Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Dau an hien thuc va lang man trong truyen Thach Lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.59 KB, 11 trang )

I. Lý do chọn đề tài:
Thạch Lam là một nhà văn có vò trí trang trọng trong văn học Việt Nam 1930 - 1945.
Ông là cây bút chủ chốt của nhóm Tự lực văn đoàn được đánh giá là cây bút truyện ngắn
xuất sắc. Trong gần 10 năm cầm bút, Thạch Lam chỉ để lại một gia tài văn chương khiêm
tốn gồm ba tập truyện ngắn, một tiểu thuyết, một tập ký và một cuốn phê bình văn học song
ông đã kòp để lại dấu ấn đặc biệt cho văn học hiện đại Việt Nam trước 1945 và góp phần
vào quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Tác phẩm của Thạch Lam giàu chất nhân
văn luôn khao khát hướng tới chân - thiện - mỹ và đậm đà tính dân tộc được thể hiện trong
một văn phong trong sáng, nhẹ nhàng và tinh tế. Vì thế, tác phẩm của ông không phải trải
qua những thăng trầm như những tác phẩm Tự lực văn đoàn khác mà được ghi nhận và đánh
giá khá công bằng. Hơn 60 năm qua, tác phẩm của Thạch Lam vẫn là người bạn tinh thần
của nhiều thế hệ bạn đọc. Sau đổi mới, tác phẩm của Thạch Lam được chọn đưa vào giảng
dạy trong nhà trường phổ thông đã góp phần vào việc bồi dưỡng tâm hồn cho thế hệ trẻ Việt
Nam. Với ý nghóa đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu về Thạch Lam là cần thiết và có ý nghóa
thực tiễn sâu sắc cho người giáo viên trong công tác giảng dạy văn học nói chung và giảng
dạy về tác giả Thạch Lam nói riêng ở nhà trường phổ thông.
II. Lòch sử vấn đề:
Sáng tác của Thạch Lam có vò trí trang trọng trong nền văn học nước nhà và có chỗ
đứng vững bền trong lòng người đọc. Nhiều thế hệ bạn đọc đến với tác phẩm của Thạch
Lam bởi họ tìm thấy vẻ đẹp vónh hằng trong mỗi trang văn và tìm thấy chính tâm hồn mình
trong thế giới nhân vật của ông. Như một lẽ tự nhiên, nhiều người say mê những trang viết
của Thạch Lam mà cố công tìm hiểu khám phá. Những lễ tưởng niệm 23 năm và 30 năm
ngày mất của Thạch Lam của Tạp chí văn Sài gòn và Giao điểm là dòp để những nhà nghiên
cứu, những bạn đọc yêu mến Thạch Lam trao đổi, tìm tòi, đánh giá về những cống hiến của
Thạch Lam cho văn học. Năm 1988, trong xu thế đổi mới văn học nhà xuất bản văn học
xuất bản cuốn “ Tuyển tập Thạch Lam”. Tuy vậy, việc nghiên cứu về nhà văn Thạch Lam
vẫn chưa sâu và chưa rộng. Năm 1992, Hội thảo khoa học kỉ niệm 50 năm ngày mất của
Thạch Lam do Viện văn học phối hợp với các Hội văn học nghệ thuật các tỉnh - thành phố:
Hà Nội, Hải Hưng, Quảng nam - Đà nẵng tổ chức đã có nhiều tham luận, nhiều bài viết đi
sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu về Thạch Lam trên nhiều phương diện: Quan niệm nghệ thuật,
những giá trò nhân bản của tác phẩm, thi pháp truyện ngắn Thạch Lam …. Từ đó đến nay


việc tìm hiểu, nghiên cứu về tác phẩm của Thạch Lam vẫn được tiếp tục. Ngoài những tìm
hiểu và những đánh giá xác đáng về Thạch Lam của các cây bút có tên tuổi như Phong Lê,
Phan Cự Đệ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Hoành Khung, Hà Minh Đức…, còn có nhiều bài viết,
chuyên luận, công trình nghiên cứu về Thạch Lam nói chung và phong cách nghệ thuật của
Thạch Lam nói riêng trong những năm gần đây. Đó là công trình nghiên cứu: Phong cách
văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam của Nguyễn Thành Thi NXB khoa học xã hội 2006. Theo tác
giả, mục đích của cuốn sách này là “ khảo sát một cách toàn diện và có hệ thống những đặc
điểm văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam. Trên cơ sở đó mà chỉ ra những đóng góp trong trong
phong cách văn xuôi nghệ thuật của ông trong tiến trình hiện đại hóa văn xuôi nghệ thuật
tiếng Việt”. Tác giả đi vào phân tích khảo sát các bình diện biểu hiện phong cách nghệ
thuật của Thạch Lam: quan niệm nghệ thuật, nội dung và phương thức tự sự, hình thức thể
loại và ngôn ngữ nghệ thuật. Ngoài ra chuyên luận: Ba phong cách truyện ngắn trong văn
học Việt Nam những năm 1930 - 1945: Nguyễn Công Hoan - Thạch Lam - Nam Cao của tiến
só Trần Ngọc Dung NXB Thanh niên 2004 khi bàn về phong cách nghệ thuật của Thạch Lam
có đề cập tới hiện thực và lãng mạn trong tác phẩm của Thạch Lam song chưa đặt hai yếu tố
hiện thực và lãng mạn trong cùng một mệnh đề để xem xét hoặc đề cập ở góc độ khác như:
hiện thực và trữ tình, hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm của Thạch Lam. Vì vậy, việc
yếu tố hiện thực đan xen với yếu tố lãng mạn - một đặc trưng riêng và nổi bật trong phong
cách nghệ thuật của Thạch Lam vẫn chưa ổn đònh và việc tìm hiểu về dấu ấn hiện thực và
dấu ấn lãng mạn trong tác phẩm của Thạch Lam vẫn là vùng đất vẫy gọi sự khám phá.
III. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu và đóng góp của đề tài:
Ngoài truyện ngắn, Thạch Lam còn viết tiểu thuyết, phê bình văn học, bút kí. Song
tài hoa nghệ thuật của nhà văn lại kết tinh ở ba tập truyện ngắn: Gió đầu mùa ( 1937 ),
Nắng trong vườn ( 1938 ), Sợi tóc ( 1942 ). Dấu ấn hiện thực - lãng mạn của Thạch Lam
được thể hiện rõ nét nhất trong những tác phẩm mang khuynh hướng hiện thực khi nhà văn
viết về những cảnh đời cay cực của lớp người dưới đáy xã hội. Trong phạm vi của một bài
tiểu luận, tiểu luận “ Hiện thực và lãng mạn trong tác phẩm của Thạch Lam” của tôi chỉ xin
trình bày dấu ấn hiện thực và trữ tình - một trong những nét phong cách của Thạch Lam
trong một số truyện ngắn: Dưới bóng hoàng lan, Nhà mẹ Lê, Đói, Tối ba mươi, Một cơn giận,
Hai đứa trẻ nhằm góp thêm tiếng nói vào việc tìm hiểu tác phẩm của Thạch Lam nói chung

và phong cách nghệ thuật của nhà văn Thạch Lam nói riêng.
IV. Cấu trúc của tiểu luận:
Tiểu luận “ Phong cách nghệ thuật Thạch Lam” gồm 3 phần :
- Phần 1 : Phần giới thiệu chung
- Phần 2 : Phần nội dung
- Phần 3 : Phần kết luận
I. Vài nét về hiện thực và lãng mạn trong văn học:
Lãng mạn là cảm xúc tràn ra khỏi đònh hình của lí tính, là sự biểu hiện của sức sống
vượt ra ngoài sự gò bó, khuôn khổ. Trái với lãng mạn, hiện thực là sự thật đời sống, là thái
độ của con người hướng về sự thật đời sống.
Mỗi tiếng nói văn học thực chất là tiếng nói của khuynh hướng cảm xúc thẩm mó
trước thực tại. Cảm xúc thẩm mỹ lãng mạn có tính hướng nội. Đó là khuynh hướng cảm xúc
đào sâu vào thế giới bên trong của con người, hướng vào thực tại mộng tưởng. Vì thế nó
mang nặng tính chủ quan. Trái với cảm xúc thẩm mỹ lãng mạn, cảm xúc thẩm mỹ hiện thực
có tính hướng ngoại. Đó là khuynh hướng cảm xúc đi sâu vào diện mạo của khách thể,
hướng ra thực tại bên ngoài. Vì thế nó đòi hỏi nhiều tính khách quan. Ở mỗi chủ thể, ở mỗi
con người đều tồn tại cả hai thứ cảm xúc: hướng nội và hướng ngoại. Nghóa là ở mỗi con
người vừa có dòng cảm xúc hiện thực, vừa có dòng cảm xúc lãng mạn. Hai dòng cảm xúc
này có khi được chuyển hóa cho nhau. Chẳng hạn, chứng kiến một điều xấu, trong ta vừa có
sự bất bình phẫn nộ nghóa là xuất hiện xúc cảm hiện thực và ta mơ ước cái xấu ấy không còn
nữa nghóa là xúc cảm lãng mạn. Hai dòng xúc cảm này đã chuyển hóa cho nhau. Điều này
giúp ta lí giải vì sao một nhà văn viết tác phẩm này thuộc về hiện thực nhưng viết tác phẩm
khác lại thuộc về lãng mạn hoặc ngay trong một tác phẩm vừa có dấu hiệu hiện thực lại vừa
có dấu hiệu lãng mạn.
Khi hiện thực và lãng mạn được đề cập như một khuynh hướng. một trào lưu văn học
và nhà văn được gắn với lãng mạn hay hiện thực là do sở trường của nhà văn. Nhà văn nào
có sở trường nắm bắt nhanh nhạy thế giới cảm xúc của con người thì được gọi là nhà văn
lãng mạn. Còn nhà văn nào có sở trường nắm bắt nhanh nhạy những vấn đề của cuộc sống
được gọi là nhà văn hiện thực. Giữõa văn học hiện thực và văn học lãng mạn có những đặc
trưng riêng, dấu hiệu riêng giúp ta có thể phân biệt văn học hiện thực với văn học lãng mạn

hoặc dấu ấn hiện thực và dấu ấn lãng mạn trong tác phẩm văn học.
Về tư duy nghệ thuật, lãng mạn thường hướng tới cái lí tưởng, cái hoàn hảo bằng việc
giải phóng trí tưởng tượng một cách triệt để tức là nó hướng tới cái không có thật trong thực
tại đời sống. Nhân vật trong văn học lãng mạn thường là con người lí tưởng được nhà văn
xây dựng bằng thao tác lí tưởng hóa. Trái với lãng mạn, hiện thực thường hướng tới cái điển
hình, xây dựng nhân vật điển hình bằng thao tác điển hình hóa. ( Điển hình được hiểu là
điển hình cho phẩm chất của một tập hợp người và tiêu biểu cho một hiện tượng có tính qui
luật ). Cùng xem con người là trung tâm phản ánh với các mối quan hệ nhưng văn học hiện
thực và văn học lãng mạn lại có những cách xử lý khác nhau. Trong văn học lãng mạn, tính
cách con người bất chấp hoàn cảnh. Do yêu cầu lí tưởng hóa, nhà văn lãng mạn không tuân
thủ logic của hoàn cảnh, của thục tế. Trong khi đó, văn học hiện thực nhìn nhận con người là
một sản phẩm thụ động của hoàn cảnh, của môi trường. Hoàn cảnh, môi trường là yếu tố
khách quan có sức mạnh vạn năng mà con người không thể cưỡng lại được. Văn học lãng
mạn vì mục đích giải phóng tình cảm, cảm xúc đến mức tối đa nên cảm xúc tràn ngập trong
mạch tư duy của lãng mạn. Trước hiện thực, nhà văn lãng mạn không phân tích hiện thực mà
chủ yếu là bộc lộ cái tôi, cái thế giới chủ quan. Trong khi đó, thao tác phân tích thực tại lại
là thao tác cơ bản của tư duy hiện thực. Để có cái nhìn khách quan, để tỉnh táo quan sát và
nắm bắt bản chất hiện thực, nhà văn hiện thực phải hạn chế tình cảm, cảm xúc đến mức tối
đa.
Văn học lãng mạn có ba đề tài căn bản là thiên nhiên - tình yêu - tôn giáo. Trong đó
đề tài thiên nhiên được xem là đề tài hàng đầu có tính tất yếu của văn học lãng mạn. Đề tài
tình yêu là đề tài quan trọng nhất, phổ biến nhất và đề tài tôn giáo được xem như logic nội
tại của văn học lãng mạn. Văn học hiện thực lại quan tâm đến xã hội, môi trường xã hội đặc
biệt là những không gian sinh tồn của các tập hợp xã hội. Vì thế, nó quan tâm đến khắc họa
tính cách xã hội ( kể cả tính cách phổ biến của người nông dân, đòa chủ đến những tính cách
cụ thể, dò biệt như tính cách lưu manh, tính cách dở hơi, tính cách bà cô… ); quá trình xã hội
đặc biệt là quá trình tha hóa, lưu manh hóa; hiện trạng xã hội.
Về thể loại, do gốc của văn học lãng mạn là cảm xúc cá nhân, là cái tôi nội cảm nên
nó hay tìm đến các thể loại trữ tình như thơ, tùy bút, tự truyện, truyện ngắn trữ tình. Còn gốc
của văn học hiện thực là xã hội, coi trọng khách quan nên thể loại phổ biến của nó là phóng

sự, truyện ngắn trào phúng, tiểu thuyết.
Có thể nói trên đây là những phương diện cơ bản để soi chiếu, để phân đònh văn học
hiện thực và văn học lãng mạn. Song trong thực tế sáng tác, hai phương diện hiện thực và
lãng mạn không thể phân đònh một cách rạch ròi mà đôi khi có sự chuyển hóa và các nhà
văn luôn có ý thức phát huy những tinh hoa của những tiếng nói văn học khác để tự làm giàu
khả năng nghệ thuật của mình. Ở những trường hợp đó, các phương diện đề cập ở trên cũng
có thể xem là tiêu chuẩn giúp ta nhận ra dấu ấn hiện thực và lãng mạn trong tác phẩm văn
học.
II. Dấu ấn hiện thực và lãng mạn trong tác phẩm của Thạch Lam

Soi rọi lý thuyết về hiện thực và lãng mạn vào sáng tác của Thạch Lam ta thấy sự tồn
tại của hai tính chất hiện thực và lãng mạn trong sáng tác của ông không phải là điều vô lý.
Như đã nói ở trên, con người cùng một lúc có thể tồn tại hai xúc cảm: xúc cảm hiện thực và
xúc cảm lãng mạn. Vậy việc nhà văn viết tác phẩm này mang dấu ấn hiện thực, tác phẩm
khác lại mang dấu ấn lãng mạn là thực tế xảy ra trong văn chương. Chẳng hạn trường hợp
Vũ Trọng Phụng, khi viết “ Giông tố”, “ Số đỏ” thể hiện đầy đủ cảm quan hiện thực nhưng
ở tác phẩm “ Lấy nhau vì tình” lại mang cảm quan lãng mạn dù ông là cây bút hiện thực phê
phán. Hay ở Thạch Lam, những kiểu truyện thiên về tâm tình, dấu ấn lãng mạn thể hiện rất
rõ và rất sâu sắc, những kiểu truyện thiên về xã hội, dấu ấn hiện thực lại được thể hiện rõ.
Song ở Thạch Lam, sự đan xen giữa hiện thực và lãng mạn còn xuất hiện ở ngay trong một
tác phẩm. Chính điều này làm nên nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.
1. Chất hiện thực trong truyện ngắn của Thạch lam
Vào những năm 1936 - 1939, cao trào Mặt trận Dân chủ diễn ra sôi nổi. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, người lao động đã bước lên vũ đài chính trò. Hiện thực này không chỉ tác
động mạnh mẽ đến dòng văn học hiện thực phê phán mà còn tác động và làm chuyển hướng
cả những cây bút của nhóm Tự lực văn đoàn thuộc dòng văn học lãng mạn: Trống mái
( 1935 ) của Khái Hưng, Tối tăm ( 1936 ) của Nhất Linh, Sau lũy tre (1937 ) và Con trâu
( 1939 ) của Trần Tiêu… . Thạch Lam là cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn, sáng tác chủ
yếu vào thời kỳ Mặt trận Dân chủ, lẽ tất nhiên cũng chòu ảnh hưởng của phong trào này.
Song khác với các nhà văn cùng văn đoàn, viết những tác phẩm có bóng dáng hiện thực có

tính xu thời. Họ thường bày tỏ lòng xót thương cho những người nghèo khổ bằng cách thương
hại của những bậc thượng lưu đối với những kẻ khốn cùng thì Thạch Lam lại lặng lẽ hướng
ngòi bút về phía những người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn và xót thương chân thành.
Khung cảnh thường thấy trong truyện của Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng,
những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu
phố ngoại ô nghèo khổ, buồn vắng … . Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với
vẻ heo hút, thảm đạm của kiếp lầm than. Ngay trong bài giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu
mùa, Thạch Lam viết: “ Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người
đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người
được thêm trong sạch và phong phú hơn.” Có thể xem đó là tuyên ngôn nghệ thuật của
Thạch Lam. Nó khác hẳn với tuyên ngôn của văn học lãng mạn và gần gũi với quan điểm
của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố… những nhà văn tiêu biểu của văn học hiện

×