Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Tình hình Dịch vụ Du lịch Vịnh Hạ Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.7 KB, 49 trang )

Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ VỊNH HẠ LONG
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về du lịch
- Du lịch: Từ Du lịch (Tourism) được xuất hiện sớm nhất trong quyển Từ điển
Oxford xuất bản năm 1811 ở Anh, có hai ý nghĩa là đi xa và du lãm.
Bên cạnh đó, Luật Du Lịch Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2006) đã nêu rõ:
- Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải
trí, nghĩ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
- Tài nguyên du lịch: là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử -
văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn
khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để
hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
- Khách du lịch: là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi
học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
- Khu du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du
lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
- Điểm du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham
quan của khách du lịch.
- Du lịch bền vững: là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại
mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai.
- Du lịch sinh thái: là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc
văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.
- Du lịch văn hóa: là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự
tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống.
- Môi trường du lịch: là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhân văn


nơi diễn ra các hoạt động du lịch.
1
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
- Chất lượng dịch vụ: là một khái niệm trừu tượng, khó nắm bắt bởi các đặc
tính riêng có của dịch vụ, sự tiếp cận chất lượng được tạo ra trong quá trình
cung cấp dịch vụ, thường xảy ra trong sự gặp gỡ giữa khách hàng và nhân viên
giao tiếp.
- Chất lượng dịch vụ du lịch: là mức phù hợp của dịch vụ của các nhà cung
ứng du lịch thỏa mãn các yêu cầu của khách du lịch thuộc thị trường mục tiêu.
1.1.2. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu
hình và vô hình, đó là tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất
kỹ thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch.
Theo Michael M. Coltman, sản phẩm du lịch có thể là một món hàng cụ thể như
thức ăn, hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu không
khí tại nơi nghỉ mát.
- Cơ cấu của sản phẩm du lịch:
+ Những thành phần tạo lực hút (lực hấp dẫn đối với du khách) gồm nhóm tài
nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn.
+ Cơ sở du lịch (Điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch) gồm cơ sở hạ
tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.
+ Dịch vụ du lịch: là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những
tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch và thông qua các hoạt động tương tác
đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung
ứng du lịch.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ du lịch
Sản phẩm du lịch trên cơ sở lý thuyết bao gồm ba thành phần cơ bản: tài nguyên
du lịch, cơ sở hạ tầng du lịch và chất lượng dịch vụ. Như vậy để đánh giá chất
lượng sản phẩm du lịch phải phân tích mối quan hệ giữa chất lượng du lịch

thông qua đánh giá của khách hàng (hay sự thỏa mãn của khách hàng) và 3 yếu
tố nêu trên.
Hai khái niệm chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn khách hàng lại cùng được
nghiên cứu, đo lường và đánh giá dựa trên việc so sánh với ý kiến của khách
hàng trước và sau khi sử dụng dịch vụ. Sự thỏa mãn khách hàng chịu tác động
bởi mức độ hài lòng về chất lượng dịch vụ trong quá trình tiêu dùng. Nói cách
2
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
khác, để đánh giá chất lượng dịch vụ hay sự thỏa mãn khách hàng, chúng ta
phải dựa trên những mức độ kỳ vọng của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ
trước khi tiêu dùng và cảm nhận của họ sau khi sử dụng.
Quan hệ giữa giá và sự thỏa mãn
Tác động của giá lên sự thỏa mãn nhận được sự quan tâm ít hơn nhiều so với
vai trò của sự kỳ vọng và các cảm nhận sau khi sử dụng sản phẩm/dịch vụ,
nhưng các đề xuất dựa vào giá đối với sự thỏa mãn được đề nghị nghiên cứu và
thực hành khá rộng rãi. Giá sau khi mua có tác động dương lên sự thỏa mãn và
bản thân nó chịu ảnh hưởng dương của các cảm nhận về giá trước khi mua, mặt
khác cảm nhận giá trước khi mua cũng có tác động dương lên sự thỏa mãn.
Mối quan hệ giữa kinh nghiệm đi du lịch; học vấn và sự thỏa mãn của du khách
Kinh nghiệm trước đó của con người có ảnh hưởng rất nhiều đến sự kì vọng của
họ. Kinh nghiệm có đuợc do học hỏi và sự từng trải, mức độ kinh nghiệm gia
tăng thì kì vọng cũng tăng theo. Tương tự vậy, khi trình độ học vấn càng cao thì
người ta càng kì vọng nhiều hơn vào chất lượng của các dịch vụ. Mặt khác, dịch
vụ nhận được là những gì mà khách hàng thực sự nhận được khi họ sử dụng
xong dịch vụ. Do dịch vụ có tính vô hình, không đồng nhất, không lưu giữ và
tiêu thụ đồng thời nên khách hàng nhận biết được dịch vụ sau khi đã so sánh với
kì vọng của mình, qua đó nhận thức về chất lượng các dịch vụ mà mình đã sử
dụng. Chính vì vậy, khi mức độ kì vọng càng cao, người ta thường có xu hướng
đánh giá về chất lượng dịch vụ khắt khe hơn những đối tượng khác.

Loại du khách ảnh hưởng đến nhân tố sự thỏa mãn
Nơi cư trú thường xuyên của du khách là cơ sở để chúng ta phân loại khách
(khách quốc tế và khách nội địa). Khoảng cách giữa nơi cư trú thường xuyên
với điểm đến du lịch là một trong những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
thỏa mãn và các nhận định khác của khách. Bởi lẽ, khi khoảng cách càng lớn thì
sự khác biệt về khí hậu, thời tiết, văn hóa, phong tục tập quán, tính cách dân
tộc…càng lớn. Do vậy du khách thường có tâm lý đánh giá cao các giá trị vật
chất - tinh thần mà đối với họ đó thật sự là những điều mới lạ.
Thu nhập du khách liên quan đến sự thỏa mãn của họ khi đi du lịch
Theo John Maynard Keynes thì quy luật tâm lý cơ bản là ở chỗ con người có
thiên hướng tăng tiêu dùng cùng với tăng thu nhập, nhưng không tăng theo cùng
một tốc độ của tăng thu nhập. Nhìn chung phần đông du khách có thu nhập cao
3
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
sẽ chi cho các dịch vụ nhiều hơn. Và khi đó họ cũng mong muốn được nhận lại
sự phục vụ có chất lượng cao. Điều này đồng nghĩa với việc gia tăng sự kì vọng,
và như vậy sự thỏa mãn sẽ khó đạt được hơn.
Mối quan hệ giữa tuổi của du khách và sự hài lòng của du khách
Mỗi một lứa tuổi mang một tâm lý đặc trưng, tức là tâm lý ở các nhóm tuổi khác
nhau là khác nhau.
Riêng đối với yếu tố “giới tính”, đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng
minh được sự khác biệt trong quá trình cảm nhận chất lượng dịch vụ giữa hai
giới nam và nữ.
1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá tài nguyên du lịch
a. Tính hấp dẫn
Tính hấp dẫn là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá tài nguyên du lịch vì nó
quyết định sức thu hút khách du lịch. Độ hấp dẫn có tính chất tổng hợp rất cao
và thường được xác định bằng vẻ đẹp của phong cảnh, sự thích hợp của khí hậu,
sự đặc sắc và độc đáo của tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Độ hấp dẫn

được thể hiện ở số lượng và chất lượng của các tài nguyên, ở khả năng đáp ứng
được nhiều loại hình du lịch.
Đối với tài nguyên du lịch tự nhiên: tính hấp dẫn du lịch là yếu tố tổng hợp và
thường được xác định bằng vẻ đẹp của cảnh quan tự nhiên, sự đa dạng của địa
hình, sự thích hợp của khí hậu, sự đặc sắc và độc đáo của hiện tượng và cảnh
quan tự nhiên, quy mô của điểm tham quan.
b. Tính an toàn
Là chỉ tiêu thu hút du khách đảm bảo sự an toàn về sinh thái và xã hội, được xác
định bởi tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, vệ sinh môi trường.
- Rất an toàn: Bảo đảm an sinh và không có thiên tai.
- Khá an toàn: Bảo đảm an sinh và thiên tai, nhưng có hoạt động bán hàng rong.
- An toàn trung bình: Có hoạt động bán hàng rong và có hiện tượng ăn xin.
- Kém an toàn: Xảy ra cướp giật, ảnh hưởng đến tính mạng của du khách.
4
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
c. Tính bền vững
Tính bền vững nói lên khả năng bền vững của các thành phần và bộ phận tự
nhiên trước áp lực của hoạt động du lịch và các hiện tượng tự nhiên tiêu cực
như thiên tai.
- Rất bền vững: Không có thành phần, bộ phận nào bị phá hoại. Khả năng tự
phục hồi cân bằng sinh thái môi trường nhanh, tài nguyên du lịch tự nhiên tồn
tại vững chắc, > 100 năm hoạt động du lịch diễn ra liên tục.
- Khá bền vững: Các thành phần hoặc bộ phận tự nhiên bị phá hoại không đáng
kể, có khả năng phục hồi nhanh, tài nguyên du lịch tự nhiên tồn tại vững chắc từ
20 - 100 năm, hoạt động du lịch diễn ra liên tục.
- Trung bình bền vững: Nếu có 1 - 2 bộ phận bị phá hoại đáng kể phải có sự trợ
giúp tích cực của con người mới hồi phục được. Thời hạn hoạt động từ 10 - 20
năm, hoạt động du lịch diễn ra bị hạn chế.
- Kém bền vững: Có 2 - 3 thành phần, bộ phận bị phá hoại nặng. Tồn tại vững

chắc dưới 10 năm, hoạt động du lịch bị gián đoạn.
d. Tính thời vụ
Thời vụ hoạt động du lịch được xác định bởi số thời gian thích hợp nhất trong
năm của các điều kiện khí hậu và thời tiết đối với sức khỏe của du khách và số
thời gian trong năm thuận lợi nhất cho việc triển khai các hoạt động du lịch.
Tính thời vụ của tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến hướng khai thác
đầu tư quy hoạch kinh doanh du lịch được đánh giá cho tài nguyên tự nhiên và
nhân văn.
- Rất dài: triển khai du lịch suốt năm.
- Khá: 200 - 250 ngày.
- Trung bình: 100 - 200 ngày.
- Kém: < 100 ngày.
e. Tính liên kết
- Rất tốt: nếu có trên 5 điểm du lịch xung quanh để thực hiện liên kết.
- Khá: 3 - 5 điểm du lịch.
- Trung bình: 2 - 3 điểm du lịch.
- Kém: chỉ có một hoặc không có điểm du lịch nào xung quanh để liên kết được.
5
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
1.1.5. Một số chỉ tiêu đánh giá cơ sở du lịch
a. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến việc khai thác các tài nguyên và phục vụ khách du lịch. Cơ
sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật du lịch được đánh giá bằng số lượng, chất lượng,
tính đồng bộ, các tiện nghi của cơ sở với các tiêu chuẩn của quốc gia.
- Rất tốt: Cơ sở hạ tầng và kỹ thuật đồng bộ, đủ tiện nghi đạt tiêu chuẩn quốc tế
> 3 sao.
- Khá: Đồng bộ, đủ tiện nghi đạt tiêu chuẩn quốc tế 1 - 2 sao.
- Trung bình: Có được một số cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật nhưng chưa

đồng bộ và chưa đủ tiện nghi.
- Kém: Còn thiếu nhiều cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật, nếu có thì chất lượng
thấp hoặc tạm thời thiếu hẳn thông tin liên lạc.
b. Sức chứa khách du lịch
Là tổng sức chứa lượng khách tại một điểm du lịch cho một đoàn khách du lịch
đến trong một ngày hợp đồng. Sức chứa khách du lịch phản ánh khả năng về
quy mô triển khai hoạt động du lịch tại mỗi điểm du lịch. Sức chứa khách du
lịch có liên quan chặt chẽ đến đặc điểm hoạt động của khách (số lượng, thời
gian), đến khả năng chịu đựng của môi trường tự nhiên, xã hội. Vì thế sức chứa
khách du lịch không phải theo xu thế càng nhiều càng tốt mà phải là càng phù
hợp càng tốt.
- Rất lớn: sức chứa trên 1000 người/ ngày .
- Khá lớn: sức chứa 500 - 1000 người/ ngày
- Trung bình: sức chứa 100 - 500 người/ ngày
- Kém: sức chứa dưới 100 người/ ngày
1.1.6. Chất lượng dịch vụ
Chất lượng dịch vụ được định nghĩa là nhận thức của khách hàng về chất lượng
dịch vụ của một hãng cụ thể nào đó dựa trên sự so sánh thành tích của hãng đó
trong việc cung cấp dịch vụ với sự mong đợi chung của khách hàng đối với tất
cả các hãng khác trong cùng ngành cung cấp dịch vụ.
6
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
Chất lượng dịch vụ được đo lường bởi sự mong đợi và nhận định của khách
hàng với 5 nhóm yếu tố:
1. Sự tin cậy (Reliability): khả năng cung ứng dịch vụ đúng như đã hứa với
khách hàng.
2. Sự đáp ứng (Responsiveness): sự mong muốn và sẵn sàng của nhân viên
trong việc cung ứng dịch vụ nhanh chóng
3. Năng lực phục vụ (Assurance): thể hiện qua trình độ chuyên môn và thái

độ lịch sự, niềm nở với khách hàng
4. Sự đồng cảm (Empathy): sự phục vụ chu đáo, sự quan tâm đặc biệt đối
với khách hàng và khả năng am hiểu những nhu cầu riêng biệt của khách hàng
5. Yếu tố hữu hình (Tangibles): các phương tiện vật chất, trang thiết bị, tài
liệu quảng cáo… và bề ngoài của nhân viên của tổ chức du lịch.
1.1.7. Sự thỏa mãn
Sự thỏa mãn là mức độ trạng thái cảm giác của một người bắt đầu từ việc so
sánh kết quả thu được từ sản phẩm dịch vụ với những kì vọng của người đó
(Philip Kotler, 2001). Kỳ vọng được xem như là ước mong hay mong đợi của
con người. Nó bắt nguồn từ nhu cầu cá nhân, kinh nghiệm trước đó và thông tin
bên ngoài như quảng cáo, thông tin, truyền miệng từ bạn bè, gia đình...Trong đó
nhu cầu cá nhân là yếu tố được hình thành từ nhận thức của con người mong
muốn thỏa mãn cái gì đó như nhu cầu thông tin liên lạc, ăn uống, nghỉ ngơi…
Như vậy dựa vào nhận thức về chất lượng dịch vụ, có thể chia sự thỏa mãn
thành ba mức độ cơ bản khác nhau:
+ Mức không hài lòng: Khi mức độ cảm nhận được của khách hàng nhỏ hơn kì
vọng
+ Mức hài lòng: Khi mức độ nhận được của khách hàng bằng kì vọng
+ Mức rất hài lòng và thích thú: Khi mức độ nhận được của khách hàng lớn hơn
kì vọng.
1.2 Giới thiệu chung về Vịnh Hạ Long
Quảng Ninh - một trong 3 đỉnh của tam giác phát triển kinh tế phía Bắc: Hà Nội
- Quảng Ninh - Hải Phòng, là một địa danh giàu tiềm năng du lịch.Quảng Ninh
sở hữu danh thắng nổi tiếng là Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là
di sản thiên nhiên thế giới và di sản thế giới bởi giá trị địa chất địa mạo.Vịnh Hạ
7
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
Long là địa điểm du lịch lý tưởng của Quảng Ninh cũng như miền bắc Việt
Nam.

1.2.1 Lịch sử hình thành
Có thể khẳng định rằng, trang sử đá Hạ Long là hình ảnh sinh động nhất về lịch
sử địa chất của khu vực, nó ghi lại quá trình hình thành, vận động kiến tạo của
vỏ trái đất cách ngày nay 250- 270 triệu năm. Cuộc chuyển động uốn nếp
Caledonie và thuộc điệp Carbon thường và Permi tạo khu vực Đông Nam Á
thành đảo núi xen kẽ các trũng biển.Cách ngày nay 175 triệu năm cuộc vận
động tạo sơn Indossinias mạnh, nâng các trũng biển thành lục địa.Mặc dù vậy,
địa hình Vịnh Hạ Long về cơ bản vẫn không thay đổi cho tới ngày nay.Vì vậy,
Hạ Long không chỉ đẹp mà còn là bảo tàng địa chất quý giá, được gìn giữ ngoài
trời đã quá 250 triệu năm.
Bờ và trong lòng Vịnh Hạ Long chứa đựng nhiều hệ tầng trầm tích thành phần
cacbonat và lục nguyên với nhiều di tích cổ sinh vật dưới dạng hoá thạch, trong
đó có các ngành động thực vật đã bị biến mất trên trái đất. Đó là những trang sử
đá ghi lại những biến cố vĩ đại của quá trình địa chất và tiến hoá của sự sống.
Lịch sử địa chất lâu dài của Vịnh Hạ Long được biết ít nhất trên 500 triệu năm
với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, với nhiều lần tạo sơn – biến thoái,
sụt chìm - biển tiến. Khu vực Vịnh Hạ Long đã từng là biển sâu vỏo các kỷ
Odovic – Silua ( khoảng 500 – 410 triệu năm trước), là biển nông vào các kỷ
Carbon – Pecmi (khoảng 340 – 250 triệu năm trước), biển ven bờ vào cuối kỷ
Paleogen - đầu kỷ Neogen (khoảng 26- 20 triệu năm trước) và trải qua một số
lần biển tiến trong kỷ Nhân Sinh (khoảng 2 triệu năm qua).
Xen kẽ với các thời kỳ biển tồn tại là các thời kỳ lục địa.Vịnh Hạ Long đã trải
qua những thời kỳ cổ địa lý rất đặc biệt. Kỷ Carbon (khoảng 340 – 285 triệu
năm trước) là thời gian nóng ẩm của trái đất, phát triển môi trường đầm lầy thực
vật thuận lợi cho hình thành các bể than khổng lồ ở Châu Âu thì ở Vịnh Hạ
Long lại là vùng biển nông, khí hậu khô nóng để hình thành nên tầng đá vôi
dày. Trái lại, vào kỷ Trias (khoảng 240- 195 triệu năm trước) khi trái đất nói
chung, Châu Âu nói riêng có khí hậu khô nóng thì khu vực Vịnh Hạ Long là
những đầm lầy ẩm ướt với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ tích tụ
nhiều thế hệ.

Vịnh Hạ Long còn là mẫu hình tuyệt vời về cấu trúc địa chất Karst trưởng thành
trong điều kiện nhiệt đới ẩm, trải qua trên 20 triệu năm nhờ sự kết hợp đồng
thời giữa các yếu tố như tầng đá vôi rất dày, khí hậu nóng ẩm và quá trình nâng
8
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
kiến tạo chậm chạp trên tổng thể. Vịnh Hạ Long là một trong số 29 vịnh được
Câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới xếp hạng và chính thức công nhận vào
tháng 7 năm 2003.
1.2.2 Tài nguyên du lịch tự nhiên trên Vịnh Hạ Long
• Vị trí địa lý
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo nằm ở phía đông bắc Việt Nam, thuộc địa phận
Quảng Ninh có toạ độ từ 106°56’ đến 107°37’ kinh độ đông và 20°43’ đến
21°09’ vĩ độ bắc. Phía Tây và Tây Bắc Vịnh Hạ Long kéo dài từ huyện Yên
Hưng qua thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả đến hết phần biển đảo huyện Vân
Đồn; phía Đông Nam và phía Nam giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Tây Nam và Tây
giáp đảo Cát Bà ( TP Hải Phòng), phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông tiếp
giáp với Biển Đông.
Vịnh Hạ Long là một phần của đại lục Châu Á bị chìm xuống biển nơi sâu nhất
không quá 200m, với diện tích 1500 km², có 1600 đảo lớn nhỏ, trong đó có gần
1000 đảo có tên.
• Địa hình
Địa hình Hạ Long với hệ thống hang động là một kiểu đặc sắc của địa hình
Karst với những đảo núi xen kẽ giữa các trũng biển, là vùng bằng cát mặn có sú
vẹt mọc và những đảo đá vôi vách đứng. Chúng ta có thể hoàn toàn tìm thấy ở
Hạ Long những dạng địa hình rất độc đáo và có vai trò lớn đó là:
Dạng địa hình đá vôi: được hình thành cách đây 250 đến 280 triệu năm, qua quá
trình vận động tạo sơn của vỏ trái đất là phần rỡa của đại lục Châu Á chìm
xuống mặt Vịnh rộng khoảng 1500km², có hàng ngàn đảo đá và hang động kỳ
diệu. Một phần diện tích đáng kể của đảo là núi, các đảo nhỏ ngoài khơi có

ngọn cao tới 150m đến 200m, chủ yếu các đảo cấu tạo bằng đá phiến tựa những
chiếc mộc bản chạy song song với các rặng núi trong đất liền.
Địa hình bờ bãi biển: Đặc trưng địa hình là sườn thoải, cát trắng, nước biển
trong xanh. Trong đó có những biển đẹp đã được đưa vào khai thác phục vụ cho
hoạt động du lịch như: Bãi Cháy. Ti Tốp, Quan Lạn, Ba Trái Đào… với nhiệt
độ trung bình 25°c rất lý tưởng.
9
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
• Khí hậu
Khí hậu của Hạ Long nói riêng và Quảng Ninh nói chung có khí hậu tiêu biểu
của các tỉnh miền Bắc Việt Nam, mang tính chất nhiệt đới ẩm. Một năm có bốn
mùa: xuân, hạ, thu, đông. Đây là vùng biển nhiệt đới gió mùa.Mùa hạ nóng ẩm
mưa nhiều gió thình hành là gió nam.Mùa đông lạnh, khô hanh và ít mưa, gió
thịnh hành là gió đông bắc. Nhiệt độ trung bình từ 15 - 25oc, độ ẩm trung bình
hàng năm là 84%, lượng mưa hàng năm lên tới 2000-2200mm/năm, số ngày
mưa trung bình là 90 – 170 ngày. Vịnh Hạ Long có chế độ nhật triều thuần nhất
điển hình (biên độ triều từ 3, 5 – 4,0m. Độ mặn của nước biển từ 31-34, 5MT,
mùa mưa thấp hơn.
Bảng 1: Những thay đổi nhiệt độ trung bình của Vịnh Hạ Long
Tháng 3 - 4 5 - 8 9 - 10 11 - 12
Nhiệt độ TB 14 – 22
o
25 – 30
o
20 – 25
o
12 – 19
o
Vịnh Hạ Long được che chắn bởi ba phía cùng với địa hình đáy biển tương đối

bằng phẳng nên đây là vùng vịnh khá tĩnh, tần xuất lặn sóng chiếm khoảng 80 –
84%. Nhìn chung khí hậu Hạ Long khá thuận lợi cho hoạt động du lịch đặc biệt
từ tháng 4 đến tháng 11, đây là thời kỳ gió mùa nồm nam rất thuận lợi cho loại
hình du lịch biển.
• Thủy văn
Trong khu vực của Vịnh Hạ Long, lượng nước song với phù sa đổ vào biển hầu
như không có nên nước biển thường trong, có độ mặn cao, đáy cát mịn. Có thể
nói hiếm có nơi nào mặt nước lại trong xanh và đẹp tĩnh lặng như Hạ Long.
Thuỷ triều Hạ Long có chế độ nhật triều đối với biên độ lớn từ 4 – 4,5m là hiện
tượng hiếm thấy trên thế giới, tạo ra những thay đổi lớn trong ngày về diện mạo
và cảnh quan bờ, đảo. Việc lợi dụng con nước triều có thể đưa khách đi thăm
những nơi đẹp, huyền bí của Vịnh. Việc nắm vững quy luật thủy triều có thể tạo
ra những cơ hội cho hoạt động du lịch biển như: du thuyền, lướt ván, lặn biển,
tham quan đánh bắt cá của làng chài và vãn cảnh biển.
• Tài nguyên động – thực vật
Các kết quả nghiên cứu cho thấy Vịnh Hạ Long có đầy đủ các hệ sinh thái của
vùng biển nhiệt đới như: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ
10
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
sinh thái cỏ biển, hệ sinh thái rừng nhiệt đới và đặc biệt là hệ sinh thái tùng áng
đặc thù. Vịnh Hạ Long có khoảng 163 rặng san hô, thuộc 44 chi và 12 họ,
thường tập trung ở độ sâu 5-10m. Độ che phủ rạn san hô trung bình 30% nhưng
cũng có nơi lên đến 70-80% như khu vực Cống Đỏ, Bọ Hung… Rừng san hô
Vịnh Hạ Long thực sự là một cảnh sắc tuyệt đẹp, san hô dạng cảnh như san hô
cây, san hô đĩa, san hô cục… với nhiều sắc trắng lam, hồng, đỏ… Rừng san hô
đồng thời là nơi cư trú của nhiều loài sinh vật như cá 107 loài, rong, tảo, động
vật phù du, thực vật phù du… trong đó có nhiều loài cá cảnh rất đẹp. Hệ sinh
thái rừng ngập mặn tập trung chủ yếu ở khu vực Tuần Châu, Cửa Lục, Ba Chẽ
và rải rác ven bờ. Hệ sinh thái vùng nhiệt đới với số lượng loài rất phong phú

như đinh, hương, sến, táu, vàn hương phần lớn trên các đảo. Đây cũng chính là
nơi sinh sống của rất nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm như: hươu, chồn,
sóc,… đặc biệt là khỉ khoang trắng và khỉ long đỏ cùng nhiều loài khác. Ngoài
ra, Vịnh Hạ Long còn có hệ sinh thái tùng áng nhỏ ăn thông với biển Đông, là
nơi cư trú sinh sống và phát triển của vô số loài sinh vật và thực vật như: cò
biển, rong, tảo, cá tôm,… Ngoài xa khơi là nơi cư ngụ của các loài tôm, cá,
mực, bào ngư, hải sản với số lượng đánh bắt hàng năm lên tới hàng nghìn tấn.
1.2.3 Các cảnh quan nổi tiếng của Vịnh Hạ Long
Vùng di sản trên vịnh Hạ Long được thế giới công nhận (vùng lõi) có diện tích
434 km², như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía Tây), hồ Ba
Hầm (phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông), bao gồm 775 đảo với nhiều
hang động, bãi tắm. Vùng kế bên (vùng đệm), là di tích danh thắng quốc gia đã
được bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng từ năm 1962.
Khu vực biển, đảo
Các đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung
ở hai vùng chính là vùng phía Đông Nam Vịnh Bái Tử Long và vùng phía Tây
Nam vịnh Hạ Long. Theo thống kê của ban quản lý vịnh Hạ Long, trong tổng số
1.969 đảo của vịnh Hạ Long có đến 1.921 đảo đá với nhiều đảo có độ cao
khoảng 200m.
Các đảo trên vịnh Hạ Long có những hình thù riêng, không giống bất kỳ hòn
đảo nào ven biển Việt Nam và không đảo nào giống đảo nào. Đảo thì giống
khuôn mặt ai đó đang hướng về đất liền (hòn Đầu Người); đảo thì lại giống như
một ông lão đang ngồi câu cá (hòn Lã Vọng); phía xa là hai cánh buồm nâu
đang rẽ sóng nước ra khơi (hòn Cánh Buồm); rồi hai con gà đang âu yếm vờn
nhau trên sóng nước (hòn Trống Mái); đảo lại có hình tròn cao khoảng 40m
11
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
trông như chiếc đũa phơi mình trước thiên nhiên (hòn Đũa), mà nhìn từ hướng
khác lại giống như vị quan triều đình áo xanh, mũ cánh chuồn, nên dân chài còn

gọi là hòn Ông v.v.
Bên cạnh các đảo được đặt tên căn cứ vào hình dáng, là các đảo đặt tên theo sự
tích dân gian (núi Bài Thơ, hang Trinh Nữ, đảo Tuần Châu), hoặc căn cứ vào
các đặc sản có trên đảo hay vùng biển quanh đảo (hòn Ngọc Vừng, hòn Kiến
Vàng, đảo Khỉ v.v.). Dưới đây là một vài hòn đảo nổi tiếng:
- Hòn Con Cóc: nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 12 km về phía
Đông Nam, trên vùng vịnh Hạ Long. Đây là hòn núi đá rất đẹp có góc nghiêng
và hình dáng như một con cóc ngồi xổm giữa biển nước, cao khoảng 9m.
- Hòn Gà Chọi: là một trong những hòn đảo nổi tiếng trên vịnh Hạ Long, hòn
Gà Chọi (hay đôi khi gọi là Hòn Trống Mái) nằm gần hòn Đỉnh Hương ở phía
Tây Nam của Vịnh, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 5 km. Đây là cụm
gồm 2 đảo có hình thù giống như một đôi gà, một trống một mái, có chiều cao
khoảng hơn 10m với chân thót lại ở tư thế rất chênh vênh.
- Đảo Ngọc Vừng: nằm cách cảng tàu du lịch khoảng 34 km, thuộc huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh, có đặc điểm là một trong số ít đảo đất trên vùng vịnh Hạ
Long. Xung quanh đảo có nhiều bãi biển đẹp, có núi Vạn Xuân cao 182m và có
di chỉ khảo cổ thuộc văn hoá Hạ Long rộng 45.000m².Đảo Ngọc Vừng rộng 12
km², có người ở, có bến cảng cổ Cống Yên thuộc hệ thống thương cảng cổ Vân
Ðồn từ thế kỷ 11, và có di tích thành cổ nhà Mạc, thành nhà Nguyễn. Phía đông
của đảo có bãi cát dài tới hàng kilômét với cát trắng trải ra tới tận bến tàu.
- Đảo Ti Tốp: nằm trên khu vực vịnh Hạ Long cách Bãi Cháy chừng 14 km về
phía Đông. Đảo Ti Tốp có bờ dốc đứng và bãi cát trắng phẳng hình vầng trăng
nằm dưới chân.
- Đảo Tuần Châu: là một đảo đất rộng khoảng 3 km². Từ năm 2001, một con
đường lớn đã được xây dựng nối đảo với đất liền. Một tổ hợp dịch vụ vui chơi,
giải trí, quần thể khách sạn, nhà hàng và bãi tắm sang trọng được xây dựng, đưa
vào phục vụ góp phần làm thay đổi bộ mặt của Hạ Long từ năm du lịch 2003 tới
nay.
• Hang động
Những hang động tại Hạ Long, theo các nhà thám hiểm địa chất người Pháp,

khi nghiên cứu về vịnh Hạ Long đầu thế kỷ 20, khẳng định rằng hầu hết trong
12
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
số chúng đều được kiến tạo trong thế Pleistocen kéo dài từ 2 triệu đến 11 ngàn
năm trước, nằm trong 3 nhóm hang ngầm cổ, hang nền carxtơ và các hàm ếch
biển.
- Hang Sửng Sốt: hay động Sửng Sốt nằm trên đảo Bồ Hòn ở trung tâm vịnh
Hạ Long. Ðây là một hang động rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long. Vị
trí và diện tích: Hang Sửng Sốt là một hang dạng ống, nằm ở độ cao 25m so với
mực nước biển hiện tại. Diện tích khoảng 10.000m2, chiều dài hơn 200m, chỗ
rộng nhất 80m, khoảng cách lớn nhất từ nền tới trần hang xấp xỉ 20m. Hang
được chia thành 2 ngăn chính. Năm 1999, Ban Quản lý Vịnh Hạ Long đã đầu tư
tôn tạo Hang Sửng Sốt. Hệ thống đường đi, ánh sáng để du khách có thể quan
sát và cảm nhận được vẻ đẹp của những khối nhũ, măng đá trong lòng
hang.Ánh sáng được thiết kế phù hợp với kiến trúc hang đồng thời hài hoà với
ánh sáng tự nhiên từ phía cửa hang.
- Động Thiên Cung: Hang Đầu Gỗ và động Thiên Cung cách nhau chừng
100m, được thông nhau bằng những lối đi quanh co, uốn lượn dưới tán lá
rừng.Động Thiên Cung nằm ở lưng chừng đảo Canh Độc, ở độ cao 25m so với
mực nước biển. Lòng động mở ra không gian có tiết diện hình tứ giác với chiều
dài hơn 130 mét, với những măng đá như một đền đài mỹ lệ. Vách động cao và
thẳng đứng được bao bọc bởi những nhũ đá và trên mỗi vách động ấy thiên
nhiên đã khảm nhiều hình thù kỳ lạ, hấp dẫn người xem. Cửa động nhỏ hẹp
được giấu kín trong lòng núi nhưng càng đi vào bên trong, lòng động càng mở
lớn và rộng, dẫn dắt người xem đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
- Hang Đầu Gỗ: hiện các nhà khảo cổ tìm thấy rất nhiều khúc gỗ và mẩu gỗ vụn
còn sót lại trong động. Nếu động Thiên Cung hoành tráng khoẻ khoắn, hiện đại
thì hang Ðầu Gỗ trầm mặc uy nghi nhưng cũng rất đồ sộ. Cửa hang Đầu Gỗ ở
lưng chừng vách núi và trong lòng hang được chia thành 3 ngăn chính. Ngăn

phía ngoài hình vòm cuốn tràn ánh sáng tự nhiên, với trần hang như một bức
tranh khổng lồ. Phía dưới là rừng măng đá, nhũ đá nhiều màu với nhiều hình thù
tùy theo trí tưởng tượng của từng người. Chính giữa lòng hang là một cột trụ đá
khổng lồ hàng chục người ôm, từ phía dưới chân cột lên trên là những hình mây
bay, long phi phượng vũ, hoa lá, dây leo.
- Một số hang động khác: Ngoài các hang động trên, du khách còn tham quan
hàng chục hang động đẹp và quyến rũ khác như hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng
cung với nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu; hang Hanh cách thành
phố Cẩm Phả 9 km về phía tây, là một hang động đẹp và dài nhất so với các
13
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
hang động hiện có trên vịnh Hạ Long, với chiều dài 1.300m chạy xuyên suốt
dãy núi đá Quang Hanh ra tới biển; hang Trinh Nữ với tảng đá hình cô gái đứng
xõa mái tóc dài hướng ra biển, và đối diện với nó là hang Trống (hay hang Con
Trai) với bức tượng chàng trai hóa đá quay mặt hướng về phía hang Trinh Nữ;
rồi hang Tiên Long, Ba Hang, hang Luồn, động Tiên Ông, động Tam Cung,
động Lâu Đài, Ba Hầm v.v. Báo cáo của ban quản lý vịnh Hạ Long cho biết
hiện nay vẫn chưa thể thống kê hết được tất cả hang động trên 1.969 đảo.
1.2.4 Một số thành tựu của Vịnh Hạ Long
- Di sản quốc gia Việt Nam
Năm 1962, vịnh Hạ Long được Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam xếp hạng di
tích danh thắng cấp quốc gia với diện tích 1553 km² bao gồm 1969 hòn đảo.
Các đảo trong vùng vịnh Hạ Long được quy hoạch là khu bảo tồn các di tích
văn hoá-lịch sử và cảnh quan quốc gia, theo Quyết định Số 313/VH-VP của Bộ
Văn hoá-Thông tin Việt Nam ngày 28 tháng 4 năm 1962 (ADB 1999). Các đảo
này cũng có trong danh sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết định Số
194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng Chính Phủ).
Năm 1995, vịnh Hạ Long, cùng với đảo Cát Bà, được Phân viện Hải dương học

Hải Phòng đề nghị đưa vào danh sách hệ thống các khu bảo tồn biển.
Năm 1999, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB 1999) đề xuất thành lập một khu
bảo vệ có tên là Khu cảnh quan thiên nhiên vịnh Hạ Long rộng 155.300 ha, tuy
nhiên hiện nay vẫn chưa thực hiện được.
- Di sản thế giới lần 1: giá trị thẩm mỹ
Ngày 21 tháng 12 năm 1991 Chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng hồ sơ về
cảnh quan vịnh Hạ Long để trình Hội đồng Di sản Thế giới xét duyệt di sản
thiên nhiên thế giới.Năm 1993, hồ sơ khoa học về vịnh Hạ Long được hoàn tất
và chuyển đến UNESCO để xem xét. Ngày 17 tháng 12 năm 1994, trong kỳ họp
thứ 18 tại Phuket, Thái Lan, Ủy ban Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ
Long vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng toàn cầu
về mặt thẩm mĩ (tiêu chí vii), theo tiêu chuẩn của Công ước Quốc tế về bảo vệ
Di sản tự nhiên và văn hóa của thế giới.
- Di sản thế giới lần 2: giá trị địa chất địa mạo
14
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
Tháng 9 năm 1998, theo đề nghị của Ban quản lý vịnh Hạ Long và IUCN, Giáo
sư Tony Waltham, chuyên gia địa chất học trường Đại học Trent Nottingham đã
tiến hành nghiên cứu địa chất vùng đá vôi carxtơ vịnh Hạ Long. Ngày 25 tháng
2 năm 1999, sau khi nhận được báo cáo của giáo sư Tony Waltham, UNESCO
đã gửi thư tới Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Ủy ban quốc gia UNESCO
Việt Nam và Ban quản lý vịnh Hạ Long yêu cầu xúc tiến việc chuẩn bị hồ sơ
trình UNESCO công nhận về giá trị địa chất, địa mạo vùng đá vôi vịnh Hạ
Long. Tới tháng 7 năm 1999, hồ sơ trình Hội đồng Di sản Thế giới để công
nhận vịnh Hạ Long về giá trị địa chất hoàn tất và được gửi đến Trung tâm Di
sản thế giới tại Paris. Tháng 7 năm 2000, kỳ họp giữa năm của Trung tâm Di
sản thế giới tại Paris đã chính thức đề nghị Ủy ban Di sản Thế giới công nhận
vịnh Hạ Long là Di sản thế giới bởi giá trị toàn cầu về địa chất địa mạo, theo
tiêu chuẩn viii của UNESCO. Ngày 2 tháng 12 năm 2000, căn cứ Công ước

Quốc tế về bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và kết quả xét duyệt hồ
sơ địa chất vịnh Hạ Long, tại Hội nghị lần thứ 24 của Hội đồng Di sản Thế giới
tại thành phố Cairns, Queensland, Úc, Hội đồng Di sản Thế giới đã công nhận
vịnh Hạ Long là di sản thế giới lần thứ 2 theo tiêu chuẩn (viii) về giá trị địa chất
địa mạo.
- Đề cử di sản thế giới lần thứ 3
Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang xúc tiến đệ trình UNESCO công nhận Vịnh Hạ
Long là Di sản thế giới lần thứ 3, dựa trên những giá trị về khảo cổ học và đa
dạng sinh học trong vùng Vịnh.
- Bình chọn trong Bảy Kì quan Thiên nhiên Mới của Thế giới
Trong 4 năm từ 2007-2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng kết hợp với
Bộ Ngoại giao, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông, báo
Tuổi Trẻ các hội đoàn như Đoàn Thanh niên, Hội Sinh Viên v.v... cùng tỉnh
Quảng Ninh và nhiều địa phương khác, tổ chức vận động quy mô bầu chọn cho
Hạ Long là một trong Bảy Kì quan Thiên nhiên Mới của Thế giới, là một cuộc
bình chọn do Tổ chức tư nhân NewOpenWorld (NOWC). Lúc 2h ngày 12 tháng
11 năm 2011 (giờ Việt Nam), vịnh Hạ Long được tổ chức New7Wonders tuyên
bố là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới mới sau cuộc kiểm phiếu sơ
bộ.
1.3 Tiềm năng du lịch của Vịnh Hạ Long
15
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
Với các giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo, lại là trung tâm
của khu vực có nhiều yếu tố đồng dạng bao gồm vịnh Bái Tử Long phía Đông
Bắc, quần đảo Cát Bà với vịnh Cát Bà và vịnh Lan Hạ phía Tây Nam, vịnh Hạ
Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch với
loại hình đa dạng. Đến vịnh Hạ Long, du khách có thể tham gia các hoạt động
nghiên cứu khoa học, tham quan ngắm cảnh, tắm biển, bơi thuyền, thả dù, lặn
khám phá rặng san hô, câu cá giải trí. Hiện nay, khách đến vịnh Hạ Long chủ

yếu tham quan ngắm cảnh, tắm biển và bơi thuyền. Các loại hình du lịch du
thuyền tại vịnh Hạ Long bao gồm tham quan Vịnh ban ngày, đi tour buổi chiều
ngắm hoàng hôn trên Vịnh, du thuyền đêm để ngắm cảnh Vịnh về đêm kết hợp
với câu cá mực, thậm chí có thể tự chèo thuyền để khám phá Vịnh. Trong
những năm tới, ngành du lịch sẽ mở thêm nhiều tuyến điểm tham quan và tăng
thêm nhiều loại hình du lịch khác.
Quá trình đô thị hóa thành phố Hạ Long đang diễn ra mạnh mẽ về mọi mặt là
một tiền đề vững chắc để phát triển du lịch. Hiện thành phố Hạ Long có khoảng
300 khách sạn từ 1 sao đến 5 sao với 4500 phòng nghỉ và nhiều khách sạn mini
cơ bản đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. Sự tăng trưởng về số lượng
khách ở Hạ Long được đánh giá là nhanh nhất ở Việt Nam trong những năm
gần đây. Là một trong 2 vịnh biển đẹp nhất Việt Nam bên cạnh vịnh Nha Trang,
vịnh Hạ Long là nơi thường xuyên đón tiếp các tàu du lịch quốc tế chọn làm
điểm dừng tham quan.
Chương 2:
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ DU LỊCH TẠI VỊNH HẠ
LONG
2.1 Các yếu tố tạo nên chất lượng dịch vụ tại Vịnh Hạ Long
Bên cạnh các yếu tố về điều kiện tự nhiên ban tặng cho Vịnh Hạ Long, chất
lượng dịch vụ du lịch tại Vịnh Hạ Long còn phải kể đến: cơ sở hạ tầng, cơ sở
vật chất, nguồn nhân lực.
2.1.1 Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện cần thiết để phát triển du lịch có
hiệu quả.Hiện nay, cơ sở hạ tầng tại thành phố Hạ Long cũng như khu vực vịnh
là rất tốt.
- Về giao thông vận tải
16
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
Có các hình thức vận chuyển đa dạng gồm: đường sắt, đường bộ, đường biển và

đường hàng không cùng các tuyến đường được nâng cấp, xây mới có chất lượng
tốt đảm bảo phục vụ yêu cầu đi lại tham quan của du khách.
+ Đường bộ gồm các tuyến xe buýt chất lượng cao
+ Đường sắt Hà Nội – Hạ Long dài 170km xuất phát từ ga Yên Viên ((Hà Nội)
+ Đường hàng không, vào thứ 7 hàng tuần có một chuyến máy bay trực thăng
của Công ty bay dịch vụ miền Bắc, xuất phát từ sân bay Gia Lâm (Hà Nội)
+ Đường thủy, hiện nay phương tiện tàu thủy cao tốc rất được khách du lịch
quan tâm và sử dụng nhiều khi đến tham quan Hạ Long.
Trong đó các phương tiện di chuyển bằng ô tô, tàu thủy đã được khai thác phục
vụ du lịch từ rất lâu và mang lại hiệu quả rõ rệt.Trong những năm gần đây hình
thức vận chuyển khách du lịch bằng trực thăng và tàu hỏa được rất nhiều du
khách đón nhận sử dụng dịch vụ.
Tuyến tàu hỏa du lịch khởi hành từ ga Gia Lâm (Hà Nội) đến Hạ Long (Quảng
Ninh) được đưa vào hoạt động, đã được du khách hết sức quan tâm. Đây là
chuyến tàu khách chất lượng cao do công ty TNHH một thành viên vận tải
đường sắt Dongrim (Hàn Quốc) đầu tư khai thác với tổng số vốn đầu tư trên 1
triệu USD. Điều này đã mở ra cơ hội mới cho du lịch Quảng Ninh trong việc
đưa đón, thu hút du khách tham quan du lịch từ Hà Nội về Hạ Long và ngược
lại.
Bên cạnh đó, các tuyến đường chính như đường Hùng Thắng, đường Hạ Long
đã và đang được đầu tư xây dựng, nâng cấp có chất lượng tốt đảm bảo phục vụ
tốt nhu cầu đi lại tham quan của du khách. Đặc biệt, gần đây cây cầu Bãi Cháy
được xây dựng và đưa vào lưu thông đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển du lịch của thành phố cũng như của tỉnh một cách thống nhất.
- Về hệ thống điện, nước
Hiện nay hệ thống điện, nước tại Hạ Long là rất tốt và ngày càng được chú
trọng đầu tư sửa chữa và nâng cấp. Hệ thống điện ổn định, đường dây tải đảm
bảo an toàn. Hệ thống cấp thoát nước trong thành phố cũng như khu vực Vịnh
Hạ Long khá tốt với việc đảm bảo cung cấp nguồn nước sạch, đảm bảo an toàn
vệ sinh, cũng như đảm bảo xử lý và thoát nước theo đúng quy định.

17
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
- Mạng lưới thông tin liên lạc rất tốt, đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu thông
tin của khách du lịch.
Bên cạnh đó là các cơ sở hạ tầng khác như các trạm thu phí, trạm cấp cứu y tế
ven biển, ngân hàng cũng khá phát triển… nhằm phục vụ du khách tốt nhất.
2.1.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật
• Các cơ sở lưu trú
Cơ sở lưu trú là điều kiện thiết yếu không thể thiếu để đảm bảo cho hoạt động
và phát triển du lịch. Hiện nay, sự gia tăng đáng kể về số lượng du khách đến
Quảng Ninh nói chung và Vịnh Hạ Long nói riêng đã thúc đẩy sự phát triển của
các cơ sở lưu trú. Chỉ tính riêng trong vòng 10 năm trở lại đây, hàng loạt khách
sạn, nhà nghỉ, nhà khách, nhà trọ của các thành phần kinh tế, các cơ quan, tổ
chức và tư nhân lần lượt ra đời. Chiếm số lượng chủ yếu là các khách sạn mini,
các cơ sở lưu trú này đáp ứng cao nhu cầu chỗ nghỉ của du khách đặc biệt là vào
mùa cao điểm, tuy nhiên sự gia tăng ồ ạt của các khách sạn có quy mô vừa và
nhỏ này tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng thừa trong mùa thấp điểm. Do vậy, công
suất sử dụng phòng trong năm là không cao. Một số khách sạn được xếp hạng
sao cho công suất sử dụng phòng khá cao như khách sạn Hạ Long I, II, III và
Hạ Long bay đạt trên 80%, ngoài ra còn có một số khách sạn lớn khác như:
khách sạn Sài Gòn – Hạ Long, khách sạn Hạ Long – Plaza, khách sạn Bạch
Đằng, khách sạn Công Đoàn, khách sạn Vườn Đào cũng là những khách sạn có
công suất sử dụng phòng cao.
Trong những năm gần đây, tổng số khách sạn và số phòng đạt tiêu chuẩn quốc
tế không ngừng tăng.
Theo thống kê năm 2008, Hạ Long có 857 cơ sở lưu trú với 12.300
phòng.Trong đó, có 77 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1-5 sao với trên 5000 phòng.
Bảng 1: Thống kê cơ sở lưu trú tại Hạ Long theo tiêu chuẩn sao
18

Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
(Nguồn: Sở du lịch Quảng Ninh)
Số lượng cơ sở lưu trú năm 2008 tăng khá nhanh so với năm 2007. Số lượng
khách sạn đạt tiêu chuẩn 1-5 sao tăng thêm 13 cơ sở, tăng 5.7%. Số lượng
phòng lưu trú tăng 450 phòng.
Các khách sạn chủ yếu tập trung ở khu vực Bãi Cháy và một số nằm ở bên Hòn
Gai – chủ yếu nằm trên đường Lê Thánh Tông. Đây là một trong số những
thuận lợi cho phát triển du lịch của thành phố nói chung và khu vực Vịnh Hạ
Long nói riêng trong việc đáp ứng nhu cầu lưu trú của các du khách.
• Các cơ sở ăn uống
Các cơ sở ăn uống tại thành phố Hạ Long rất đa dạng. Hầu hết các khách sạn,
nhà nghỉ, nhà hàng đều phục vụ ăn uống. Ngoài ra còn có các nhà hàng, quán
ăn, quán bar, của các thành phần kinh tế, trong đó phần lớn là của tư nhân phục
vụ khách du lịch và nhân dân địa phương suốt ngày đêm.
Với những loại cơ sở dịch vụ nhà hàng ăn uống từ bình dân, đặc sản biển đến
các quán ăn Âu, Á sang trọng. Các quán ăn cao cấp tập trung phần lớn quanh
khu vực Bãi Cháy và trong các khách sạn lớn. Các quán ăn phục vụ chủ yếu các
món đồ đặc sản biển, món ăn Việt Nam.
- Nhà hàng ăn Âu, Á có quy mô tương đối lớn, chủ yếu đặt tại các khách
sạn đạt tiêu chuẩn 3-5 sao, đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
19
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Đơn vị
Năm
2007
Năm
2008
So sánh năm 2007 với
năm 2008

+/- %
1. Tổng số cơ sở lưu trú Khách
sạn
823 857 +34 1.04
2. Số phòng phòng 11.850 12.300 +450 1.03
- Khách sạn 5 sao Khách
sạn
0 1 +1 1
- Khách sạn 4 sao Khách
sạn
7 9 +2 1.3
- Khách sạn 3 sao Khách
sạn 13 16 +3 1.2
- Khách sạn 2 sao Khách
sạn
30 34 +4 1.13
- Khách sạn 1 sao Khách
sạn
15 17 +2 1.13
- Nhà nghỉ và biệt thự
tiêu chuẩn
80
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
- Nhà hàng đặc sản biển, với số lượng hàng chục nhà hàng có quy mô phục
vụ vừa và khá lớn nằm trên đường Bãi Cháy và những tuyến đường lớn của
đường phố như Lê Thánh Tông, Trần Hưng Đạo là những địa chỉ cho khách du
lịch thưởng thức những món ăn đặc sản biển của Hạ Long. Đặc biệt nhất là
chuỗi nhà hàng nổi, nhà bè nơi du khách tận mắt ngắm nhìn và thưởng thức
những món hải sản mang hương vị vùng biển Hạ Long.
- Ngoài ra, cơ sở dịch vụ ăn uống ở Hạ Long phong phú hơn bởi rất nhiều

quán ăn, quán bar, quán giải khát phục vụ ngày đêm. Trong đó, được biết đến
nhiều là “Siêu thị ốc” nơi hấp dẫn du khách vào các buổi tối.
Tuy nhiên, dù là cơ sở dịch vụ lớn hay nhỏ, phục vụ tại thời điểm nào, tất cả đều
phục vụ các món hải sản đặc trưng của một địa danh vùng biển.
• Các cơ sở vui chơi, giải trí và thể thao
Hiện nay, tại thành phố Hạ Long cũng như khu vực vịnh có rất nhiều khu vực
vui chơi – giải trí – thể thao được xây dựng để phục vụ nhu cầu của du khách
cũng như của nhân dân địa phương. Tập trung phần lớn tại khu vực Bãi Cháy
với nhiều cơ sở được đầu tư kỹ lưỡng gồm các quán bar, sàn nhảy, song bạc
casino, khu công viên (công viên Quốc tế Hoàng Gia) nằm bên bờ biển, khu du
lịch quốc tế Tuần Châu, khu chợ đêm bán hàng lưu niệm, khu vực thể thao như
moto nước, dù lượn,…
• Các phương tiện vận chuyển khách du lịch
Phương tiện vận chuyển du khách chủ yếu hiện nay là ô tô và tàu du lịch. Số
lượng phương tiện vận chuyển ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Hiện
nay, thành phố có khoảng trên 427 tàu du lịch các loại phục vụ khách tham quan
Vịnh Hạ Long, trong đó có 109 tàu có cơ sở lưu trú với các phòng đạt tiêu
chuẩn chất lượng cao (số liệu thống kê năm 2008). Các phương tiện có thể đáp
ứng ở nhiều mức độ tùy theo nhu cầu của du khách về tiện nghi, trang thiết bị.
Tàu du lịch ở Hạ Long được phân loại và xếp hạng như sau:
- Loại tàu đạt tiêu chuẩn 3 sao
- Loại tàu đạt tiêu chuẩn 2 sao
- Loại tàu đạt tiêu chuẩn 1 sao
- Loại tàu đạt tiêu chuẩn tối thiểu
Tùy thuộc vào tuyến hành trình lựa chọn, thời gian tham quan trên vịnh có thể
kéo dài 4h, 6h, 8h mà du khách còn có thể lựa chọn dịch vụ lưu trú đêm trên
vịnh trên các tàu du lịch có đủ điều kiện kinh doanh.
20
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa

• Các công ty lữ hành và đại lý du lịch
Vịnh Hạ Long từ lâu được biết đến là một trong những địa điểm du lịch hấp dẫn
của đất nước với những hoạt động du lịch diễn ra sôi động.Đóng góp một phần
rất lớn vào việc quảng bá hình ảnh du lịch Vịnh Hạ Long trong nước và quốc tế
là các công ty du lữ hành và các đại lý hiện đang hoạt động rất hiệu quả. Hiện
nay, có khoảng 30 công ty lữ hành đặt trụ sở và chi nhánh hoạt động tại Hạ
Long, trong đó có nhiều công ty lữ hành và đại lý du lịch lớn, uy tín.
2.1.3 Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực luôn giữ vị trí chủ chốt trong quá trình phát triển, quy định chất
lượng phục vụ khách du lịch. Theo đánh giá mới đây của Tổng cục du lịch, hiện
nay số lao động trong lĩnh vực du lịch khoảng 850 nghìn người. Trong đó, lao
động trực tiếp là 250 nghìn người, lao động gián tiếp là 600 nghìn người. Tuy
nhiên, chỉ có khoảng 50% số lao động trong số này được qua đào tạo. Đối với
tỉnh Quảng Ninh, theo số liệu thống kê năm 2006, có khoảng 12.000 lao động
được bố trí việc làm. Trong đó, nhân lực ngành du lịch – dịch vụ là 1.200 lao
động chiếm 10%. Hiện nay, cùng với những chủ trương phát triển ngành du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, số lượng lao động phục vụ trong
ngành du lịch – dịch vụ ngày càng tăng mạnh. Không chỉ có nguồn nhân lực
trong tỉnh mà còn có một số lượng tương đối đông nguồn nhân lực từ các tỉnh
khác đến. Số lượng và cơ cấu lao động được thể hiện cụ thể ở bảng sau:
Bảng 2: Số lượng và cơ cấu lao động ngành du lịch ở Hạ Long
Năm 2007-2008
Đơn vị Năm 2007 Năm 2008
So sánh năm 2008 với năm
2007
+/- %
Tổng số lao động Người 17320 19012 +692 1.09
Trình độ chuyên
môn
Đại học và trên đại

học
Người 3520 3915 +395 1.12
Tỷ lệ so với tổng
số
% 20.3 20.6 +0.3
Cao đẳng và trung
cấp
Người 4500 5123 +623 1.13
Tỷ lệ so với tổng
số
% 26 27 +1
Nhân viên nghiệp Người 8092 8510 +418 1.05
21
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
vụ đã được đào tạo
Tỷ lệ so với tổng
số
% 47 50 +3
Trình độ ngoại ngữ
Trình độ A Người 963 1122 +159 1.16
Tỷ lệ so với tổng
số
% 6 6 0
Trình độ B Người 9625 9021 -604 -0.93
Tỷ lệ so với tổng
số
% 50 47 -3
Trình độ C Người 6359 7246 +887 1.14
Tỷ lệ so với tổng

số
% 37 38 +1
Như vậy có thể thấy tổng số lao động trong ngành dịch vụ ở Hạ Long ngày càng
tăng, trong đó số lao động có trình độ chuyên môn cao cũng ngày càng tăng.
Đây là nguồn lực dồi dào để phát triển các loại hình du lịch, đẩy ngành du lịch
trở thành ngành kinh tế chính và thành phố Hạ Long sẽ là thành phố du lịch
trong tương lai.
Hiện nay, cùng với một số lượng khá lớn nhân lực phục vụ trong ngành du lịch,
tỉnh Quảng Ninh cũng đưa ra những chủ trương chính sách khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao
nhằm phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu của du khách.
Cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch chủ yếu của tỉnh là Trường cao đẳng
Nghệ thuật và du lịch với các ngành đào tạo Việt Nam học (chuyên ngành quản
trị lữ hành – hướng dẫn), quản trị khách sạn – nhà hàng, quản lý văn hóa, quản
trị lữ hành – hướng dẫn. Góp phần quan trọng vào việc phát triển nguồn nhân
lực du lịch có chuyên môn của tỉnh, là nơi cung cấp một đội ngũ nhân viên dịch
vụ và hướng dẫn viên tốt tại khu vực du lịch Vịnh Hạ Long.
2.2 Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch và hoạt động du lịch tại Vịnh
Hạ Long
Hiện nay việc khai thác phục vụ du lịch ở Vịnh Hạ Long chỉ tập trung chủ yếu ở
những vùng ven bờ, điều này làm cho sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa
tương xứng với tiềm năng và giá trị đích thực của khu vực di sản thiên nhiên thế
giới.Khai thác và hoạt động du lịch của toàn bộ khu vực di sản mới chỉ dừng lại
ở việc phục vụ nghỉ dưỡng cho du khách, tham quan trên vịnh, khám phá hang
động.Bên cạnh đó cũng có nhưng tour du lịch được thiết kế dựa trên nhu cầu cụ
22
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
thể của du khách. Một số doanh nghiệp thiết kế những tour nghỉ đêm trên vịnh,
chèo thuyền Kayak, tham quan làng vạn chài…

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một chương trình đặc biệt nào tạo được ấn
tượng riêng trong lòng du khách như các tour chuyên nghiên cứu các di chỉ
khảo cổ, tìm hiểu nét văn hóa, phong tục tập quán của cư dân làng vạn chài
đang sinh sống trên khu vực vịnh Hạ Long, hay còn gọi là loại hình dịch vụ văn
hóa. Việc đưa ra những sản phẩm du lịch mới cùng với các dịch vụ mang đậm
yếu tố văn hóa không chỉ làm đa dạng thêm loại hình du lịch, kéo dài thời gian
lưu trú của du khách mà còn góp phần quảng bá hết cho du khách những giá trị
đặc sắc còn tiềm ẩn sâu trong lòng Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.
2.2.1 Thị trường khách du lịch đến Vịnh Hạ Long
2.2.1.1 Thị trường khách du lịch trong nước
Số lượng khách nội địa đến tham quan Vịnh Hạ Long trong những năm gần đây
đã tăng lên đáng kể. Khách nội địa đến Hạ Long bằng nhiều con đường khác
nhau, chủ yếu là khách địa phương và các vùng phụ cận, từ Hà Nội và một số
tỉnh miền Bắc. Ngoài ra còn có một số lượng không nhỏ khách du lịch đến từ
các tỉnh phía Nam và thành phố Hồ Chí Minh đi theo các tuyến du lịch đến thủ
đô Hà Nội rồi đi Hạ Long (Tour thành phố Hồ Chí Minh – Hà Nội – Hạ Long.
Khách du lịch đến Quảng Ninh trong hai năm 2007-2008 đạt từ 3-4 triệu lượt,
trong đó khách nội địa đạt trên 2 triệu lượt, chiếm khoảng 60%. Lượng khách
nội địa đến thăm Vịnh Hạ Long tăng 1.5 đến 2.5 triệu lượt, chiếm trên 50-60%
lượng khách du lịch đến Quảng Ninh, trong đó khách nội địa chiếm 42.7%.
Như vậy, có thể thấy Quảng Ninh với nhiều danh lam thắng cảnh đã thu hút
không ít du khách trong nước đến tham quan. Tuy nhiên kỳ quan thiên nhiên thế
giới Vịnh Hạ Long vẫn là điểm đến trọng điểm.
2.2.1.2 Thị trường khách du lịch quốc tế
Số lượng khách quốc tế đến Quảng Ninh trong 10 năm trở lại đây tăng lên khá
nhanh, đặc biệt trong những năm gần đây. Chỉ tính riêng lượng khách quốc tế
đến Quảng Ninh trong năm 2007 là 1.3 triệu lượt khách, đến năm 2008, lượng
khách quốc tế là 1.9 triệu lượt. Khách quốc tế đến Quảng Ninh cũng có nhiều
quốc tịch khác nhau như: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Australia,…

23
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
- Thị trường khách Trung Quốc là thị trường chiếm tỷ lệ đông nhất trong
tổng số khác, là loại khách tiêu thụ ít, thích dịch vụ rẻ. Chủ yếu sử dụng các loại
sản phẩm dịch vụ như: tham quan Vịnh Hạ Long, nghỉ biển, mua sắm. Ngày
tour trung bình khoảng 3-5 ngày.
- Thị trường khách Nhật Bản: khách du lịch Nhật Bản có mức chi tiêu cao,
đòi hỏi dịch vụ cao cấp. Thích đến những nơi có cảnh sắc đẹp, ngày tour trung
bình thường là 7 ngày. Họ chủ yếu lựa chọn các loại sản phẩm dịch vụ như: du
lịch tham quan Vịnh Hạ Long, du lịch sinh thái, du lịch tàu biển và câu cá trên
vịnh.
- Thị trường khách Hàn Quốc có sở thích gần giống khách Nhật Bản, tuy
nhiên ngày tour trung bình ngắn hơn, chỉ khoảng 3-5 ngày. Thường yêu cầu các
loại sản phẩm dịch vụ như: du lịch tham quan vịnh, du lịch sinh thái, du lịch văn
hóa – lễ hội.
- Thị trường khách Pháp: khách du lịch Pháp cầu kỳ, khá sành trong việc
lựa chọn dịch vụ du lịch. Họ thích nghỉ tại các khách sạn 3-4 sao và các kiểu
nhà nghỉ giải trí, yêu cầu chất lượng phục vụ cao. Do vậy, khách Pháp thường
thích loại hình du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái trên Vịnh Hạ
Long, du lịch mạo hiểm. Khách du lịch Pháp đặc biệt đam mê trước phong cảnh
Vịnh Hạ Long.
- Thị trường khách Mỹ: khách du lịch là người Mỹ đến tham quan Vịnh Hạ
Long chủ yếu là các cựu chiến binh, Việt kiều, thanh niên đam mê hành động,
phiêu lưu. Họ không quá chú trọng hình thức, khá dễ tính trong lựa chọn các
loại hình du lịch. Họ thích thể loại du lịch tham quan, du lịch sinh thái Vịnh Hạ
Long, môn thể thao lặn biển, thường có ngày tour khá dài, thường là 7 ngày.
Theo số liệu thống kê của Sở Du lịch Quảng Ninh, trong 6 năm (2001-2006), về
chỉ tiêu khách du lịch đạt tốc độ tăng bình quân 14%/năm; trong đó khách quốc
tế đạt tốc độ tăng bình quân 13%/năm. Nếu năm 2001, tổng lượng khách đến

Quảng Ninh chỉ đạt 1.9 triệu/năm thì năm 2006 đạt trên 3 triệu lượt khách. Tổng
doanh thu du lịch năm 2001 à 468 tỷ đồng thì năm 2006 là 1,259 tỷ đồng, tốc độ
tăng bình quân 6 năm là 27%. Lượng khách tham quan Vịnh Hạ Long trong
những năm gần đây tăng nhanh. Năm 2008, lượng khách tham quan Vịnh Hạ
Long chiếm 62% lượng khách đến Quảng Ninh. Lượng khách du lịch đạt 2.6
triệu lượt tăng 46% so với năm 2007. Trong đó, khách quốc tế đạt 1.7 triệu lượt,
tăng 6.4% so với năm 2007. Chỉ số trên cho thấy, tốc độ tăng doanh thu nhanh
hơn và cao hơn chỉ số tăng về khách du lịch. Đây là một sự chuyển biến đáng
mừng về chất lượng cho du lịch Vịnh Hạ Long nói riêng và du lịch tỉnh Quảng
Ninh nói chung.
24
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Thị Hòa
2.3 Các loại hình dịch vụ
Việc phát triển du lịch ở Vịnh Hạ Long phải căn cứ vào nhu cầu, sở thích cũng
như khả năng chi trả của các đối tượng du khách khác nhau để làm phong phú
thêm các loại hình du lịch của mình, đó là phát triển các nhóm sản phẩm; du
lịch tham quan ngắm cảnh, du lịch nghỉ biển, du lịch sinh thái biển đảo, du lịch
thể thao, du lịch mạo hiểm, du lịch văn hóa lễ hội, làng nghề, di chỉ khảo cổ, du
lịch tàu biển,…
Trên thực tế, những năm qua, hoạt động du lịch ở Vịnh Hạ Long mới chỉ phổ
biến là hình thức du lịch đại trà hay du lịch thông thường, nghĩa là du khách đến
Hạ Long cơ bản mới chỉ dừng lại ở ngắm cảnh, tắm biển, tham quan các làng
chài,… Tuy nhiên, bước đầu cho những hình thức du lịch này cũng đã tạo nên
những lợi ích kinh tế cho địa phương, bảo tồn văn hóa địa phương và ít nhiều
góp phần giáo dục môi trường cho du khách, cũng như tập thể, cá nhân tham gia
hoạt động du lịch.
Hiện nay, một số loại hình du lịch đang được nhiều du khách trong và ngoài
nước ưa thích tham quan khám phá Vịnh Hạ Long đó là:
- Du lịch tham quan: là loại hình du lịch phổ biến ở Vịnh Hạ Long. Tham

gia loại hình du lịch này, du khách có cơ hội được ngắm cảnh, tham quan các
hang động và vui chơi giải trí, tắm biển tại các bãi đảo trên vịnh.
- Du lịch chèo thuyền phao (Kayaking): đây là loại hình du lịch lãng mạn.
Một chiếc thuyền lớn sẽ đưa du khách và những chiếc thuyền nhỏ ra những
vùng biển vắng để du khách có thể tự chèo thuyền thám hiểm, khám phá những
điều mới mẻ trên vịnh.
- Du lịch văn hóa: là loại hình du lịch dành cho những du khách ham mê
văn hóa, có nhiều thời gian để tham quan, tìm hiểu hay nghiên cứu những di chỉ
khảo cổ, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể trên vịnh Hạ Long.
- Du lịch nghỉ dưỡng: Vịnh Hạ Long với không khí trong lành, mát mẻ, khí
hậu dễ chịu và phong cảnh tuyệt đẹp sẽ làm cho du khách cảm thấy thoải mái,
thư giãn và phục hồi sức khỏe sau một thời gian làm việc căng thẳng.
- Du lịch sinh thái vịnh Hạ Long: di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long
có đầy đủ các điều kiện thiên nhiên nhiệt đới, địa hình đa dạng, hệ sinh thái tự
nhiên phong phú cùng những giá trị văn hóa đặc sắc. Đây là những tiềm năng
lớn, thuận lợi để phát triển loại hình du lịch sinh thái.Đây là loại hình du lịch
tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên
không bị tàn phá để thường thức thiên nhiên, qua đó khuyến khích hoạt động
bảo vệ điểm tham quan đó. Hoạt động du lịch sinh thái theo đúng nghĩa mới chỉ
25
Phạm Thị Thanh Hoa - 1054010014

×