Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Tai lieu triet hoc phan 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (929.43 KB, 50 trang )

TÀI LIỆU ÔN THI
MÔN TRIẾT HỌC
Câu 1. Phạm trù vật chất (phân tích định nghĩa vật chất của Lenin, ý nghĩa
của định nghĩa) OK
Vật chất là phạm trù cơ bản cơ bản, xuất phát điểm của triết học. Việc trả lời
vật chất là gì cũng như việc thừa nhận hay bác bỏ nó có liên quan đến việc giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học. Xung quanh vấn đề này luôn có những quan điểm khác
nhau, giữa duy vật và duy tâm, giữa CNDV cũ và CNDV biện chứng.
* Quan niệm của CNDT: Nhìn chung, họ phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật
chất. Theo họ, vật chất chỉ là hình ảnh, là cái bóng của ý niệm, là sản phẩm phức hợp
của các cảm giác.
- Platôn: Vật chất bắt nguồn từ “ý niệm”; sự vật cảm tính là cái bóng của “ý
niệm”.
- Hêghen: Vật chất là do “ý niệm tuyệt đối” sinh ra; giới tự nhiên là kết quả của
sự tha hoá của “ý niệm tuyệt đối”, là hình thức tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối”.
- Béccơli: “vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp của cảm giác”; và “tồn
tại nghĩa là được cảm biết”.
-> Thực chất quan niệm của CNDT là họ phủ nhận CNDV một cách tinh vi, phủ
nhận phạm trù nền tảng của nó là phạm trù vật chất. TGQ DT rất gần với TGQ tôn
giáo và tất yếu dẫn họ đến với thần học. Trên thực tế, quan niệm của CNDT đã bị sự
phát triển của khoa học và thực tiễn bác bỏ.
* Quan niệm của CNDV trước Mác : Thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới vật chất, giải thích sự vận động, phát triển của thế giới vật chất như một hiện
tượng tự thân, bác bỏ vai trò sáng thế của tinh thần, thượng đế, hay “ý niệm tuyệt
đối”. Tuy nhiên, họ lại đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể
- Thời cổ đại: Đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của nó, tức là những sự vật
hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
+ Talét: Vật chất là nước;
+ Hêraclít: Vật chất là lửa;
+ Phái Ngũ hành (Trung Quốc): Vật chất là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ; v.v..
- Thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV-XVI) và thời kỳ cận đại (thế kỷ XVII-XVIIII):


Do sự thống trị của quan điểm siêu hình và cơ học cổ điển Niutơn, khiến các nhà
khoa học đồng nhất vật chất với khối lượng; coi vận động của vật chất chỉ là biểu
hiện của vận động cơ học; nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất.
- Kế thừa quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật cận đại vẫn coi
nguyên tử là phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia được, tách rời nguyên tử với vận
động, không gian và thời gian.
- Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Khi xuất hiện các phát minh mới trong
KHTN, con người có được hiểu biết căn bản hơn, sâu sắc hơn về nguyên tử:
+ Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có bước sóng từ
0,01 - 100.10-8 cm.
+ Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã bác bỏ quan niệm
về sự bất biến của nguyên tử.


+ Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử (êléctrôn) và chứng minh được nó là
một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên
trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử được chứng minh bằng thực
nghiệm.
+ Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải
là bất biến, mà thay đổi phụ thuộc vào tốc độ vận động của nó.
+ Năm 1905, Anhxtanh phát minh ra thuyết tương đối hẹp và năm 1916, ông đưa
ra thuyết tương đối tổng quát, chứng minh được không gian, thời gian, khối lượng
không phải là bất biến, đặc trưng chung cho vật chất.
- Những quan niệm đương thời về giới hạn cuối cùng của vật chất là nguyên tử
hay khối lượng đã sụp đổ trước khoa học. Đây chính là cơ hội để CNDT lợi dụng,
cho rằng “vật chất” của CNDV đã tiêu tan, nền tảng của CNDV đã sụp đổ. Nhiều
nhà DVSH đã chuyển sang lập trường duy tâm.
-> Đòi hỏi phải có sự phát triển về mặt nhận thức luận để khái quát về mặt triết
học, chứng minh cho sự đúng đắn về sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất.
* Tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen: Do chưa đủ tiền đề về KHTN và cơ

sở lý luận nên C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có định nghĩa vật chất, song các ông đã
có những tư tưởng cơ bản về phạm trù vật chất:
- Một là, cần phân biệt (không được đồng nhất) phạm trù vật chất với vật thể cụ
thể.
- Hai là, phạm trù vật chất phải bao quát được những thuộc tính chung của các
SVHT đang tồn tại cảm tính.
- Ba là, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất thông qua sự phản ánh
của các giác quan về các SVHT cụ thể cảm tính.
- Bốn là, về tính vô hạn, vô tận và tính không thể sáng tạo, không thể tiêu diệt
của vật chất.
- Năm là, tính thống nhất vật chất của thế giới
- Sáu là, các hình thức tồn tại của vật chất: không gian, thời gian, vận động.
* Những tư tưởng thiên tài trên đây đã có ý nghĩa rất quan trọng đối với khoa
học đương thời, và là cơ sở trực tiếp để V. I. Lênin kế thừa, phát triển học thuyết
DVBC về vật chất sau này. V. I. Lênin đã đưa ra được một định nghĩa kinh điển về
v/c: “V/c là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại KQ, được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc và cảm giác”
- Theo V.I.Lênin, vật chất trước hết là một phạm trù triết học, nghĩa là vật chất
là phạm trù rộng nhất, khái quát về đặc tính cơ bản nhất, mà mọi SVHT của thế giới
đều có.
+ Đây là sự xác định “góc độ” của việc xem xét để phân biệt vật chất với tư cách
là phạm trù triết học với các quan niệm của KHTN về cấu tạo và những thuộc tính cụ
thể của các đối tượng và các dạng vật chất khác nhau:
-> Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn,
vô tận, không do ai sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa
học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái


khác. Vì thế, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, cũng không thể đồng nhất

vật chất nói chung với vật thể cụ thể như các nhà triết học cổ đại và cận đại đã làm.
+ Với tư cách là phạm trù triết học, phạm trù vật chất phải thể hiện TGQ và
hướng đến sự giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
-> Khác với phạm trù triết học, phạm trù của các khoa học cụ thể chỉ phản ánh
một sự vật, một đối tượng cụ thể, giới hạn trong phạm vi một ngành khoa học nhất
định. (Ví dụ, các phạm trù khối lượng, năng lượng của vật lý học; các phạm trù biến
di, di truyền của sinh vật học; các phạm trù hoá hợp và phân giải của hoá học, v.v..).
Cho nên, các phạm trù của khoa học cụ thể chỉ có chức năng bản thể luận.
+ Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học, V. I. Lênin muốn khẳng định
đây là một phạm trù rộng và khái quát nhất, khác với khái niệm vật chất theo nghĩa hẹp,
thường dùng trong KH cụ thể và trong đời sống hàng ngày; đồng thời muốn khẳng định
vật chất không phải là vật thể cụ thể, nó chỉ là một khái niệm, là kết quả của sự trừu
tượng hoá, khái quát hoá những đặc trưng cơ bản nhất của các đối tượng, của khách thể
thành tên gọi là thực tại khách quan để chỉ ra bản chất của vật chất. Do đó, phạm trù vật
chất có chức năng nhận thức luận.
+ Với tư cách là phạm trù triết học, phương pháp định nghĩa duy nhất đúng về
vật chất là bằng cách đặt nó trong quan hệ với mặt đối lập (là ý thức), tìm ra được
một thuộc tính thoả mãn cả hai điều kiện: một là, có ở mọi dạng vật chất; hai là, có
ý nghĩa phân biệt vật chất với ý thức (cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào).
-> Với phương pháp định nghĩa nêu trên, V. I. Lênin đã tìm ra được thuộc tính
phổ biến thoả mãn cả hai điều kiện đặt ra. Nội dung của thuộc tính ấy chính là nội
dung thứ hai của định nghĩa vật chất:
- Thuộc tính chung của vật chất là “thực tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý
thức của con người”.
+ Thực tại khách quan là một thuộc tính của thế giới vật chất, phản ánh khả năng
tự thân tồn tại, ở ngoài và độc lập với ý thức của loài người.
+ Thực tại khách quan, được V. I. Lênin dùng để chỉ vật chất (hay vật chất là
thực tại khách quan) chủ yếu là chỉ tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và độc lập với
ý thức của loài người. ở đây V. I. Lênin đã quy giản khái niệm vật chất về khái niệm
thực tại khách quan.

+ Thực tại khách quan ấy là cái “được đem lại cho con người trong cảm giác”.
Nghĩa là những khách thể của thực tại khách quan, trong quan hệ với chủ thể, khi tác
động vào giác quan của chủ thể thì đem lại cho chủ thể những cảm giác về chúng.
-> Khi vật chất tác động vào giác quan gây nên cảm giác, nhờ cảm giác mà ta
biết được vật chất. Do đó, muốn có cảm giác, trước hết phải có vật chất (thực tại
khách quan) tác động. Điều này đồng nghĩa với khẳng định vật chất có trước, cảm
giác (ý thức) có sau.
-> Tất cả những gì mà cảm giác đem lại cho ta đều do thực tại khách quan quy
định; tất cả những gì thông qua giác quan chúng ta cảm biết được đều là những cái
phải có trong thực tại khách quan, và chính chúng quy định nội dung của cảm giác, ý
thức. Điều này đồng nghĩa với khẳng định vật chất quyết định ý thức.


-> Với nội dung thứ hai trong định nghĩa vật chất, V. I. Lênin đã giải quyết mặt
thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học và làm cơ sở cho nội dung thứ ba của định
nghĩa:
- Vật chất là “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”.
+ Thực tại khách quan (vật chất) không tồn tại trừu tượng, mà được biểu hiện
thông qua các dạng cụ thể; bằng cảm giác (ý thức), con người có thể nhận thức được
vật chất với những phương pháp khác nhau: chép lại, chụp lại, phản ánh.
+ Thực tại khách quan (vật chất) vừa là nguồn gốc, vừa là đối tượng của cảm
giác, của ý thức; có trước ý thức và quyết định nội dung khách quan của ý thức.
-> Như vậy, với nội dung này, V. I. Lênin đã giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề
cơ bản của triết học; vừa chứng minh được khả năng nhận thức của con người, vừa
bác bỏ “thuyết không thể biết” phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
Tóm lại, nội dung định nghĩa vật chất của V. I. Lênin chỉ ra rằng, những khách
thể nào hội tụ đầy đủ ba đặc trưng bản chất trên đây mới thuộc về hiện tượng vật
chất. Tổng hợp cả ba đặc trưng bản chất đó, V. I. Lênin biểu đạt bằng thuật ngữ
“thực tại khách quan” và gọi nó là vật chất. Như vậy, lần đầu tiên trong LSTH, V. I.

Lênin đã đưa ra một định nghĩa kinh điển mang tính cách mạng, khoa học về phạm
trù nền tảng của CNDV.
* ý nghĩa của định nghĩa vật chất của Lênin
- Nó đã khắc phục triệt để thiếu sót chủ yếu của CNDV cũ và những biến tướng
của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản hiện đại; tạo cơ sở
khoa học cho quan niệm duy vật về xã hội, cho sự thống nhất giữa CNDVBC và
CNDVLS.
- Nó là cơ sở khoa học, là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống CNDT và “thuyết
không thể biết” một cách hiệu quả, bảo đảm sự đứng vững của CNDV trước sự phát
triển mới của KHTN.
- Nó trang bị TGQ và PPL khoa học cho các nhà khoa học trong nghiên cứu về
thế giới vật chất; động viên, cổ vũ họ tin vào khả năng nhận thức của con người tiếp
tục đi sâu khám phá những thuộc tính mới của vật chất. Do vậy, nó có tác dụng thúc
đẩy KHTN và nhất là vật lý học thoát khỏi cuộc khủng hoảng vào cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX để tiến lên.
- Đến nay, định nghĩa vật chất... vẫn còn nguyên giá trị, là tiêu chuẩn căn bản
nhất để phân biệt TGQDV và TGQDT.
* ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức thực tiễn, chúng ta phải phản ánh và tác động vào thế giới
đúng như nó có, đúng với bản chất của quy luật vận động của sự vật hiện tượng.
Chống tô hồng, bóp méo sự thật, chống chủ quan duy ý chí áp đặt
- Xác lập thế giới quan mới cho khoa học tự nhiên và khoa học xã hội phát triển
cả chiều sâu và chiều rộng, cổ vũ các nhà khoa học đi sâu tìm tòi, nghiên cứu thế giới
vật chất đa dạng.
- Là cơ sở khoa học để chúng ta vận dụng nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội để
chỉ ra cái vật chất trong lĩnh vực xã hội đóng vai trò quyết định đối với sự vận động,
phát triển của xã hội


* Vận dụng

- Xem xét bức tranh toàn cảnh về tình hình và triển vọng của đất nước như một
chỉnh thể động, cơ hội và thách thức đan xen…
- Xem xét, đánh giá tình hình, triển vọng của đất nước một cách cụ thể trong sự
tương quan giữa các lĩnh vực, các mặt, các yếu tố.
- Khẳng định và chủ động vạch ra quy luật phát triển tất yếu của đất nước.
Câu 2. phạm trù ý thức (nguồn gốc và bản chất của ý thức ; mối quan hệ
vật chất và ý thức) OK
* Trình bày nguồn gốc ý thức
ĐVĐ: Xung quanh vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức từ xưa đến nay trong
lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa quan điểm duy vật và duy tâm,
luôn thể hiện sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật cũ trước Mác với chủ nghĩa duy
vật biện chứng.
*Quan niệm của CNDT
- CNDT nói chung phủ nhận nội dung khách quan của ý thức đem đối lập một
cách tuyệt đối giữa vật chất và ý thức, tuyệt đối hoá ý thức và thần bí hoá nó như
một lực lượng siêu tự nhiên nằm ngoài khả năng nhận thức của con người.
-> Theo họ, ý thức là một thực thể duy nhất, có trước, tồn tại vĩnh viễn và là
nguyên nhân sinh ra vật chất, chi phối sự tồn tại và biến đổi của thế giới vật chất.
+ CNDT khách quan: Cái tồn tại trước, khách quan là “ý niệm”, “ý niệm tuyệt
đối”, “tinh thần thế giới”. ý thức của con người chỉ là sự “hồi tưởng” hoặc “tự ý
thức” của “ý niệm, “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”.
+ CNDT chủ quan: ý thức là do cảm giác sinh ra. Cảm giác, theo họ, là cái vốn
có, tách biệt với thế giới bên ngoài, chứ không phải là sự phản ánh thế giới bên ngoài
vào trong đầu óc con người.
-> Thực chất của quan niệm duy tâm trong vấn đề này là tách ý thức ra khỏi vật
chất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật chất, lấy ý thức làm xuất phát điểm để
giải thích thế giới. Tiêu biểu là: Platôn, Khổng Tử, Béccơli, Hêghen.
* Quan niệm CNDV trước Mác
- Nhiều nhà triết học duy vật bác bỏ tính chất thần bí, siêu tự nhiên của ý thức,
thừa nhận nội dung khách quan của ý thức. Song ở họ còn lẫn lộn, đồng nhất vật

chất với ý thức, lẫn lộn CNDV với CNDT (CNDV tầm thường).
+ Đê môcrít: ý thức là do các nguyên tử đặc biệt (hình cầu, nhẹ, linh động…)
cấu thành.
+ Phôgơtơ: óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật, thận tiết ra nước tiểu.
+ Phoiơbắc (1804-1872): Thừa nhận ý thức là sản phẩm đặc biệt của óc người.
Song do không thấy được bản chất xã hội của con người, nên ông không thấy được
yế tố xã hội - lịch sử của ý thức. Ông hiểu ý thức một cách chung chung, trừu tượng,
không thấy được bản chất xã hội của ý thức.
-> Nguyên nhân của những hạn chế của CNDV trước Mác, một mặt, do các
khoa học lúc đó còn kém phát triển, mặt khác, do sự chi phối của phương pháp siêu
hình.


-> Những hạn chế của CNDV trước Mác và những sai lầm của CNDT đều được
các giâi cấp thống trị bóc lột lợi dụng làm công cụ nô dịch đời sống tinh thần quần
chúng nhân dân.
* Quan niệm của triết học Mác- Lênin : ý thức là phạm trù triết học dùng để
chỉ hình thức phản ánh cao nhất, riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên
cơ sở thực tiễn. Về nguồn gốc, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát
triển tự nhiên và lịch sử- xã hội.
- Xét về mặt tự nhiên
+ ý thức là thuộc tính (đặc tính) riêng của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao là bộ óc người, được hình thành từ thuộc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất.
-> ý thức không phải là bản thân vật chất, cũng không phải là một hiện tượng
thần bí, mà chỉ là một thuộc tính đặc biệt của vật chất: thuộc tính phản ánh.
-> Khẳng định trên khắc phục được sai lầm của CNDV tầm thường đồng nhất
vật chất với ý thức; đồng thời chỉ ra nguồn gốc vật chất của ý thức: ý thức là một
thuộc tính của vật chất, phản ánh vật chất,- do đó, có ý nghĩa chống CNDT, tôn giáo.
V. I. Lênin viết: Hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính gần giống với cảm
giác, đặc tính phản ánh 1

-> Song không phải mọi dạng vật chất đều có ý thức, chỉ có óc người với tư các
là sản phẩm có tổ chức cao nhất của vật chất sống mới có khả năng phản ánh ý thức.
+ Khoa học đã chứng minh:
-> Bộ não người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, có cấu
tạo rất phức tạp và đặc biệt. Sự cấu tạo đặc biệt của óc người là tiền đề tạo ra khả
năng có sự phản ánh ý thức.
-> Trong óc người, quá trình ý thức không đồng nhất, cũng không tách rời, độc
lập hay song song với quá trình sinh lý. Đây là hai mặt của một quá trình,- quá trình
sinh lý thần kinh trong bộ óc người mang nội dung ý thức, cũng giống như tín hiệu
vật chất mang nội dung thông tin.
-> Phản ánh của ý thức là hình thức cao nhất của thế giới vật chất là kết quả của
quá trình tiến hoá lâu dài của các hệ thống, các tổ chức vật chất cùng sự phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của các hình thức phản ánh.
-> Điều này được V. I. Lênin trình bày trong học thuyết phản ánh. Theo V.I.
Lênin, mọi hệ thống vật chất đều có sự phản ánh, đó là năng lực giữ lại, tái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá
trình tác động qua lại giữa chúng. Sự tác động giữa hai hệ thống vật chất bao giờ
cũng gây ra một sự biến đổi nhất định, sự biến đổi này phụ thuộc cả vào vật tác động
và vật bị tác động. ( Điều này có ý nghĩa khi giải quyết tính độc lập tương đối của ý
thức ).
Ví dụ: khi soi gương, phụ thuộc vào cả cấu tạo của gương (phẳng, lồi, lõm, cầu,
hài…), phụ thuộc cả vào người soi (tư thế) và môi trường (ánh sáng, mầu sắc).
-> Quá trình phản ánh bao gồm quá trình thông tin. Nghĩa là vật nhận tác động
bao giờ cũng mang thông tin (dấu vết) của vật tác động. (Điều này có ý nghĩa khi
khẳng định ý thức là phản ánh của thế giới vật chất, mang nội dung vật chất khách
quan).


Ví dụ: nhìn thớ gỗ biết được tuổi cây; nhìn rễ cây biết được nguồn nước; nhìn
dấu vết tìm ra tội phạm.

-> Cùng với tiến hoá của thế giới vật chất là sự phát triển của các hình thức
phản ánh tương ứng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó ý thức là
hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất (xem sơ đồ đèn chiếu).
=> ý thức là thuộc tính của bộ nào người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào
óc người. Bộ não người (cơ quan phản ánh thế giới xung quanh) và thế giới bên
ngoài tác động lên bộ não - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Xét về mặt xã hội: Để ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất
quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ; điều kiện quyết định cho sự ra đời
của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. ý thức ra đời cùng với quá trình hình
thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
- Vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức.
+ Lao động: là hoạt động có mục đích của con người sáng tạo ra công cụ và sử
dụng công cụ đó tác động vào tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất làm cho xã hội
tồn tại và phát triển.
+ Vai trò của lao động được thể hiện:
-> Lao động là hoạt động riêng có của con người làm cho con người khác căn
bản với các loài động vật khác
-> Lao động của con người là hoạt động có mục đích, có kế hoạch và được
hoạch định trước,- tác động vào thế giới vật chất khách quan làm biến đổi thế giới để
thoả mãn nhu cầu của con người.
-> Trong quá trình lao động, bộ não người được phát triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người ngày càng phát triển.
-> Nhờ lao động mà thức ăn dồi dào phong phú làm cho cơ thể, óc và các giác
quan hoàn thiện.
-> Lao động còn chế tạo ra công cụ trợ giúp, “nối dài” giác quan của con người
làm cho con người hiểu biết thế giới sâu sắc hơn, trên cả hai chiều vĩ mô và vi mô.
-> Nhờ lao động, năng lực tư duy trừu tượng, phương pháp tư duy khoa học
được hình thành và ngày càng phát triển, giúp ý thức ngày càng phản ánh năng động,
sáng tạo thế giới.
-> Lao động còn là cơ sở hình thành và phát triển ngôn ngữ.

Sự ra đời của ngôn ngữ là một tất yếu do nhu cầu giao tiếp và trao đổi kinh
nghiệm trong lao động. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
- Vai trò của ngôn ngữ đối với sự hình thành ý thức
+ Ngôn ngữ đóng vai trò hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái “vỏ vật chất” của tư
duy, làm nhiệm vụ chứa đựng, chuyên chở những tri thức, và là hiện thực trực tiếp
của ý thức (tư tưởng).
-> Thế giới khách quan được phản ánh vào óc người dưới dạng tín hiệu, đó là
ngôn ngữ. Kết quả của tư duy, nội dung của tư duy được tín hiệu hoá, được giữ lại,
đọng lại trong “cái vỏ vật chất” (âm thanh) là ngôn ngữ.
-> Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng (ý thức): ý thức (tư tưởng) là
phản ánh hiện thực khách quan, còn ngôn ngữ là phương pháp diễn đạt, củng cố ý
thức (tư tưởng) và là phương tiện để truyền đạt tư tưởng cho người khác. Do đó,


ngôn ngữ chính là ý thức hiện thực, thực tiễn tồn tại cả cho những người khác và chỉ
có như vậy mới tồn tại cho tôi nữa (C. Mác).
+ Ngôn ngữ là công cụ, phương tiện vật chất để con người giao tiếp trong xã
hội, đồng thời là công cụ tư duy nhằm khái quát hiện thực.
-> Nhờ ngôn ngữ con người tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, trao đổi thông tin
cho nhau, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
-> Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể khái quát hoá, trừu tượng hoá, mới có thể
tư duy, không cần có sự vật trực quan. Nhờ ngôn ngữ mà kinh nghiệm, hiểu biết của
người này được truyền cho người kia, thế hệ này được truyền cho thế hệ khác.
-> Do đó, ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân, mà là một hiện
tượng có tính chất xã hội; không có phương tiện xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành và phát triển được (ví dụ: thí nghiệm của Hítle).
Tóm lại, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự hình thành và phát
triển ý thức là lao động (thực tiễn xã hội) và ngôn ngữ. ý thức phản ánh hiện thực
khách quan vào trong óc người thông qua lao động và ngôn ngữ và các quan hệ xã
hội. ý thức là sản phẩm của xã hội, là một hiện tượng xã hội.

Ph. Ăngghen viết: “Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao
động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con
vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người”1 .
* Bản chất ý thức
ý thức là phạm trù triết học dùng để chỉ hình thức phản ánh cao nhất, riêng có
của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn. Xung quanh vấn đề bản
chất của ý thức, từ xưa đến nay, trong lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu
tranh giữa quan điểm duy vật và duy tâm, giữa chủ nghĩa duy vật cũ trước Mác với
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Do không hiểu được nguồn gốc ra đời của ý thức nên chủ nghĩa duy tâm đã có
những quan niệm hết sức sai lầm về bản chất của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm đã
cường điệu vai trò của ý thức, trừu tượng ý thức đến mức thoát ly đời sống hiện thực,
để rồi biến nó thành một thực thể tồn tại độc lập, là thực tại duy nhất, là nguồn gốc từ
đó sinh ra toàn bộ thế giới vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình thì ngược lại, họ đã tầm thường hoá vai trò của ý
thức. Họ coi ý thức cũng chỉ là một dạng cấu trúc của vật chất; hoặc coi ý thức chỉ là
sự phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội rất phong
phú, sinh động.
-> Những quan niệm hết sức sai lầm đó đã không cho phép con người hiểu được
bản chất đích thực của ý thức, không hiểu được biện chứng quá trình phản ánh ý thức
của con người.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời
của ý thức và nắm vững lý thuyết phản ánh đã luận giải một cách khoa học bản chất
của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới hiện thực,
mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ không tách rời.
Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua
lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người.


-> Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh

hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách năng động, sáng tạo thế giới
vật chất.
+ ý thức chỉ là "hình ảnh" về hiện thực khách quan trong óc người.
-> Đây là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Đối với con người, cả ý thức và
vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa chúng
có sự khác nhau, đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan; còn ý
thức là hiện thực chủ quan.
-> ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà
chỉ là "hình ảnh" của sự vật ở trong óc người. ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với
các đối tượng vật chất mà nó phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách quan là
nguyên bản, là tính thứ nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là "hình ảnh" về thế giới đó,
là tính thứ hai.
+ ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
-> Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức mà nó phản
ánh là chủ quan. ý thức là cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của
con người và được cải biến đi ở trong đó.
-> Kết quả phản ánh của ý thức tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: đối tượng phản
ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể
phản ánh. Cùng một đối tượng vật chất nhưng với các chủ thể khác nhau, có đặc
điểm tâm lý, tri thức, kinh nghiệm, thể chất khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch
sử khác nhau...thì kết quả phản ánh trong ý thức cũng rất khác nhau.
+ ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
-> Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với
trình độ phản ánh tâm lý động vật. ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh
ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình
phản ánh có định hướng, mục đích rõ rệt.
-> Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành, tồn tại và phát triển luôn gắn liền với
hoạt động thực tiễn xã hội phong phú. Thế giới không thoả mãn con người và con
người đã quyết định biến đổi thế giới bằng hoạt động thực tiễn đa dạng, phong phú
của mình. Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động

khám phá sâu, rộng các đối tượng phản ánh.
-> ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất,
quy luật, điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, bằng những
thao tác của tư duy trừu tượng sẽ đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt động
thực tiễn chủ động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra "thiên nhiên thứ hai"
in đậm dấu ấn của con người.
-> Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. ý thức phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với
thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con người.
=> Phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt: trao đổi thông tin giữa
chủ thể và đối tượng phản ánh; mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình
ảnh tinh thần và chuyển hoá mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá
trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành


cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực
Tóm lại, ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện
thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử. ý thức không phải là cái không
thể nhận thức được như chủ nghĩa duy tâm quan niệm, nhưng nó cũng không phải
cái tầm thường như người duy vật tầm thường gán cho nó. Thực chất, ý thức chỉ là
thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác, chỉ
có con người mới có ý thức.
* ý nghĩa PPL
+ Là cơ sở khoa học trong nghiên cứu và tiếp cận các vấn đề về ý thức.
-> Do ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách
quan, chống chủ quan duy ý chí.
-> Đồng thời, ý thức là sự phản ánh tự giác sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư
tưởng thụ động và chủ nghĩa giáo điều, xa rời thực tiễn.

- Đây là cơ sở khoa học đấu tranh chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
và duy vật tầm thường trong quan niệm về bản chất của ý thức.
* Mối quan hệ vật chất và ý thức:
Khi xem xét mối quan hệ vật chất – ý thức, chủ nghĩa duy tâm coi ý thức
là cái có trước và quyết định vật chất, khẳng định sự thống nhất của thế giới là ý
thức tinh thần. Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã có công lớn trong việc xây dựng
học thuyết về tính thống nhất vật chất của thế giới, nhưng họ hạn chế là không
giải thích một cách duy vật triệt để những động lực và quy luật của xã hội và tư
duy.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất của thế giới là
tính vật chất. Trong mối quan hệ vật chất – ý thức thì vật chất là cái có trước, là
tính thứ nhất quyết định ý thức; ý thức là cái có sau, là tính thứ hai có tác động
trở lại to lớn đối với vật chất..
- Vật chất quyết định ý thức:
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất sinh ra ý thức, ý thức là chức
năng của óc người - dạng vật chất có tổ chức cao nhất của thế giới vật chất.
Ý thức là sự phản ánh của thế giới vật chất vào óc con người. Thế giới vật
chất là nguồn gốc khách quan của ý thức.
Vật chất quyết định về nguồn gốc của ý thức, quyết định đến nội dung và
sự biến đổi của ý thức, vật chất quyết định đến bản chất của ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất:
Sự tác động của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Mác viết "lực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bằng lực lượng vật
chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập
vào quần chúng". Con người dựa trên các tri thức về những quy luật khách quan
mà đề ra mục tiêu phương hướng thực hiện, xác định phương pháp và bằng ý chí
thực hiện mục tiêu ấy.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức nào đi chăng nữa
thì vẫn phải dựa trên sự phản ánh của thế giới vật chất.



Sự tác động của ý thức có thể xảy ra theo hai chiều hướng ngược nhau:
thúc đẩy hoặc kìm hãm. Những tư tưởng tiến bộkhoa học có vai trò thúc đẩy
hiện thực, những tư tưởng phản khoa học, lạc hậu có tác động tiêu cực đối với
hiện thực. Tuy nhiên, sự kìm hảm chỉ là tạm thời, sớm hay muộn nó cũng bị
những quy luật khách quan gạt bỏ.
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ngoài ra mối quan hệ vật chất ý thức còn là cơ sở xem xét mối quan hệ khách
quan và chủ quan nói chung và vận dụng mối quan hệ đó để xem xét mối quan
hệ khách quan và chủ quan trong lĩnh vực quân sự.
+ Khách quan dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại không lệ thuộc vào ý
thức của chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, thường xuyên và trực tiếp
quy định mọi hoạt động của chủ thể.
+ Chủ quan thực chất là phản ánh cái khách quan vào ý thức của chủ thể
và toàn bộ hoạt động của chủ thể dựa trên sự phản ánh đó.
Từ khái niệm đó chúng ta thấy rằng mối quan hệ giữa khách quan và chủ
quan, khách quan quyết định chủ quan, chủ quan tác động lại khách quan. Trên
thực tế đây là hai mặt không thể tách rời, nó tác động quan lại với nhau nhưng
chúng có vai trò không ngang nhau
+ Khách quan là cơ sở, tiền đề, điểm xuất phát và là cái suy đến cùng
quyết định chủ quan (KQ là quy luật, điều kiện, hoàn cảnh), nó tồn tại và chi
phối, chế ước hoạt động của chủ thể, do đó hoạt động phải xuất phát từ thực tế;
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan là một nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Nói đến vai trò của chủ quan là nói đến vai trò của chủ thể, của con
người. Bản thân con người là hiện diện của chủ quan trong hiện thực, đồng thời
lại là thống nhất giữa chủ quan và khách quan.
Câu 3. hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật OK

Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
ĐVĐ : Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lí cơ bản của
phép biện chứng duy vật, nó khẳng định giữa các SVHT trong thế giới luôn tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến tác động qua lại lẫn nhau tạo nên sự vận động phát triển
không ngừng. Việc nghiên cứu và nắm vững nguyên lí về mối liên hệ phổ biến có ý
nghĩa to lớn trong xem xét cải tạo các sự vật hiện tượng trong hoạt động thực tiễn.
- Trong lịch sử triết học đã từng có quan điểm không thừa nhận sự liên hệ giữa
các sự vật hiện tượng. Quan điểm của các nhà siêu hình họ xem xét thế giới trong sự
cô lập, tách rời, giữa các sự vật hiện tượng không liên hệ với nhau. Nếu phải thừa
nhận họ chỉ thừa nhận mối liên hệ hời hợt bên ngoài, không lên hệ, không chuyển
hoá lẫn nhau, cái nọ đặt bên cạnh cái kia. Ph.Ăngghen đã nhận xét họ chỉ nhìn thấy
cây mà không nhìn thấy rừng, thấy sự vật mà không nhìn thấy chúng.
- Đối lập với các quan điểm trên, các nhà kinh điển của chủ nghiã Mác – Lênin
khẳng định, thế giới là một chỉnh thể thống nhất của các sự vật, hiện tượng luôn liên
hệ một cách khách quan, phổ biến và phong phú muôn vẻ với nhau.


+ Liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác đọng, ảnh
hưởng qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt,
các yếu tố của một sự vật, hiện tượng.
+ Khi khẳng định tính khách quan của liên hệ, phép biện chứng duy vật coi đó
là những mối liên hệ hiện thực của bản thân thế giới vật chất, bắt nguồn từ sự thống
nhất vật chất trong các quá trình tự nhiên và xã hội. Các sự vật, hiện tượng không tồn
tại ở ngoài liên hệ.
+ Liên hệ bao giờ cũng là liên hệ của sự vật, hiện tượng, quá trình. Sự vật, hiện
tượng thay đổi thì sự liên hệ của chúng cũng thay đổi và việc thay đổi hoàn toàn
những mối liên hệ, mà trong đó sự vật, hiện tượng đang tồn tại có thể dẫn đến sự
thay đổi hoàn toàn sự vật, hiện tượng ấy.
+ Một mối liên hệ cụ thể có thể mất đi, nhưng sự liên hệ nói chung của thế giới
thì không thể mất đi. Do đó, liên hệ vừa mang tính khách quan vừa mang tính phổ

biến, tồn tại cả trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
-> Ví dụ, trong tự nhiên, sự tác động liên hệ lẫn nhau giữa động vật và thực vật;
trong xã hội, đó là mối liên hệ giữa kinh tế - chính trị, giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần, giữa người với người; trong tư duy, đó là mối liên hệ giữa các phạm
trù - khái niệm, giữa biết và chưa biết.
-> Như vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng
khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
+ Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng còn thấy rõ tính phong phú
muôn vẻ của nó.
-> Tính phong phú muôn vẻ có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo
từng cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối
liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ tất
nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối
liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới, mối liên hệ
trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp, mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các
mặt hay giữa các giai đoạn phát triển của một sự vật để tạo thành lịch sử phát triển
của sự vật, Có những mối liên hệ tác động đến nhiều lĩnh vực rộng lớn của thế giới
(Mối liên hệ: bản chất - hiện tượng, mối liên hệ cái chung cái riêng, nội dung - hình
thức) ... Trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không phải
chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.
Ví dụ, mỗi cá nhân trong một tập thể nhất định vừa có mối liên hệ bên trong, vừa
có mối liên hệ bên ngoài, vừa có mối liên hệ bản chất, vừa có mối liên hệ không bản
chất, vừa có mối liên hệ trực tiếp, vừa có mối liên hệ gián tiếp …
-> Mỗi loại mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển
của sự vật. Mối liên hệ ben trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa các yếu tó, các thuộc tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ này giữ
vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ này, nói chung, không giữ vai trò
quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật
* ý nghĩa PPL:

- Trong nhận thức và cải tạo sự vật đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn diện,


+ Quan điểm này đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật, hiện tượng phải tính toán
đến các điều kiện không gian, thời gian; phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ qua lại
giữa sự vật đó với sự vật khác; phải nghiên cứu cả quá khứ, hiện tại và tương lai của
nó. Mặc dù không làm được đầy đủ hoàn toàn như vậy, nhưng phương pháp đó tránh
cho chúng ta những sai lầm đáng tiếc trong nhận thức và trong thực tiễn.
+ Song, xem xét toàn diện không phải xem xét một cách bình quân, ngang bằng
mọi mối liên hệ mà phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ; phải phân
biệt cái bên trong, tất yếu, cơ bản, chủ yếu với cái bên ngoài, ngẫu nhiên không cơ
bản, thứ yếu. Có như thế chúng ta mới nắm được thực chất sự vật cần nghiên cứu.
Tuy nhiên, để nhận thức được bản chất của sự vật, cần xem xét có trọng tâm, trọng
điểm.
- Phải chống quan điểm siêu hình, xem xét sự vật một cách phiến diện. Những
người theo chủ nghĩa xét lại trước đây cũng như hiện nay đã xa rời phương pháp
biện chứng để bám lấy phương pháp siêu hình, phân tích mọi vấn đề trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
- Vận dụng trong lĩnh vực quân sự xem xét đánh giá tình hình trước say phải
chặt chẽ, xác định vấn đề mẫu chốt từ hiện thực.
* Trình bày nguyên lí về sự phát triển?
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lí cơ bản của phép biện
chứng duy vật, nó khẳng định giữa các SVHT trong thế giới không chỉ tồn tại trong
mối liên hệ phổ biến, tác động qua lại lẫn nhau mà nó còn luôn vận động phát triển
không ngừng. Việc nghiên cứu và nắm vững nguyên lí về sự phát triển có một ý
nghĩa rất lớn trong xem xét cải tạo các sự vật hiện tượng trong hoạt động thực tiễn.
Cũng như mọi vấn đề triết học khác, phát triển cũng được xem xét dưới các góc
độ phương pháp luận và thế giới quan khác nhau, đối lập nhau: biện chứng và siêu
hình, duy tâm và duy vật.
- Quan điểm siêu hình xem xét phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần tuý

về lượng, không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính phong phú muôn vẻ về chất của
các sự vật, hiện tượng đều được xem là nhất thành, bất biến trong suốt quá trình tồn
tại của nó. Sự phát triển không nhất thiết phải có sự ra đời của cái mới, mọi thay đổi
nếu có cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín. Quan điểm siêu hình cũng xem
xét phát triển như một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co
phức tạp và nguồn gốc của nó nằm bên ngoài sự vật, hiện tượng.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng
để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện.
+ Theo quan điểm đó, vận động và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất
với nhau. Vận động chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung, không kể tính chất, khuynh
hướng hay kết quả của sự biến đổi đó. Còn phát triển phản ánh tính chất, khuynh
hướng đi lên của sự biến đổi nói chung ấy.
+ Sự phát triển có đặc tính là đi lên, có tính kế thừa nhất định, có sự lặp lại cái
cũ trên cơ sở cao hơn và tất yếu có sự ra đời của cái mới. Vận động là phương thức
tồn tại của vật chất, là đặc tính cố hữu của vật chất, gắn với mọi dạng vật chất. Sự
phát triển là một kiểu vận động đặc biệt, được đặc trưng bởi tính xu hướng, tiến lên


từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Vì
thế, không phải bất cứ sự vận động nào cũng được coi là sự phát triển.
+ Phép biện chứng duy vật khẳng định, sự phát triển của sự vật, hiện tượng là
một quá trình khách quan, là sự tự thân phát triển. Đó là một quá trình tiến lên mà
nguồn gốc, động lực của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong của sự
vật, hiện tượng; là một quá trình mà trạng thái tiến lên thông qua các bước nhảy
chuyển hoá từ lượng sang chất và ngược lại; là một quá trình tiến lên không phải
theo đường thẳng, cũng không phải theo đường vòng tròn mà theo đường “xoáy ốc”,
có thể có bước thụt lùi tạm thời, nhưng cái mới sẽ ra đời và chiến thắng. Đó là
khuynh hướng tất yếu của sự phát triển. Những quan điểm cơ bản trên đây được
trình bày trong những quy luật cơ bản, phổ biến của phép biện chứng duy vật.

Quan điểm trên đây của phép biện chứng duy vật hoàn toàn đối lập với quan
điểm duy tâm về sự phát triển. Những người theo quan điểm duy tâm thường tìm
nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức chủ quan của
con người. Đó là một phương pháp luận sai lầm nên đã bị thực tiễn lịch sử và khoa
học bác bỏ.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Phát triển, theo quan điểm
duy vật biện chứng, là quá trình tự thân của mọi sự vật, hiện tượng. Do vậy, quá trình
đó diễn ra khách quan, độc lập với ý thức con người.
+ Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển không chỉ thừa nhận tính khách
quan của sự phát triển mà còn khẳng định tính phổ biến của quá trình này. Tính phổ
biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực : Tự nhiên, xã hội và tư
duy ; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả các khái
niệm, phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển,
hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát triển. Chỉ trên cơ sở của sự
phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù mới có
thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.
+ Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn mang tính đa dạng,
phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chúng của mọi sự vật, hiện
tượng. Song, mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau.
Tồn tại ở không gian khác nhau, thời gian khác nhau, sự phát triển sẽ khác nhau.
Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các
sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi làm thay đổi chiều hướng phát
triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. Ví dụ, nói chung, ngày nay trẻ em
phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do
chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội
mang lại.
Tóm lại, tự nhiên, xã hội và tư duy đều nằm trong quá trình vận động và phát
triển không ngừng. Bản chất khách quan đó của hiện thực đòi hỏi chúng ta phải quán

triệt quan điểm phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
Nếu phát triển là một quá trình đổi mới không ngừng thì nhiệm vụ của khoa học
là phải nghiên cứu xem xét các sự vật, hiện tượng của thế giới đang vận động, biến


đổi từ dạng này qua dạng khác, từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao như thế
nào.
* ý nghĩa PPL:
- Trong nhận thức và cải tạo sự vật đồi hỏi phải có quan điểm phát triển, nghĩa là
phải phân tích khách thể trong sự vận động của nó.
-> Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận nhận thức
hiện thực, đòi hỏi chúng ta không chỉ thấy sự vật như là cái đang có, mà còn phải
nắm được khuynh hướng phát triển tương lai của nó; không chỉ thống kê được
những khuynh hướng vận động phức tạp của nó, mà còn phải khái quát và làm sáng
tỏ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo của.
->Theo đó, việc phát hiện và ủng hộ cái mới và loại trừ cái cũ đều là công việc
hết sức cần thiết trong quá trình phát triển của sự vật. Điều này hết sức quan trọng
trong thực tiễn xã hội. Vấn đề có tính quy luật là đi liền với cái mới, bao giờ cũng có
cái cũ, cái cũ có lúc nhiều hơn, mạnh hơn, thậm chí còn được che giấu. Vì thế, chỉ có
niềm tin vào sự tất thắng của cái mới chưa đủ mà phải tỉnh táo, sắc sảo phân biệt cái
mới với cái cũ, với cái giả danh là mới; phải thông qua hành động thực tiễn làm
chuyển biến tương quan lực lượng giữa cái cũ và cái mới, làm cho cái mới mạnh lên,
cái cũ suy yếu dần đi trong quá trình phát triển của sự vật.
- Phải biết phát hiện, đấu tranh ủng hộ cái mới, cái tiến bộ kiên quyết đấu tranh
xoá bỏ cái lạc hậu.
- Phải thấy được sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp, vừa mang tính
khuynh hướng chung là phát triển đi lên nhưng phải gắn với quan điểm cụ thể.
-> Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thực tế là một quá trình biện
chứng đầy mâu thuẫn. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính chất quanh co, phức
tạp của mọi quá trình phát triển. Thiếu quan điểm khoa học như trên, người ta rất dễ

bi quan, dao động khi tạm thời gặp khó khăn trắc trở trong quá trình hoạt động thực
tiễn.
- Cần phải chống định kiến cá nhân, bảo thủ, chủ quan, nóng vội hoặc nóng vội,
tả khuynh.
Câu 4. các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật OK
a) Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu
thuẫn).
* Vị trí: Quy luật này có vị trí đặc biệt quan trọng trong phép biện chứng
duy vật. Nó chỉ ra nguồn gốc và động lực vận động và phát triển của sự vật.
* Nội dung:
Phép duy vật biện chứng khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
đều có mâu thuẫn. Mâu thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất của các
mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt đối lập liên hệ,
ràng buộc với nhau tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến,
nghĩa là mâu thuẫn là vốn có của mọi sự vật hiện tượng, nó quán xuyến suốt từ
đầu đến cuối quá trình tồn tại và phát triển của sự vật. Mẫu thuẫn này được giải
quyết mâu thuẫn khác lại xuất hiện.


Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của mọi vận
động phát triển:
* Sự thống nhất của các mặt đối lập:
- Trong mâu thuẫn hai mặt đối lập luôn thống nhất với nhau. Thống nhất
của hai mặt đối lập là sự ràng buộc, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các
mặt đối lập. Bản thân sự vật hiện tượng tồn tại luôn có mâu thuẫn, do đó các mặt
đối lập chúng tồn tại không tách rời nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia
làm điều kiện tiền đề để tồn tại cho mình, không có mặt đối lập này thì không có
mặt đối lập kia
* Đấu tranh của các mặt đối lập:

- Trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự
dấu tranh giữa chúng, đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ, phủ định lẫn
nhau giữa các mặt đối lập, hai mặt đối lập này không nằm cạnh nhau mà chúng
luôn đấu tranh với nhau.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp thường diễn ra
từ thấp đến cao, gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn lại có những đặc
điểm riêng của nó.
- Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ra ở sự khác biệt
của hai mặt đối lập. Những không phải bất kỳ sự khác biệt nào của các mặt cũng
đều là mâu thuẫn. Chỉ có hai mặt khác biệt nào liên hệ hữu cơ với nhau trong
một chỉnh thể và có khuynh hướng phát triển ngược nhau thì mới hình thành
bước đầu của mâu thuẫn. Giai đoạn mâu thuẫn mới hình thành, đấu tranh đã
diễn ra, nhưng thường là ngấm ngầm khó thấy. Trong quá trình phát triển của
mâu thuẫn sự khác biệt đó biến thành đối lập, lúc này hai mặt đối lập của mâu
thuẫn đấu tranh gay gắt và quyết liệt hơn. Mâu thuẫn tiếp tục phát triển khi có
điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được
giải quyết. Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá huy, sự thống
nhất hai mặt đối lập mới được hình thành, mâu thuẫn mới xuất hiện. Mâu thuẫn
mới này lại triển khai, phát triển và được giải quyết làm cho sự vật mới luôn
luôn xuất hiện, thay thế sự vật cũ.
Chính sự đấu tranh của hai mặt đối lập đã làm cho các sự vật không thể
tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc
động lực bên trong của mọi sự vận động và phát triển.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới rất phong phú đa dạng cho nên sự
chuyển hoá của các mặt đối lập cũng rất khác nhau. Chuyển hoá của các mặt đối
lập có thể diễn ra dưới hai hình thức: mặt đối lập này bài trừ, phủ định mặt kia
hoặc cả hai mặt đối lập đều chuyển hoá thành hai mặt đối lập mới. Xét đến cùng,
cả hai hình thức chuyển hoá đều đem đến kết quả là mâu thuẫn được giải quyết,
sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
Sự thống nhât và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ biện chứng

với nhau.
- Thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh.
Những thống nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối tạm thời, vì sự vật hiện
tượng nào cũng chỉ là một chỉnh thể thống nhất tồn tại trong một thời gian nhất


định rồi biến đi, thay bằng một sự vật mới, tức là một thể thống nhất mới. Đó
chính là trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối bởi vì đấu tranh diễn ra liên
tục trong suốt quá trình tồn tại, ổn định cũng như trong lúc chuyển hoá thực hiện
các bước nhảy về chất của các sự vật hiện tượng. Đấu tranh của các mặt đối lập
là nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển, nó gắn với sự vận động tuyệt
đối của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
* Ý nghĩa: Quá trình thực tiễn phải phân tích tìm ra mâu thuẫn của sự vật,
hiện tượng và kiên quyết đấu tranh để thúc đẩy sự vật hiện tượng phát triển.
Chống tư tưởng điều hoà, thoả hiệp khi đã phát hiện ra mâu thuẫn. Trong lãnh
đạo, tổ chức xây dựng đơn vị, người cán bộ chính trị phải luôn sâu sát, nắm
vững tình hình đơn vị phát hiện ra những mâu thuẫn nảy sinh trong đơn vị để kịp
thời giải quyết, thúc đẩy đơn vị phát triển.
b) Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại.
* Vị trí: Quy luật này là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Nó vạch ra cách thức của sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng
trong thế giới.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có chất và lượng.
* Chất là phạm trù của triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự
vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, nói lên sự vật hiện tượng
đó là gì, phân biệt nó với sự vật hiện thượng khác.
Mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính nói lên một tính
chất, một đặc điểm, một khía cạnh nào đó của sự vật. Chất không phải là từng

thuộc tính riêng lẻ hay sự cộng lại đơn thuần của các thuộc tính mà sự tổng hợp
các thuộc tính đó. Các thuộc tính của sự vật, hiện tượng sàng lọc, ảnh hưởng lẫn
nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất, hữu cơ, nói lên sự vật hiện tượng đó là
gì, phân biệt với sự vật, hiện tượng khác.
Chất biểu hiện tính thống nhất, toàn vẹn của sự vật hiện tượng, nó biểu
hiện trạng thái tương đối ổn định của sự vật, làm cho sự vật còn là nó chưa biến
thành cái khác. Chất là cái vốn có và không tách rời sự vật, do đó chất là chất
của sự vật, tồn tại khách quan như sự vật.
* Lượng là phạm trù triết học dùng chỉ tính quy định vốn có cảu sự vật,
hiện tượng, biểu thị bằng số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại
lượng, trình độ quy mô phát triển của nó.
Lượng được biểu thị đặc trưng bằng con số hoặc đại lượng. Lượng có thể
xác định cụ thể, chính xác bằng các dụng cụ đo lường. Đối với các sự vật hiện
tượng phức tạp không thể diễn tả bằng những con số và đại lượng chính xác mà
phải nhận thức bằng khả năng trừu tượng hoá, VD: ý thức chính trị, năng lực
công tác của một cá nhân hay một tổ chức nào đó.
Lượng cũng có tính khách quan như chất, bởi vì sự vật hiện tượng là một
dạng cụ thể của thế giới vật chất, đều chiếm một vị trí trong không gian và đều
tồn tại trong một thời gian nhất định.


Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, tuỳ theo
mối quan hệ mà xác định đâu là chất, đâu là lượng. Có cái trong mối quan hệ
này là chất nhưng trong mối quan hệ khác là là lượng và ngược lại.
* Nội dung quy luật lượng – chất:
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng.
Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng
thống nhất giữa chất và lượng thể hiện trong một độ nhất định.
- Độ là phạm vi giới hạn mà trong đó sự biến đổi về lượng chưa làm thay
đổi căn bản về chất, sự vật còn là nó chưa biến thành cái khác. Khi giới hạn đó

bị phá vỡ, sự vật sẽ biến đổi về chất. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Giới
hạn mà ở đó xảy ra bước nhảy gọi là điểm nút.
- Phép biện chứng duy vật khẳng định: Cách thức sự vận động phát triển
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới bao giờ cũng đi từ sự biến đổi dần dần
về lượng đến một mức độ nhất định thành những thay đổi về chất, chất mới ra
đời tạo điều kiện mới, khả năng mới cho sự biến đổi về lượng.
Như vậy, sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng phải đi từ biển đổi
dần dần về lượng theo chiều tăng hoặc giảm, đến mức độ nhất định khi sự biến
đổi về lượng vượt quá giới hạn độ, bước nhảy từ chất cũ sang chất mới sẽ diễn
ra. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, nó là sự gián đoạn
trong quá trình vận động liên tục của sự vật, nhưng nó không chấm dứt sự vận
động nói chung mà chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật (Xét về thời gian:
Có bước nhảy dần dần và bước nhảy đột biến. Bước nhảy dần dần là quá trình
biến đổi liên tục của sự vật hiện tượng như người vượn tiến hoá dần dần thành
người hiện đại, bước nhảy đột biến như những vụ nổ hạt nhân; Xét về quy mô:
Có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy
làm thay đổi về chất của tất cả các mặt các bộ phận, các yếu tố tạo thành sự vật,
bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất 1 mặt, một bộ phận hay một
yếu tố nào đó của sự vật; thường thì thay đổi về chất đi từ bộ phận đến toàn bộ.
Sự quá độ lên CNXH ở nước ta đang diễn ra từ những thay đổi bộ phận để đi
đến thay đổi toàn bộ). Trong sự vật mới lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới lại
xảy ra bước nhảy mới. Cứ như thế, sự vận động của các sự vật hiện tượng trong
thế giới diễn ra lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo ra
một đường nút vô cùng vô tận, làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế
sư vật cũ.
- Quy luật lượng – chất không chỉ nói lên một chiều là sự biến đổi dần dần
về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, mà còn có chiều ngược lại, chất mới ra đời
tạo ra điều kiện mới, khả năng mới cho lượng biến đổi. Bởi vì chất mới ra đời có
quy định mới về lượng, đồng thời sự vật mới lại tồn tại trong điều kiện hoàn
cảnh mới, cho nên nó tạo ra những khả năng mới cho lượng biến đổi. Sự quy

định này được biểu hiện ở quy mô, mức độ và nhịp điệu phát triển mới của
lượng.
Tóm lại: Chất và lượng có quan hệ biện chứng với nhau, chất là mặt tương
đối ổn định, lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi mâu thuẫn với
chất cũ, phá vỡ chất cũ, chất mới được hình thành với lượng mới, những lượng


mới lại tiếp tục biến đổi đến một mức độ nhất định lại phá vỡ chất cũ đang kìm
hãm nó. Cứ như thế quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt chất và lượng tạo
nên sự vận động phát triển liên tục, từ biến đổi dần dần tới bước nhảy, rồi lại
biến đổi dần dần chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo.
* Ý nghĩa: Muốn thúc đẩy sự vật phát triển phải tích luỹ về lượng, tạo
điều kiện cho lượng biến đổi nhanh chóng để tạo ra những bước nhảy về chất
của sự vật. Chống tư tưởng bảo thủ trì trệ hoặc nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Tư
tưởng nôn nóng thường được biểu hiện ở chỗ không chú ý đến quá trình lượng
đổi cho nên trong hoạt động thực tiễn thường chủ quan, tuỳ tiện dẫn đến hiệu
quả thấp hoặc thất bại. Ngược lại tư tưởng bảo thủ, trì trệ thường được biểu hiện
ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy.
c) Quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Quy luật này nói lên khuynh hướng, con đường phát triển
các sự vật hiện tượng trong thế giới.
Các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất luôn luôn vận động và phát
triển không ngừng. Một sự vật, hiện tượng nào đó xuất hiện, tồn tại rồi mất đi,
được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác. Phép biện chứng duy vật gọi đó là
sự phủ định. Sự phủ định như thế là một yếu tố nhất thiết phải có của sự vận
động và phát triển.
Phủ định biện chứng là khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, nghĩa là
nguyên nhân của sự phủ định, của cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm ngay trong
bản thân sự vật, đó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn ngay

trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng, là một yếu tố tất yếu của sự phát triển.
Phủ định biên chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở giải
quyết những mâu thuẫn vốn có của sự vật hiện tượng, cho nên cái mới ra đời
không thể là phủ định tuyệt đối, sạch trơn với cái cũ mà là sự phủ định có kế
thừa. Cái mới ra đời trên cơ sở từ cái cũ chứ không phải từ hư vô.
* Nội dung quy luật:
Trong sự vận động vĩnh viễn của vật chất, sợi dây chuyền của những lần
phủ định là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, không có lần phủ định nào là cuối
cùng. Ở mỗi lần phủ định, sự vật mới thay thế sự vật cũ, nó không xoá bỏ sạch
trơn sự vật cũ mà có kế thừa ở sự vật cũ những gì còn phù hợp với nó, có cải tạo
nâng lên. Mặt khác trong sự vật mới lại xuất hiện thêm những đặc điểm thuộc
tính mới mà ở sự vật cũ không có. Sự phát triển của sự vật thông qua những lần
phủ định biện chứng tạo nên khuynh hướng phát triển tất yếu từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Nhưng sự phát triển của sự vật không đi theo con đường thẳng tắp hoặc
vòng tròn khép kín mà quanh co phức tạp theo con đường xoáy ốc. Bởi vì quá
trình phát triển của sự vật tuân theo các chu kỳ phủ định kế tiếp nhau. Trong một
chu kỳ phát triển của sự vật ít nhất phải qua hai lần phủ định cơ bản. Mỗi lần
phủ định là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hoá lẫn nhau của các mặt đối lập
trong bản thân sự vật, giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Mặt khẳng định thì


luôn có xu hướng duy trì sự tồn tại của sự vật cũ, mặt phủ định lại luôn có xu
hướng xoá bỏ sự tồn tại của sự vật cũ, tạo điều kiện cho sự vật mới ra đời.
+ Phủ định cơ bản lần 1: làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với
mình, đó là bước trung gian trong sự phát triển.
+ Phủ định cơ bản lần 2: làm cho sự vật mới chuyển thành cái đối lập với
sự vật cũ ban đầu, nhưng không giống nguyên cái cũ mà trên cơ sở cao hơn. Sự
phủ định cơ bản lần hai gọi là phủ định của phủ định, nó là cái tổng hợp tất cả
những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước trong cái khẳng định ban đầu

và cả trong cái phủ định lần thứ nhất, vì thế nó có nội dung phát triển toàn diện
hơn, phong phú hơn so với sự vật cũ.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển
đồng thời lại là một điểm xuất phát cho một chu kỳ phát triển mới tiếp theo.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến bộ của sự vận
động của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Sự phát triển đi lên đó không diễn
ra theo đường thẳng mà theo xoáy ốc. Hình ảnh đường xoáy ốc diễn tả được rõ
ràng tính chất biện chứng của sự phát triển, nói lên tính kế thừa, tính lặp lại, tính
tiến lên của sự vận động. Mỗi vòng mới của đường xoái ốc thể hiện tính vô tận
của sự phát triển từ thấp đến cao.
Ngoài hai lần phủ định cơ bản, thì trong một chu kỳ có thể có một số lần
phủ định trung gian quá độ, ví dụ như chu kỳ phát triển của con tằm từ: trứng –
tằm – nhộng – bướm – trứng.
Tính chất quanh co phức tạp của sự phát triển còn do tính chất quyết liệt
của cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới trong bản thân sự vật. Cái mới là cái
ra đời phù hợp quy luật phát triển của sự vật. Theo xu hướng tất yếu thì cái mới
sẽ chiến thắng cái cũ; nhưng thông thường ban đầu, cái mới còn non yếu chưa
đủ mạnh để chiến thắng cái cũ. Ngược lại cái cũ là cái lỗi thời, lạc hậu không
còn phù hợp với quy luật phát triển nhưng nó còn có khả năng sức mạnh nhất
định để chống lại cái mới, luôn tìm mọi cách ngăn cản sự ra đời, phát triển của
cái mới. Vì thế cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới diễn ra hết sức gay go
phức tạp, cái mới chưa thể xoá bỏ ngay được cái cũ, luôn bị cái cũ chống lại
quyết liệt, thậm chí cái mới có khi phải có những bước lùi tạm thời. Nhưng vì
cái mới hợp với quy luật phát triển cho nên đến một lúc nào đó tất yếu nó sẽ
chiến thắng cái cũ, xác lập sự tồn tại của mình.
* Ý nghĩa:
Trên cơ sở nhận thức đúng quy luật này, đòi hỏi trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải phát hiện ra cái mới. Có thái độ ủng hộ cái mới, kiên quyết
đấu tranh chống lại cái cũ, cái lỗi thời kìm hãm sự phát triển. Chống tư tưởng
nôn nóng, bi quan, dao động. Hiện nay trên thực tế CNRB mặc dù có những

bước phát triển mới về LLSX và có sự điều chỉnh để kéo dài sự tồn tại của mình,
nhưng CNTB không thể tự giải quyết được mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng
nó.
Mô hình CNXH ở Đông Âu và LX đã sụp đổ do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan nhưng không vì những thất bại ở một số nước XHCN mà nghi
ngờ chiều hướng phát triển của xã hội loài người.


Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa tất yếu phải thay thế hình thái
kinh tế xã hội TBCN. Đương nhiên sự quá độ từ CNTB lên CNXH là một quá
trình lâu dài, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thập kỷ đấu tranh mới giành được
thắng lợi.
Trong lúc tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, nhưng Đảng ta
vẫn khẳng định con đường, mục tiêu CNXH ở nước ta. Đó là con đường duy
nhất đúng đắn xoá bỏ được đói nghèo, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân. Chúng ta tin tưởng vào con đường XHCN ở nước ta, nhưng cũng
thấy được quá trình đi lên là quanh co, phức tạp đầy khó khăn gian khổ thậm chí
có lúc phải chấp nhận thất bại tạm thời. Song CNXH tất yếu sẽ được xây dựng
thành công ở Việt Nam.
Câu 5. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức; nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn OK
Thực tiễn là một trong những phạm trù trung tâm, nền tảng, không chỉ trong lý
luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác - Lênin. Nó không chỉ bó
hẹp trong phạm vi giải thích quá trình nhận thức, mà mang nhiều ý nghĩa về mặt thế
giới quan. Bàn về vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức, V.I. Lênin viết:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là qđiểm thứ nhất và cơ bản của lí luận
về nhận thức”.
- Trong lịch sử triết học có nhiều quan niệm về phạm trù này.
+ Chủ nghĩa duy tâm coi thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới
của con người, chứ không xem xét là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử - xã

hội. Họ phủ nhận vai trò hoạt động thực tiễn. Phoi ơ bắc coi hoạt động thực tiễn chỉ
là hoạt động con buôn bẩn thỉu.
+ Chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hoạt động vật
chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu và
không có vai trò gì đối với nhận thức của con người.
- Kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong những quan niệm về
thực tiễn của các nhà triết học trong lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen đã có quan
niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như
đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn
vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo nên một
bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói
riêng. Theo quan điểm mácxít, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục
đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
+ Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất diễn ra ngoài đầu óc con người,
song luôn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động tinh thần, tư tưởng.
-> Hoạt động thực tiễn được thực hiện thông qua việc con người sử dụng những
công cụ vật chất tác động trực tiếp vào những đối tượng làm cho chúng biến đổi theo
những mục đích nhất định.
+ Hoạt động này được thực hiện một cách tất yếu, khách quan và không ngừng
phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Vì vậy, thực tiễn bao giờ cũng là
hoạt động có mục đích và mang tính lịch sử – xã hội.


+ Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú,
song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã
hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
-> Sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là
hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới
tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và
phát triển của mình và xã hội.

-> Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội
phát triển.
-> Thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt động mà
con người tạo ra những trạng thái gần giống, giống hoặc lặp lại của tự nhiên và xã
hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Hoạt
động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc
biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
+ Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan trọng riêng,
song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong
mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò
quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt động “nguyên thuỷ” nhất và
tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất định trong đời sống của con người
và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn
và phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có
các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất
phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất của con
người. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm
cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng
đối với nhận thức.
- Theo quan điểm của triết học mác xít, thực tiễn giữ vai trò cơ bản nhất trong
việc xây dựng lý luận về nhận thức. Bởi vì, thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận),
không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp. Bàn về vai trò của
thực tiễn đối với quá trình nhận thức, V.I. Lênin viết: “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn, phải là qđiểm thứ nhất và cơ bản của lí luận về nhận thức”. Điều đó được
thể hiện những nội dung cơ bản sau:
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Con người bắt đầu quan hệ với tự nhiên
không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn, chính trong quá trình thực tiễn, cải tạo
thế giới mà nhận thức lý luận của con người mới được hình thành và phát triển. Hơn
nữa, để đáp ứng nhu cầu của mình con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động

thực tiễn, trong quá trình đó con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, các giác
quan của con người ngày càng hoàn thiện, năng lực tư duy lôgic, trí tuệ không ngừng
được củng cố và phát triển; theo đó, con người ngày càng đi sâu nhận thức thế giới,
khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc hơn tri thức của
mình. Có thể nói, thông qua thực tiễn đã xuất hiện nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng
của nhận thức; xuất hiện nhu cầu tổng kết kinh nghiệm, tìm kiếm tri thức, khái quát
lý luận của con người và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các ngành khoa học.


Trên cơ sở thực tiễn con người mới có khả năng trực tiếp tạo ra công cụ, phương
tiện phục vụ cho quá trình nhận thức - hoạt động tinh thần không thể có khả năng
trực tiếp về vấn đề đó. Với hệ thống công cụ, phương tiện ngày càng hiện đại giúp
con người có khả năng nhận thức một cách nhanh hơn, xa hơn, trong những điều
kiện khó khăn phức tạp hơn, nhận thức ngày một hiệu quả hơn.
Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc
lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện, khả năng nhận thức.
Sự tác động của con người vào thế giới khách quan diễn ra một quá trình từ việc thu
thập những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành, phân tích, tổng
hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý luận. Không có thực tiễn
thì không có nhận thức; mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay
người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính xét đến
cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
+ Thực tiễn không những là cơ sở mà còn là động lực của quá trình nhận thức.
Thông qua thực tiễn đã xuất hiện những nhu cầu vật chất, tinh thần và nhu cầu đó
ngày càng cao. Tuy nhiên, khả năng của chủ thể nhận thức luôn có hạn, điều này đã
thúc thẩy sự nỗ lực về tri thức, trí tuệ để thoả mãn nhu cầu của mình. Cùng với vấn
đề đó, thông qua thực tiễn đã tạo ra những tiền đề, điều kiện thúc đẩy quá trình nhận
thức. Với những ý nghĩa đó thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức.
Con người ngay từ khi mới xuất hiện đã bị quy định bởi nhu cầu sống. Để sống,
để tồn tại con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, đồng thời những tri thức

khoa học – kết quả nhận thức của con người chỉ có ý nghĩa đích thực khi nó được
vận dụng vào sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa
học... Với nghĩa đó thực tiễn là mục đích của nhận thức.
+ Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẩn
của chân lý. C. Mác viết: Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là
chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình.
* ý nghĩa PPL
- Trong hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn.
+ Trong nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi
sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Nếu xa rời thực
tiễn dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, quan liêu và chủ nghĩa xét lại.
+ Cần phải quán triệt tốt quan điểm thực tiễn, bởi vì quan điểm thực tiễn trong
công tác giáo dục giúp cho chủ thể nhận thức tránh được những sai lầm cực đoan
như chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa chủ quan, hoặc chủ nghĩa tương đối trong lĩnh
vực giáo dục.
- Là cơ sở đấu tranh phê phán quan điểm sai trái về vấn đề này
* Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn?
* Thực tiễn là một phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có
mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã
hội.


Bản chất của thực tiễn là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể.
Hoạt động thực tiễn là đa dạng, song có thể chia làm 3 hình thức cơ bản: Hoạt
động sản xuất vật chất, hoạt động biến đổi chính trị xã hội, hoạt động thực
nghiệm khoa học, Trong đó hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động có ý nghĩa
quyết định các hình thức khác; hoạt động biến đổi chính trị xã hội là hình thức
cao nhất; hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động đặc biệt nhằm thu nhận

những tri thức về hiện thực khách quan.
* Lý luận: với nghĩa chung nhất là sự khái quát những kinh nghiệm được
rút ra từ thực tiễn, là tổng hợp các tri thức về thế giới và được phản ánh trong
một hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật.
Lý luận là sản phẩm cao nhất của nhận thức, là những tri thức về bản chất,
quy luật của hiện thực. Là sản phẩm của quá trình nhận thức nên bản chất của lý
luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Trong quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định: thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là hoạt động tinh thần.
Do đó thực tiễn đóng vai trò quyết định đối với lý luận. Thực tiễn là cơ sở, là
động lực và mục đích của nhận thức (lý luận). Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của lý
luận. Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hoá, hiện thực
hoá, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực (Mác: Triết học gặp g/c VS như là thứ
vũ khí vật chất; g/c VS gặp triết học như là thứ vũ khí tinh thần).
- Lý luận có sự tác động trở lại đối với thực tiễn:
+ Lý luận có vai trò trong việc xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt
động thực tiễn, vì thế có thể nói lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn.
+ Lý luận có vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động
thực tiễn có hiệu quả hơn. Đối với lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong thực
tiễn cách mạng, Lê nin viết "không có lý luận cách mạng thì không thể có phong
trào cách mạng".
- Giữa lý luận và thực tiến có sự liên hệ, tác động qua lại, tạo điều kiện
cho nhau cùng phát triển. Bởi vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
nguyên lý cao nhất, căn bản nhất của triết học Mác - Lê nin.
Lý luận gắn liền với thực tiễn "Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận
suông, thực tiễn mà không có lý luận là thực tiến mù quáng" (HCM).
* Ý nghĩa:
- Không được đề cao thực tiễn, hạ thấp vai trò của lý luận (rơi vào chủ
nghĩa thực dụng, kinh nghiệm), không được đề cao lý luận xa rời thực tiễn (rơi
vào bệnh chủ quan, duy ý chí).

- Đổi mới tư duy trong sự gắn liền với hoạt động thực tiễn là một trong
những chủ trương lớn hiện nay của Đảng ta. Chỉ có đổi mới tư duy lý luận, gắn
với thực tiễn thì mới có thể nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan và trên
cơ sở đó đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn trong công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta hiện nay.
Câu 6a. Quy luật QHSX phù hợp với tính chất trình độ phát triển của
LLSX OK


Bằng sự kế thừa có chọn lọc tất cả những thành quả về triết học xã hội của các
bậc tiền bối, bằng những công trình nghiên cứu tỉ mỉ về quá trình lịch sử loài người,
nhất là lịch sử xã hội tư bản, C. Mác đã xây dựng nên học thuyết về HTKT – XH nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Duy vật lịch sử và cũng là một trong những nội dung
cơ bản của toàn bộ chủ nghĩa Mác. Luận điểm quan trọng nhất trong lý luận quan hệ
kinh tế xã hội của Mác, chính là luận điểm về sự thay thế lẫn nhau giữa các hình thái
kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Nghĩa là sự vận động thay thế lẫn nhau
giữa các hình thái kinh tế xã hội luôn luôn tuân theo quy luật KQ vốn có của nó
không lệ thuộc vào ý chí con người Trong hệ thống quy luật ấy thì quy luật QHSX
phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, giữ vai
trò quyết định suy đến cùng. Nhận thức đúng nội dung cơ bản của quy luật này
không những có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa to lớn về mặt thực
tiễn nhất là thực tiễn đổi mới theo định hướng XHCN nước ta hiện nay.
* Nội dung quy luật: LLSX và QHSX là hai mặt của quá trình sản xuất vật chất
của xã hội. Sự thống nhất biện chứng giữa LLSX và QHSX trong đó QHSX luôn phù
hợp với tính chất, trình độ phát triển của LLSX, đồng thời lại có vai trò to lớn tác
động trở lại lực LLSX theo những chiều hướng và mức độ khác nhau vừa là yêu cầu
khách quan vùa là động lực phát triển của mọi nền sản xuất xã hội.
- Mọi nền sản xuất xã hội để phát triển được đều đòi hỏi sự thống nhất (phù
hợp) giữa LLSX và QHSX.
+ QHSX là quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực quan hệ sản xuất vật
chất của xã hội. Nó bao gồm quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu

TLSX, trong tổ chức và phân công lao động xã hội và sự phân chia của cải lao động
sản xuất, trong đó quan hệ giữa người ta với nhau đối với tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội là giữ vai trò quyết định nhất suy đến cùng đối với tất cả mối quan hệ còn
lại.
+ LLSX là quan hệ giữa con người với thiên nhiên, phản ánh trình độ chinh
phục tự nhiên của con người đó là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động (với kỹ
thuật, kỹ xảo, kỹ năng lao động của họ) và TLSX, công nghệ sản xuất dặc biệt là
công cụ sản xuất. Trong đó người lao động luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong
LLSX của các XH.
+ Tính chất của LLSX là tính chất xã hội hoá hay tính chất tự nhiên của công cụ
lao động và sản phẩm lao động. Còn nói đến trình độ của LLSX là người ta nói đến
trình độ của người lao động và công cụ lao động.
+ Sự thống nhất giữa LLSX và QHSX thể hiện ở chỗ chúng đều là hai mặt của
một quá trình thống nhất không thể tách rời nhau đó là quá trình sản xuất vật chất
của xã hội. Trong quá trình áy LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức xã hội của
sản xuất, thiếu một trong hai mặt này thì xã hội không thể sản xuất được, chính vì
vậy chủ trương tách rời LLSX với QHSX để đẩy QHSX đi trước một bước như
chúng ta trước đây từng quan niệm là một sai lầm. Cũng cần phải lưu ý rằng sự
thống nhất giữa LLSX và QHSX là sự thống nhất trong một quan hệ kép: Theo đó,
trước hết các yêu tố cấu thành QHSX cũng như các yếu tố cấu thành LLSX phải
thống nhất (phù hợp) với nhau. Sau đó QHSX phải phù hợp với tính chất trình độ
của LLSX.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×