt nguồn từ sự chuyển hướng trong đối tượng nghiên cứu,
từ các nhân vật tinh hoa, có quyền lực, các anh hùng chuyển sang những con người
bình thường trong xã hội. Cho nên, hầu hết những người được phỏng vấn đều nghĩ
rằng những câu chuyện của họ không quan trọng, không cần phải sưu tầm và phổ
biến. Trong một bài nghiên cứu đăng trên tạp chí Oral History Review, tập 36 số 1

năm 2009, có nhan đề ““I Didn’t Do Anything Important”: A Pragmatist Analysis of
the Oral History Interview”, tác giả của bài viết cho biết một điệp khúc được lặp đi
lặp lại trong hầu hết các cuộc phỏng vấn là “Tôi không làm gì quan trọng cả”. Vì phần
lớn các đối tượng nghiên cứu là những con người bình thường, thậm chí là những
người được xếp vào nhóm yếu thế nhất trong xã hội. Có nghĩa là, những đối tượng
này không có ý thức kể hay tường thuật lại những kinh nghiệm mà họ đã trải qua.
Ngược lại, hồi ký, tự truyện, nhật ký v.v... xuất phát từ sự tự ý thức về việc ghi chép
lại những sự kiện đã xảy ra. Như vậy, sử kể, hồi ký, nhật ký, tự truyện là tài liệu sơ
cấp, nhưng chúng không phải là một.
Như mọi sử liệu khác, sử kể cũng phải được sử dụng với một tinh thần phê phán. Khi
sử dụng lời kể của các nhân chứng như là một cứ liệu, chúng ta phải đến các trung tâm


nơi lưu trữ nguồn sử liệu này, để tìm các băng ghi âm hoặc ghi hình cuộc phỏng vấn
để tận tai nghe, mắt thấy cuộc phỏng vấn diễn ra. Chúng ta không thể sử dụng bản
chép lại do những người nghe cuộn băng ghi âm viết lại, cũng như không phải là các
tác phẩm được tác giả sửa chữa, hiệu đính để xuất bản nhằm phổ biến đến công
chúng. Đối với nguồn sử liệu này, chúng ta có hai bước phê phán: bước thứ nhất phê
phán về hình thức, bước thứ hai phê phán về nội dung. Phê phán về hình thức giúp
chúng ta xác định chất lượng nội dung thông tin của cuộc phỏng vấn. Phê phán về nội
dung giúp chúng ta xác định độ tin cậy của thông tin.
3.1.

Phê phán hình thức

Phê phán hình thức hay phê phán bên ngoài là bước phê phán đầu tiên để xem xét
những yếu tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng thông tin của cuộc phỏng vấn. Phê
phán hình thức bao gồm:
Xác định đặc điểm cá nhân và xã hội của người phỏng vấn và người trả lời
Trong bất kì một cuộc phỏng vấn nào, đặc điểm cá nhân và đặc điểm xã hội của người

phỏng vấn và người trả lời luôn để lại dấu ấn trong toàn bộ câu chuyện của cuộc
phỏng vấn. Xác định đặc điểm cá nhân và xã hội của cả người phỏng vấn và người trả
lời chính là hiểu biết căn bản để chúng ta tiến đến phê phán nội dung. Đặc điểm cá
nhân bao gồm: tuổi tác, giới tính, nhân cách, lối sống, trình độ học vấn và nhân sinh
quan. Đặc điểm xã hội của một người bao gồm: tôn giáo, văn hoá, địa vị xã hội, giai
cấp, kinh tế…
Xác định những điểm khác biệt giữa người phỏng vấn và người trả lời
Những điểm khác biệt giữa người phỏng vấn và người trả lời là các yếu tố mà nhà
nghiên cứu phải chú ý đến khi phê phán cuộc phỏng vấn thu thập lời kể vì nó có ảnh
hưởng đến kết quả nghiên cứu. Sự khác biệt về giới tính có ảnh hưởng lớn đến quan
điểm và kinh nghiệm. Cùng một chủ đề và cùng người trả lời nhưng với hai người
phỏng vấn khác nhau về giới tính sẽ có kết quả nghiên cứu khác nhau và ngược lại.
Sự khác biệt về tuổi tác và thế hệ dẫn đến sự khác biệt nhau về quan điểm và kinh
nghiệm. Người lớn tuổi thường có xu hướng bảo thủ, ngược lại người trẻ tuổi thường
có khuynh hướng cấp tiến, phủ định những tư tưởng lỗi thời. Với cùng một chủ đề


nhưng người trả lời thuộc hai thế hệ khác nhau sẽ có kết quả khác nhau. Ngược lại,
với cùng một chủ đề và cùng một người trả lời mà người phỏng vấn thuộc hai thế hệ
khác nhau cũng sẽ cho ra một kết quả khác nhau.
Sự khác biệt về giáo dục giữa người phỏng vấn và người trả lời cũng gây ra một số
khó khăn, đặc biệt là lối diễn đạt câu hỏi, ý kiến, quan điểm…Trong một cuộc phỏng
vấn có sự khác nhau về dân tộc, người thuộc dân tộc chiếm ưu thế thường cho dân tộc
khác là ngoại vi và mang thành kiến đối với họ. Sự khác biệt về dân tộc giữa người
phỏng vấn và người trả lời cũng sẽ có ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Tương tự,
văn hoá là nét khu biệt giữa dân tộc này với dận tộc khác và nhóm xã hội này với
nhóm xã hội khác. Phong tục tập quán được đề cao của dân tộc này nhưng đối với dân
tộc khác có thể bị xem thường.
Xác định những yếu tố gây trở ngại cho cuộc phỏng vấn
Trong bất kỳ cuộc phỏng vấn nào, sự tương tác qua lại giữa người phỏng vấn và người

trả lời thường xuyên xảy ra và nó có ảnh hưởng đến chất lượng thông tin của cuộc
phỏng vấn. Sự tương tác đó xảy ra theo chiều hướng có lợi hay có hại là do những
chướng ngại do người phỏng vấn hay người trả lời tạo ra. Xác định những chướng
ngại xảy ra trong cuộc phỏng vấn là một khâu cần thiết trong phê phán.
Sự thiếu quan tâm và thiếu kiến thức về chủ đề của cuộc phỏng vấn là một trong
những chướng ngại quan trọng. Một người phỏng vấn không quan tâm cũng như
không có kiến thức nền về chủ đề mà mình đang phỏng vấn sẽ dẫn đến một kết quả
phỏng vấn kém chất lượng. Ngược lại, người trả lời không quan tâm đến chủ đề phỏng
vấn sẽ không cung cấp được thông tin cần thiết mà cuộc nghiên cứu muốn tìm hiểu.
Môi trường xung quanh nơi thực hiện cuộc phỏng vấn có tác động lên tiến trình phỏng
vấn. Các yếu tố như tiếng ồn, ánh sáng, nhiệt độ, sự chật chội sẽ ảnh hưởng đến lời kể
của người trả lời. Sự có mặt của người khác ngoài người phỏng vấn và người trả lời
cũng có tác động tương tự.
Sức khoẻ và tinh thần của người phỏng vấn và người trả lời có ảnh hưởng đến buổi
phỏng vấn. Người trả lời đang mệt mỏi hoặc ốm đau thì không thể tập trung hồi tưởng


các sự kiện xảy ra để cung cấp thông tin cho người nghiên cứu. Hoặc họ đang nóng
giận, buồn bực một việc gì đó thì cũng không thích hợp để phỏng vấn.
Thiếu sự hồi đáp là một yếu tố gây trở ngại cho cuộc phỏng vấn. Để cuộc phỏng vấn
diễn ra tốt đẹp, đem lại nhiều thông tin, cuộc nói chuyện phải có người sẵn sàng nói
và có người sẵn sàng nghe và đáp lại. Người phỏng vấn phải luôn biểu lộ cho thấy họ
rất thích thú với câu chuyện của người trả lời. Điều này tạo nên sự tự tin và sự hài
lòng ở người trả lời và sẵn sàng kể thêm nhiều thông tin. Sự thiếu hồi đáp phát ra từ
người phỏng vấn làm cho người trả lời phân vân không biết câu chuyện của họ có
giúp gì cho chúng ta hay không hoặc họ cho rằng chúng ta xem thường kinh nghiệm
của họ. Vì thế, thiếu sự hồi đáp có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.
3.2.

Phê phán nội dung


Phê phán nội dung tức là phải xem xét những gì đã được nói trong cuộc phỏng vấn,
bao gồm câu hỏi, chủ đề của người phỏng vấn đưa ra và lời đáp của người trả lời. Phê
phán nội dung có nghĩa là phải xem câu hỏi và chủ đề mà người phỏng vấn đưa ra có
phù hợp với mục đích và mục tiêu của công trình nghiên cứu không. Sau đó, người
nghiên cứu xem những câu hỏi được đặt ra có thể hiện sự tinh thông, khôn khéo và
sắc sảo không. Có nghĩa là câu hỏi phải làm sao khai thác được nhiều thông tin từ
người trả lời nhằm tạo ra được một câu chuyện lịch sử đầy đủ và hoàn tất. Nên biết
rằng, trí nhớ của con người về một sự kiện không phải đã được tập hợp hoàn chỉnh.
Một sự kiện vừa mới xảy ra, khi được hỏi đến thì người quan sát bao giờ cũng phải
tổng hợp những quan sát từ các giác quan, sắp xếp chúng lại thành một câu chuyện để
trình bày, huống chi một sự việc xảy ra đã lâu. Nhiệm vụ của người phỏng vấn là phải
đưa ra những câu hỏi để cho bộ não của người trả lời hoạt động, giúp họ nhớ lại
những gì đã xảy ra. Đôi khi, người phỏng vấn phải tìm ra những lỗ hổng, những điều
còn mập mờ hoặc những chỗ chưa hợp lý để đưa ra những câu hỏi lấp đầy cho câu
chuyện.
Đối với người trả lời, lời đáp của họ chính là sản phẩm của cuộc nghiên cứu. Để xác
định độ tin cậy của sản phẩm, người nghiên cứu phải tiến hành phê phán. Trước hết,
phải xem mối quan hệ giữa người trả lời với sự kiện. Họ là nhân chứng trực tiếp hay
gián tiếp, mức độ liên hệ của họ với sự kiện, họ giữ vai trò chủ chốt hay thừa hành, vị


trí quan sát của họ… Sau đó, người nghiên cứu tự hỏi tại sao họ kể một câu chuyện
như vậy, mục đích của họ là gì. Trong quá trình nghe, cần chỉ ra những vấn đề nào,
những câu hỏi nào mà người trả lời né tránh cũng như những vấn đề nào mà người trả
lời nói nhiệt tình. Đặt ra những câu hỏi: Tại sao như vậy? Điều đó nói cho chúng ta
biết điều gì? Chúng ta luôn đặt ra những câu hỏi như thế để xác định độ tin cậy trong
những câu chuyện mà người trả lời cung cấp. Phê phán nội dung không những đòi hỏi
phải có tư duy phê phán mà còn phải có kiến thức về lĩnh vực mà người nghiên cứu
muốn phê phán.

Trên đây là những nội dung và phương pháp cơ bản dùng để phê phán nguồn sử liệu
bằng lời kể của các nhân chứng. Phê phán hình thức đi vào xem xét các yếu tố bên
ngoài trong sự kết hợp giữa người phỏng vấn và người trả lời. Phê phán nội dung đi
vào xem xét độ tin cậy của thông tin. Đây là hai bước phê phán căn bản mà nhà
nghiên cứu phải chú ý khi thực hiện công tác phê phán sử liệu.
4.

Ưu điểm và hạn chế của sử kể

Người nghiên cứu khi tìm hiểu cũng như chuẩn bị thực hiện một cuộc phỏng vấn về
sử kể nên biết về những ưu điểm và hạn chế của nó. Trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi nhận thấy sử kể có 6 ưu điểm lớn. Thứ nhất, sử kể là một phương pháp khai
thác những thông tin có giá trị lịch sử nằm trong trí nhớ của những người quan sát và
những người tham gia vào một sự kiện nào đó trong quá khứ mà những tài liệu thành
văn không có được. Nó có thể giúp cho các sử gia kiểm tra, thẩm định lại thông tin
lịch sử trong các tài liệu thành văn. Thông qua lời kể của nhân chứng, sử gia có thể
kiểm chứng thông tin về một sự kiện qua nhiều lời kể và so sánh, đối chiếu với các
nguồn tài liệu khác. Thứ hai, sử kể đưa tiếng nói của những người, những cộng đồng
bị coi là yếu thế như phụ nữ, tộc người thiểu số, những người công nhân, người lao
động… đến công chúng. Thứ ba, sử kể là một phương pháp hỗ trợ tốt cho các nghiên
cứu lịch sử vi mô. Bên trong những nghiên cứu của lịch sử vi mô, sử kể có một trọng
lượng rất lớn vì nó giúp cho các sử gia hiểu và phân tích những tiếng nói mà họ từng
mang trách nhiệm là xây dựng lại lịch sử, từ hiện tại (Trần Thị Bích Ngọc, 2008, tr.
64). Thứ tư, sử kể có thể giúp cho sử gia và người đọc có một cách nhìn mới về sự
kiện và con người, phát hiện thêm khía cạnh mới mà trước đây không được nghiên


cứu, tìm hiểu hay do thành kiến mà có cách nhìn nhận khác. Thứ năm, sử kể làm bức
tranh lịch sử thêm sinh động tác động mạnh đến cảm xúc của người nghe và người
đọc vì nó là những câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của một cá nhân. Khi chúng ta

được nghe họ kể, chúng ta dường như hoá thân vào họ, cùng sống và cùng vui buồn
với những kinh nghiêm của họ. Điều đó giúp ích cho việc tái hiện lịch sử và tăng thêm
sự hiểu biết về các sự kiện lịch sử trong suy nghĩ của chúng ta. Thứ sáu, sử kể là một
phương pháp giảng dạy tốt, giúp cho học viên tích cực và phấn khởi trong việc học
lịch sử.
Bên cạnh những ưu điểm, sử kể cũng có những điểm yếu và hạn chế mà chúng tôi có
thể trình bày qua 3 điểm chính như sau. Thứ nhất, thông tin do những người quan sát
và những người tham gia cung cấp được xem như là một sử liệu trực tiếp. Nhưng do
ảnh hưởng của thời gian, trí nhớ của con người bị suy giảm cộng với sự nhận thức lại
sau khi sự việc đã xảy ra. Điều đó làm cho sử kể có độ tin cậy thấp. Thứ hai, lịch sử là
những câu chuyện được diễn đạt chủ yếu bằng lời tường thuật của nhân chứng nên sự
việc có thể bị cắt bớt hoặc thêm thắt chi tiết làm cho sự kiện khác đi nhiều so với điều
đã xảy ra. Điều này rất dễ hiểu vì ngay chính những người có trình độ học vấn cao
cũng ít khi diễn đạt tốt và đầy đủ ý kiến mà họ muốn trình bày huống chi người trả lời
xuất phát từ các tầng lớp, giai cấp, địa vị khác nhau. Trong đó, một số người lại không
có khả năng diễn đạt bằng lời nói nên thông tin thường bị méo đi rất nhiều. Thứ ba, sử
kể chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan trong quan điểm và kinh nghiệm của người kể.
Nó không thể đại diện cho số đông. Vì thế, những thông tin thu thập được từ cuộc
phỏng vấn phải được xem xét cẩn thận khi nghiên cứu và tham khảo.
5.

Điểm qua một số công trình sử kể đã xuất bản

Người muốn tìm hiểu sử kể có thể tìm đọc một số công trình được xuất bản và đang
được lưu giữ tại Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh như Japan at War: an
Oral History của tác giả Haruko Taya Cook and Theodore F. Cook xuất bản năm
1992, Dublin Pub Life and Lore: an Oral History của tác giả Kevin C. Kearns xuất
bản năm 1996, From 33rdStreet to Camden Yards: an Oral History of the Baltimore
Orioles của tác giả John Eisenberg xuất bản năm 2001, Patriots. The Vietnam War
Remembered from all Sides của tác giả Christian G. Appy xuất bản năm 2004, Boots



and All: an Oral History of Farming in Victory của tác giả Catherine Watson xuất bản
năm 1984, Asian American Experiences in the United States: Oral Histories of First
to Fourth Generation Americans from China, the Philippines, Japan, India, the
Pacific Islands, Vietnam and Combodia của tác giả Joann Faung Jean Lee xuất bản
năm 1991,Chuyện những người làm nên lịch sử - hồi ức Điện Biên Phủ 1954 –
2009 của nhiều tác giả xuất bản năm 2009. Chúng tôi xin điểm qua một số công trình
sử kể để thấy công năng của sử kể trong một số chủ đề lịch sử.
Về chủ đề chiến tranh, trong tác phẩm Japan at War: an Oral History (1992), Haruko
Taya Cook và Theodore F. Cook đã tiến hành phỏng vấn hàng trăm nhân vật sống vào
giai đoạn chiến tranh. Các nhân vật được lựa chọn không chỉ là những người trực tiếp
tham chiến mà còn là những người dân bình thường. Mục đích của tác giả là tìm hiểu
ký ức của họ tại thời điểm Nhật Bản tham gia chiến tranh. Tác phẩm chia làm 6 phần:
Cuộc chiến tranh không tuyên bố [An Undeclared War]; Niềm tin vào chiến thắng
[Have Faith in Victory]; Quê hương [Homeland]; Những trận đánh thất bại [Lost
Battles]; Một trăm triệu người chết cùng nhau [One Hundred Million Die Together];
Cuộc chiến tranh chưa quyết định [The Unresolved War]. Mỗi phần được giới thiệu
bằng một bài tổng quan về tình hình quân sự và chính trị. Nó có tác dụng như một
phông nền cho tất cả những lời kể bên trong. Những lời kể được trình bày chân thật,
cảm động, không trốn tránh trách nhiệm, không bào chữa cho những việc mà người
Nhật đã gây ra. Tác phẩm đã bổ sung những vấn đề chưa được thảo luận đầy đủ trong
các cuộc trao đổi về cuộc chiến tranh thế giới thứ II và tạo ra những hiểu biết về cuộc
chiến tranh.
Cũng về chủ đề chiến tranh, một công trình nghiên cứu về trận Điện Biên
Phủ, Chuyện những người làm nên lịch sử - hồi ức Điện Biện Phủ 1954 –
2009 (2009), được thực hiện bởi các nhà báo trẻ: Đào Thanh Huyền, Phạm Thùy
Hương, Nguyễn Xuân Mai, Phạm Hoàng Nam, Phạm Hoài Thanh và Đặng Đức Tuệ.
Đây là một công trình thực hiện theo thể loại sử kể. Cuốn sách được chia làm 3 phần
sắp xếp theo trình tự thời gian. Trong mỗi phần, tác giả tóm lược bối cảnh và diễn

biến lịch sử kèm theo những số liệu thống kê, dòng biên niên sự kiện để dẫn dắt người
đọc theo dõi từng lời kể. Để thực hiện công trình này, nhóm tác giả đã phỏng vấn 160


nhân vật ở các vị trí khác nhau: từ những tướng lĩnh cao cấp cho đến những con người
bình thường như các chiến sĩ, thầy thuốc, văn nghệ sĩ, dân quân, dân công hoả tuyến,
thanh niên xung phong và người dân các sắc tộc địa phương… Những lời kể của họ là
những tâm tư, tình cảm, những suy nghĩ, kỷ niệm riêng của họ đối với cuộc chiến.
Lòng yêu nước, sự dũng cảm, đức hy sinh, lòng nhiệt tình cách mạng không còn là
những từ hoa mỹ in trên giấy mà đến từ các lời kể mộc mạc, chân thật và đầy cảm
động. Tuy đây là một tác phẩm đầu tiên, một tác phẩm thể nghiệm, nhưng nó đã để lại
trong lòng người đọc một ấn tượng mạnh mẽ.
Trong tác phẩm Asian American Experiences in the United States: Oral Histories of
First to Fourth Generation Americans from China, the Philippines, Japan, India, the
Pacific Islands, Vietnam and Combodia (1991), Joann Faung Jean Lee đã tiến hành
phỏng vấn 44 nhân vật đến từ Trung Quốc, Philippine, Nhật, Ấn Độ, các vùng đảo
Thái Bình Dương, Việt Nam và Campuchia, để tìm hiểu kinh nghiệm của họ trên đất
Mĩ. Các câu chuyện của nhân vật được chia thành 3 phần: Sống tại Mĩ [Living in
America], Những khía cạnh của sự Mĩ hoá [Aspects of Americanization], Những suy
nghĩ về hôn nhân liên chủng tộc [Reflections on Interracial Marriage]. Các nhân vật
lần lượt trình bày kinh nghiệm của họ theo từng khía cạnh khác nhau từ con đường di
cư cho đến những vấn đề trong cuộc sống hằng ngày cũng như là những thách thức,
khó khăn mà họ phải đối mặt khi hòa nhập với cuộc sống ở Mĩ. Sự va chạm văn hoá là
vấn đề chủ yếu được bàn đến trong các câu chuyện. Chính sự khác biệt trong văn hoá
đã khu biệt họ với các cộng đồng khác và cũng chính văn hoá đã tạo cho họ một lối
sống và lối suy nghĩ riêng. Họ luôn có những vấn đề với những người xung quanh và
với chính dân tộc họ. Tuy những người mà Joann Faung Jean Lee phỏng vấn không
thể đại diện cho toàn bộ những người Mĩ gốc Á nhưng đây là một công trình có giá trị
và hữu ích vì nó cung cấp một số hiểu biết nhất định về nhóm người yếu thế bị coi là
ngoại vi trong dòng chảy văn hoá ở một số nước phương Tây có người Châu Á sinh

sống.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Barbara Truesdell. 2010. Oral History techniques: How to Organize and
Conduct

Oral

History

Interviews,

/>2.

Châu Long, Lê Kim Ngân, Sử học nhập môn, Nxb. Văn Hào, Sài Gòn, 1970.

3.

Haruko Taya Cook and Theodore F. Cook. 1992. Japan at War: An Oral
History. New York: New Press.

4.

Judith

Moyer.


1999.

Step-by-step

Guide

to

Oral

History,

/>5.

Lee Jean Faung Joann. 1991. Asian American Experiences in the United States:
Oral History of First to Fouth Generation Americans from China, the
Philippines, Japan, India, the Pacific Islands, Vietnam and Cambodia.
McFarland & Company.

6.

Lofgren

J.

Stephen.

2006.

US.


Army

Guide

to

Oral

History,

/>7.

Mary Lynn Rampolla. 2007. A Pocket Guide to Writing in History. Bedford:
St. Martin’s.

8.

Nhiều tác giả, Chuyện những người làm nên lịch sử - hồi ức Điện Biên Phủ
1954- 2009, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.

9.

Ngô Vĩnh Long. 2008. Chuyên đề về “Oral History”. Tập tài liệu tham khảo
bằng tiếng Anh.

10.

Trần Thị Bích Ngọc. 2007. “Lịch sử và phương pháp lịch sử”, Tạp chí Khoa
học Xã hội, số 9 + 10.


11.

Trần Thị Bích Ngọc. 2008. “Sử học hiện đại và lịch sử xã hội”, Tạp chí Khoa
học Xã hội, số 20.

12.

Viện Thông tin Khoa học xã hội. 1995. Sử học mới. Hà Nội: Trung tâm Khoa
học xã hội và Nhân văn Quốc gia.



×