Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.55 KB, 23 trang )

ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ: LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Điều kiện ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.
2. Những điểm đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.
3. Những di tồn của thời kì dựng nước đối với quá trình xây dựng và phát triển của nhà nước
và pháp luật Việt Nam trong tiến trình lịch sử.
4. Các giai đoạn phát triển của chính quyền đô hộ phong kiến Trung Hoa ở Âu Lạc.
5. Nguồn và nội dung của pháp luật thời Bắc thuộc.
6. Đặc điểm của nhà nước và pháp luật Việt Nam thời Bắc thuộc.
7. Hệ quả của thời Bắc thuộc đối với quá trình xây dựng và phát triển của nhà nước và pháp
luật phong kiến Việt Nam giai đoạn độc lập tự chủ.
8. Những tư tưởng truyền thống và tư tưởng chính trị - pháp lí cơ bản của nhà nước và pháp
luật phong kiến Việt Nam.
9. Địa vị, quyền lực của vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam.
10. Bộ máy Nhà nước quân chủ quý tộc thời Lí – Trần.
11. Bộ máy Nhà nước quân chủ quan liêu chuyên chế thời Lê Thánh Tông và Minh Mệnh.
12. Bộ máy Nhà nước lưỡng đầu thời Lê – Trịnh.
13. Bản chất của nhà nước phong kiến Việt Nam.
14. Yếu tố Trung Hoa và yếu tố Đại Việt trong nhà nước phong kiến Việt Nam.
15. Thành tựu lập pháp của trong nhà nước phong kiến Việt Nam.
16. Hệ thống hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
17. Chế độ hôn nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
18. Chế độ gia đình trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
19. Chế độ thừa kế trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
20. Chế định hợp đồng trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
21. Đặc điểm pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam.
22. Đặc điểm pháp luật phong kiến Việt Nam.
23. Yếu tố Trung Hoa và yếu tố Đại Việt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
24. Đặc điểm của chính quyền và pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc.
Câu 1. Điều kiện ra đời nhà nước của người Việt cổ.
1. Quá trình phát triển kinh tế
Vào đầu thời kì Hùng Vương tương ứng với giai đoạn Phùng Nguyên, công cụ bằng đá vẫn


hoàn
toàn chiếm ưu thế vì lúc này đồng còn rất hiếm và thường để chế tác đồ trang sức. Săn bắn,
hái lượm vẫn là chủ yếu; trong trồng trọt vẫn phổ biến là làm nương rẫy.
Trải qua các giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, nhất là Đông Sơn do công cụ bằng đá dược thay
thế
dần bằng công cụ bằng đồng thau và bắt đầu xuất hiện công cụ bằng sắt, nền kinh tế bao gồm
nhiều ngành nghề càng phát triển:
-Về trồng trọt: cư dân hậu kì thời đại đồ đồng và sơ kì thời đại đồ sắt đã mở rộng địa bàn cư
trú tràn xuống chinh phục vùng đồng bằng bắc bộ và bắc trung bộ.Cây trồng chủ yếu là lúa
nước, nghề trồng rau củ, cây ăn quả tiếp tục phát triển.
-Chăn nuôi cũng được đẩy mạnh theo đà của trồng trọt
-Nghề thủ công phát triển mạnh:làm đồ gốm ngày càng theo hướng thực dụng, nghề dệt


khá phổ biến, nghề đúc đồng xuất hiện từ đầu thời Hùng Vương và đạt đỉnh cao ở giai đoạn
Đông Sơn.
Tóm lại trong khoảng 2000 năm TCN sức sản xuất và nền kinh tế thời đại Hùng Vương từ chỗ
còn mang dáng dấp kinh tế tự nhiên nguyên thủy ở giai đoạn đầu trải qua những bước phát
triển lâu dài đến giai đoạn cuối đã có những biến đổi lớn chuyển dần sang nền kinh tế sản xuất
là chủ yếu.
2.Tình hình phân hóa xã hội
Sự phát triển của sức sản xuất và kinh tế gây nên những biến đổi trong kết cấu xã hội và tạo
ra sản phẩm thặng dư trong xã hội, từ đó tác động trực tiếp đến phân hóa xã hội.
- Cuối thời Hùng Vương, những gia đình nhỏ đã ra đời và trở thành tế bào kinh tế xã hội,
sự chuyển biến từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ. Sự định hình các gia đình nhỏ đã đưa
đến những hệ quả quan trọng:
+ Gia đình nhỏ là đơn vị kinh tế, tự làm lấy mà sống không thể ỷ lại vào cộng đồng
gia đình lớn như trước kia. Điều này kích thích tinh thần và tăng năng suất lao
động, góp phần to lớn vào việc thúc đẩy nền kinh tế của xã hội phát triển.
+ Gia đình nhỏ là đơn vị kinh tế đồng thời là đơn vị tư hữu và tích tụ tư hữu.

- Sự hình thành và tồn tại bền vững của công xã nông thôn với chế độ sở hữu chung về
ruộng đất: công xã nông thôn dựa theo quan hệ láng giềng, ruộng đất tuy vẫn thuộc sở
hữu chung của công xã nhưng dược phân chia cho các thành viên công xã cày cấy và
các thành viên công xã dược quyền sở hữu sản phẩm lao động của mình. Đặc thù này
đưa đến 2 hệ quả lớn:
+ Ruộng đất trong công xã nông thôn tuy vẫn thuộc sở hữu chung nhưng được
phân phối cho các thành viên sử dụng nên đã thúc đẩy năng suất lao động, dẫn
đến sự hình thành tư hữu và tích tụ tài sản.
+ Ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản nhưng không được tư hữu hóa nên đã kìm
hãm sự phát triển của chế độ tư hữu, làm cho quá trình phân hóa xã hội diễn ra
chậm chạp và không sâu sắc.
- Về sản phẩm thặng dư trong xã hội: trong điều kiện tài nguyên phong phú, đất đai phì
nhiêu của vùng châu thổ, nhất là với công cụ bằng kim loại vào cuối thời Hùng vương,
con người có thể đạt năng suất lao động cao hơn nhiều so với trước, không chỉ làm ra
được sản phẩm đủ nuôi sống họ hàng ngày mà có cả sản phẩm để dành. Cuối thời
Hùng Vương là giai đoạn sơ kì của sự phân hóa giai cấp, trong xã hội đã hình thành các
giai tầng:
+ Thứ nhất là quý tộc: họ vốn là con cháu của các thủ lĩnh liên minh bộ lạc, tộc
trưởng thị tộc cùng gia đình họ. Họ có quyền thế tập địa vị và quyền lợi của cha
ông. Lợi dụng địa vị, chức năng mà cộng đồng trao cho mình, họ chiếm 1 phần
sản phẩm thặng dư trong xã hội, biến sự đóng góp vì lợi ích chung của cộng
đồng thành hình thức bóc lột người sản xuất…dần dần nắm trong tay nhiều của
cải và quyền lực.
+ Thứ hai là nông dân công xã nông thôn chiếm đa số trong xã hội, giữ vai trò lực
lượng sản xuất chủ yếu.
Như vậy cuối thời đại Hùng Vương sự phân hóa xã hội tuy chưa cao nhưng cùng với sự phát
triển kinh tế đã tạo nên tiền đề vật chất cần thiết cho khả năng ra đời của nhà nước.


Câu 2: Đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước của người Việt cổ.

Có 3 điểm đặc thù:
1. Nhà nước ra đời trong trạng thái phân hóa xã hội chưa tới mức độ sâu sắc như những nước
khác. Nói cách khác, nhà nước ra đời sớm, sớm cả về mặt thời gian và không gian là do 2 yếu
tố tự vệ và trị thủy-thủy lợi thúc đẩy .
- Cuối thời đại Hùng Vương, dân cư tràn xuống chinh phục các vùng đồng bằng châu thổ
của các con sông lớn và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước nên công cuộc trị thủythủy lợi giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
- Vị trí địa lí của nước ta nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự nhiên nên yếu
tố tự vệ chống lại các thế lực đe dọa từ bên ngoài ngày càng trở nên bức thiết.
- Vai trò thúc đẩy của tự vệ và trị thủy-thủy lợi được thể hiện cụ thể ở 2 mặt sau:
+ Cơ cấu tổ chức trong chế độ công xã nguyên thủy không thể đảm đương nổi
công việc lớn lao trị thủy-thủy lợi và tự vệ mà đòi hỏi phải có 1 loại cơ cấu tổ
chức mới khác hẳn, đó là nhà nước. Bởi vì nhà nước có những ưu thế cơ bản
hơn hẳn tổ chức công xã nguyên thủy: Nhà nước là cơ cấu tổ chức rộng lớn bao
trùm toàn xã hội và chặt chẽ nhất, nhà nước có biện pháp đặc trưng là cưỡng
chế, có phương tiện tổ chức và quản lí đặc trưng là pháp luật. Vì vậy nhà nước
có khả năng huy động lực lượng lớn sức người sức của và tổ chức chỉ đạo 1
cách có hiệu quả công cuộc đấu tranh để tự vệ , công cuộc trị thủy-thủy lợi.
+ Trên con đường hình thành nhà nước, các thủ lĩnh của các cộng đồng dân cư lợi
dụng địa vị, chức năng của mình để chiếm đoạt 1 phần của cải do các thành viên
đóng góp làm việc công ích thành tài sản riêng, nên việc huy động sức người
sức của tổ chức chỉ đạo đấu tranh tự vệ, trị thủy- thủy lợi trở thành cơ hội lớn
thuận lợi cho các thủ lĩnh chiếm đoạt tài sản công nâng cao địa vị, quyền hạn,
qua đó cũng thôi thúc sự ra đời sớm của nhà nước.
2. Quá trình phân hóa xã hội và hình thành nhà nước diễn ra rất chậm chạp, kéo dài hàng ngàn
năm. Nguyên nhân sâu xa và cơ bản nhất chính là chưa có chế độ tư hữu về ruộng đất.
3. Tổ chức nhà nước còn giản đơn, hình thức pháp luật còn sơ khai. Nhà nước và pháp luật
còn bảo lưu nhiều tàn dư của chế độ công xã nguyên thủy.
Theo truyền thuyết dân gian và sử sách cổ, đứng đầu nhà nước Văn Lang là Hùng Vương.
Nước Văn Lang được chia làm 15 bộ, đứng đầu mỗi bộ là lạc tướng, dưới đó là bồ chính đứng
đầu công xã nông thôn. Các danh hiệu này đã phản ánh tiến trình các quý tộc thị tộc chuyển

hóa thành các quan chức nhà nước, chức năng xã hội được chuyển hóa thành quyền lực nhà
nước.
Đến thời Âu Lạc thể chế nhà nước hiện hình rõ nét, quyền uy của vua được tăng cường. Trong
triều An Dương Vương, giúp việc cho vua vẫn có lạc hầu(tướng văn hoặc tướng võ) thay mặt
vua giải quyết công việ trong nước. Lạc tướng đứng đầu bộ, cai quản 1 đơn vị hành chính địa
phương. Bồ chính là người đứng đầu công xã nông thôn.
Pháp luật ra đời từ khi nhà nước xuất hiện. Qua sự phản ánh gián tiếp của truyền thuyết dân
gian và sử sách cổ có thể đưa ra giả thuyết nhà nước Văn Lang Âu Lạc có những nguồn gốc
và hình thức pháp luật sau:


+

+

tập quán pháp:giữ vai trò chủ đạo và phổ biến nhất. Đó là 1 số tập quán vốn có từ thời
nguyên thủy điều chỉnh nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội: quan hệ sở hữu, chiếm hữu, sử
dụng ruộng đất, quan hệ về trật tự an toàn xã hội…
pháp luật khẩu truyền: đó là ý chí của người thống trị đối với xã hội. Hình thức pháp luật
khẩu truyền thường được dùng để giải quyết những vụ việc cụ thể hoặc đột xuất như
thăng quan bãi chức, xử tội…

Câu 3: Những di tồn của thời kỳ dựng nước đến quá trình phát triển của nhà nước và
pháp luật phong kiến Việt Nam
Chính những điều kiện về kinh tế, dân cư, thể chế nhà nước đã dẫn đến sự di tồn
1. Nhà nước:
- Tính giai cấp chưa rõ => tính dân tộc – xã hội chưa cao
- Chức năng: Trị thủy, chống giặc ngoại xâm
- Tự quản: công xã nông thôn
- Cấu trúc nhà nước tập quyền

- Tâm lý pháp luật, tâm lý quyền lực nhà nước: luôn hướng tới cải thiện tư cách của
người cầm quyền
2. Pháp luật:
- Nguồn: tập quán, pháp lệnh, khẩu lệnh
- Tôn trọng tập quán
- Chưa có pháp luật thành văn
Câu 4: Các giai đoạn phát triển của chính quyền đô hộ phong kiến Trung Hoa ở Âu Lạc.
Câu 5: Nguồn và nội dung của pháp luật thời Bắc thuộc.
Câu 6: Đặc điểm của nhà nước và pháp luật thời kỳ Bắc thuộc.
+ Có hai hệ thống chính quyền hoặc đan xen tồn tại hoặc song song tồn tại trong
các thời gian lịch sử khác nhau (đây là đặc điểm lớn nhất) hệ thống chính quyền
chủ đạo là hệ thống chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc, hệ thống chính
quyền tự chủ người chỉ tồn tại trong những khoảng thời gian ngắn như: chính
quyền Hai Bà Trưng, Lý Bí…
+ Hệ thống chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc chỉ là bộ phận của bộ
máy nhà nước phong kiến Trung Quốc, đó là các cấp chính quyền địa phương
của bộ máy nhà nước phong kiến Trung Quốc chư không phải là một hệ thống
chính quyền có cơ cấu hoàn chỉnh chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương.
+ Mô hình tổ chức chính quyền địa phương của nhà nước phong kiến Trung
Quốc được du nhập vào Việt Nam và tồn tại trong hơn 10 thế kỷ nhưng nó được
thiết lập trên một nền tảng kinh tế - xã hội thấp kém. chính điều này đã làm cho
tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam thời kỳ này có tính vượt trước so với hạ
tầng kinh tế xã hội.
+ Trong hơn 10 thế kỷ bắc thuộc người việt đã xoá bỏ được cơ cấu vùng bộ lạc
trước kia giữ lại và cũng cố cơ cấu làng xóm cổ truyền đồng thời thích nghi dần
với cơ cấu tổ chức quận huyện của chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc


Đặc điểm của pháp luật nước Việt Nam thời kỳ bắc thuộc
+ Có hai hệ thống pháp luật cùng song song tồn tại đây là đặc điểm lớn nhất của

thời kỳ này vì điều kiện hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ nên người hán duy trì tối
đa luật tục của người việt để cai trị người việt để giảm bớt sự chống đối của
người việt ( sở dĩ có điều này là do xuất phát từ chính lợi ích của người hán.)
+ Hệ thống pháp luật đô hộ phong kiến Trung Quốc chủ yếu điều chỉnh các lĩnh
vực: hành chính, tài chính, hình sự , thuế khoá, phạm vi không gian tác động của
luật pháp đô hộ phong kiến Trung Quốc rất hạn chế chỉ nhũng nơi trung tâm,
nơi đóng đồn trú và vùng phụ cận còn những nơi vùng sâu vùng xa hải đảo thì
hầu như không tác động
Hệ quả của thời kỳ bắc thuộc
+ Cách tổ chức bộ máy nhà nước trở thành khuôn mẫu để các triều đại phong
kiến việt nam tổ chứ bộ máy nhà nước của mình sau này
+ Hệ thống pháp luật phong kiến Trung Quốc cũng trở thành khuôn mẫu cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật phong kiến việt nam sau này
+ Tư tưởng chính trị pháp lý nho giáo của nhà nước phong kiến Trung Quốc
truỳen bá vào âu lạc và đã thâm nhập vào các các tầng lớp cư dân người việt ở
mức độ nhất định (đây chính là cơ sơ lịnh sử để đặt nền tảng cho nho giáo trở
thành tưng tuởng chính trị chủ đạo trong thời kỳ này)
+ Thời kỳ bắc thuộc là thời kỳ lịch sử lâu dài để hình thành một tâm lý pháp luật
truyền thống là tư tưởng trọng lệ hơn trọng luật.
Câu 7: Hệ quả của thời Bắc thuộc đối với quá trình xây dựng và phát triển của nhà nước
và pháp luật phong kiến Việt Nam giai đoạn độc lập tự chủ.
Sau khi Triệu Đà đánh bại của An Dương Vương năm 179 trc.CN, nước ta rơi vào thời kỳ đen
tối nhất trong lịch sử-thời kỳ Bắc thuộc. Đến tận năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán
trên sông Bạch Đằng, xác lập nền độc lập dân tộc, chấm dứt hơn 10 thế kỷ đô hộ của các triều
đại phong kiến Trung Hoa. Trong suốt hơn 10 thế kỷ đô hộ nước ta, thời kỳ này đã để lại những
hệ quả của nó đối với cả nhà nước và pháp luật của nước ta thời kỳ độc lập.
1. Hệ quả đối với nhà nước
a. Kinh tế
- Trong thời kỳ Hùng Vương, lực lượng sản xuất kém phát triển, công cụ lao động còn sơ khai,
nền kinh tế chủ yếu trồng lúa nước, đời sống kinh tế chưa phát triển , vẫn còn những tàn dư

còn sót lại của chế độ công xã thị tộc. Hình thức sở hữu: công hữu đối với TLSX.
- Thời kỳ Bắc thuộc đã áp đặt quan hệ sản xuất phong kiến vào Âu Lạc, tức là đã áp đặt chế độ
sở hữu tư nhân. Tuy nhiên QHSX PK vẫn chưa phát triển vì nó không phù hợp với trình độ của
LLSX nước ta thời bấy giờ.
Do vậy, trong xã hội tồn tại song song 2 phương thức sản xuất – PTSX PK và PTSX cổ truyền
đòng vai trò chủ đạo. → xuất hiện mầm mỗng PTSX PK → cơ sở xây dựng nền kinh tế nông
nghiệp PK sau này.
b. Xã hội


- Mầm mống sản xuất phong kiến : bộ phận, tầng lớp có tiềm năng kinh tế phát triển : cửu
tộc, lệnh tộc, hào trưởng. So với thời kỳ Hùng Vương, các giai cấp đã hình thành : g/c thống trị
và g/c bị trị → LLSX cho nhà nước độc lập dân tộc đã hình thành.
- Hạn chế : tầng lớp Cựu tộc, lệnh tộc đã PK hóa, họ có uy tín và đóng góp lớn cho phong trào
dân tộc nhưng nó cũng ẩn chứa những hiểm hoak → mầm mống của tình trạng cát cứ “loạn 12
sứ quân” sau này.
c. Bộ máy nhà nước
Trong hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc đã xây dựng một chính quyền đô hộ theo mô hình phong kiến
phương Bắc nhưng chỉ dừng lại ở cấp địa phương → cơ sở g/c thống trị thời kỳ độc lập sau
này học tập, tiếp thu, kế thừa xây dựng bộ máy nhà nước → mô hình tính chất PK vượt trội trên
nền tảng KT là mầm mống PK
- Chính quyền PK phương Bắc chưa thể can thiệp vào chính quyền cơ sở trong thực tế vì :
+ PKPB sử dụng phương thức “ Dùng người Việt để trị người Việt”
+ Nhân dân ta đã đấu tranh chống đồng hóa trong suốt thời kỳ này. Yếu tố tự quản, co
cụm, chống đồng hóa của các làng xã – Do vậy, sau này khi muốn can thiệp vào địa
phương rất khó buộc NNPKVN thời kỳ độc lập phải trao “yếu tố tự trị” cho các làng xã
nên việc áp đặt ý chí của nhà nước đối với làng xã rất hạn chế - c/s dung hòa nhà nước
với làng xã.
d. Chế độ quan lại
Chính quyền có thể thay đổi tên gọi nhưng đều xây dựng trên nguyên tắc “Tôn quân quyền” và

nguyên tắc “chính danh” → đó là lý do giải thích tại sao mà bộ máy NNPK VN thời kỳ độc lập lại
sớm hoàn thiện (TK XI – nhà Lê) hơn so với việc hoàn thiện bộ máy NNPK Trung Hoa (đến tận
thời nhà Đường).
2. Hệ quả đối với pháp luật
Duy trì 2 nguồn luật
- Luật Việt: giai đoạn đầu nhà Triệu là nhà nước cát cứ của Tần, Hạ cho đến Triệu Đà đã dùng
phương thức “ Dùng người Việt để trị người Việt” → các nhà nước PKPB đã sử dụng luật Việt
để cai trị
- Luật Hán: nhà Hán đã thực hiện chính sách đồng hóa, thực hiện việc dùng luật Hán với người
dân Âu Lạc đã khiến nhân dân ta oán giận, chống đối lại, nảy sinh tâm lý pháp luật “trọng lệ
hơn trọng luật”, bàng quang với luật Hán, nhưng cũng nhờ đó đã xuất hiện 1 hình thức pháp
luật trước đây chưa từng có là VBQP PL
→ Các nhà nước PKVN thời kỳ độc lập sau này đã có sự tiếp thu, chon lọc những ưu điểm của
các nhà nước PKPB.
* Ưu điểm :
- Luật Hán là luật thành văn nên nó đã đưa vào nước ta kỹ thuật xây dựng pháp luật thành văn
(VBQP PL). Đây là sự tiếp thu có hcọn lọc và sáng tạo được sử dụng ở các nhà nước PKVN
sau này. Đó là hình thức các văn bản luật như : Bộ luật, lệnh, chiếu, chỉ.
- Thừa nhận luật Việt là các tập quán điều chỉnh những vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội
vì nó gần gũi với đời sống người dân, lại có từ lâu đời nên đã chống lại được sự áp đặt của
PLPK Trung Hoa. → Trên cơ sở đó, các nhà nước độc lập sau này đã ban hành pháp luật thực
định và thừa nhận các tập quán pháp → có sự kết hợ luật và lệ.
(lệ : có phạm vi hẹp, phù hợp với đời sống xã hội, gần gũi với người dân nhưng hiệu lực pháp


lý kém, bị hạn chế)
* NGUYÊN NHÂN :
Tại sao lại có các hệ quả của thời kỳ Bắc thuộc đối với nhà nước và pháp luật phong
kiến Việt Nam sau này:
- Do thời gian bị đô hộ quá dài (hơn 10 thế kỷ-từ năm 179 tr.CN đến năm 938)

- Trước khi bị thực dân phương Bắc đô hộ, chính trị pháp lý của người Việt rất đơn giản, sơ
khai.
- Phù hợp với ý chí của người Việt.
- Tính cởi mở của người cầm quyền - đánh Hán rồi học Hán rồi chống Hán, có sự phân biệt văn
minh Hán với người Hán.
Vở ghi: Về nhà nước:
- Mô hình: hoàng đế 1 người
- Ở trung ương: vua, quan lại, phương thức điều hành, nguyên tắc tập quyền, quan chế,
quân đội
- Ở địa phương: Bộ máy hành chính nhà nước
- Tư tưởng chính trị pháp lý đạo giáo, nho giáo, phật giáo
Câu 8: Những tư tưởng truyền thống và tư tưởng chính trị - pháp lí cơ bản của nhà nước
và pháp luật phong kiến Việt Nam.
Câu 9: Địa vị và quyền lực của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam. (trang 67
giáo trình)
Đứng đầu bộ máy nhà nước, thâu tóm mọi quyền hành bao gồm cả thế quyền và thần quyền.
Nhà vua giữ vị trí là chủ sở hữu tối cao toàn bộ đất đai, tài nguyên khoáng sản trong cả nước.
Để khẳng định điều này, nhà vua là người duy nhất có toàn quyền thu thuế ruộng đất; cũng
như trong việc phong cấp, thu hồi đất đai, ban phát tài sản…..
Chính quyền lực cao nhất về kinh tế đã khẳng định các quyền lực cao nhất của vua trong việc
điều hành, quản lý nhà nước mà không có 1 chức vụ quan lại nào trong bộ máy nhà nước có
đặc quyền ấy.
Về mặt chính trị, nhà vua nắm trong tay cả ba quyền : Lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong lĩnh vực lập pháp, là người duy nhất có thẩm quyền ban hành luật. Nhà vua là nguồn gốc
của pháp luật , ý chí của nhà vua dù thể hiện qua văn bản hay khẩu truyền đều trở thành pháp
luật.
Trong lĩnh vực hành pháp, đóng vai trò là người đứng đầu nền hành chính quốc gia. Vua là
người quy định chức năng, nhiệm vụ, bổ nhiệm, bãi miễn, điều động tất cả các chức quan từ
trung ương đến địa phương; là người đưa quyết định cao nhất và cuối cùng về quản lý hành
chính nhà nước. Thông qua toàn bộ hệ thống quan lại do mình trực tiếp bổ nhiệm và điều

động, nhà vua quản lý và điều hành được nhà nước một cách toàn diện nhất, chặt chẽ nhất.
Trong lĩnh vực tư pháp, đóng vai trò là 1 vị thẩm phán giữ quyền tài phán cao nhất. Mọi quyết
định của Hoàng đế đều có hiệu lực bắt buộc phải thi hành. Đồng thời chỉ có vua mới có quyền
đại xá, đặc xá cho tội nhân.
Về mặt quân sự, nhà vua có vai trò là tổng tư lệnh trong quân đội. Nếu như trước đây, dưới
thời Lý - Trần, quyền điều động quân đội thuộc về quan Thái uý, thì dưới triều Lê Thánh Tông,
quyền đó do nhà vua trực tiếp thâu tóm


Về mặt ngoại giao, Hoàng đế là người đại diện hợp pháp duy nhất cho quốc gia xã tắc trong
qua trình bang giao với các nước. Vua là người cử sứ thần đi nước ngoài, tiếp sứ thần các
nước và quyết định chính sách ngoại giao.
Không chỉ dừng lại ở đó, nhà vua còn nắm giữ cả thần quyền. Nhà vua nắm quyền sửa đổi
phong tục tập quán, giáo hoá dân chúng. vua nắm quyền chủ trì các lễ nghi tôn giáo, tiến hành
các lễ tế trời đất. Vua là người đứng đầu bách thần trong cả nước, có quyền phong chức tước
cho thần thánh bằng các sắc phong thần), điều động thần thánh (quy định nơi thờ cúng thần
thánh).
Ngoài thế quyền và thần quyến, nhà vua còn nắm một số các ưu quyền tuyệt đối : tên huý của
vua và một số người thân thích của vua mọi người không được nhắc tới hoặc viết tới; Những gì
thuộc về vua khi được nhắc tới phải dùng các phụ từ đặc biệt như : long, thánh, ngọc,..; Chỉ
riêng vua mới được mặc y phục màu vàng; Vua được thần thánh hoá. Những ưu quyền này
của nhà vua được nhà nước và pháp luật bảo vệ, ai vi phạm sẽ bị trừng trị.
Câu 10. Bộ máy Nhà nước quân chủ quý tộc thời Lí – Trần.
Câu 11. Bộ máy Nhà nước quân chủ quan liêu chuyên chế thời Lê Thánh Tông và Minh
Mệnh.
Câu 12. Bộ máy Nhà nước lưỡng đầu thời Lê – Trịnh.
Câu 13. Bản chất của nhà nước phong kiến Việt Nam.
Câu 14: Sự kết hợp yếu tố Trung Quốc và Đại Việt trong bộ máy nhà nước phong kiến.

Câu 15: Hệ thống hình phạt và đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt

Nam.
A. Hệ thống hình phạt:
B. Đặc điểm hình phạt:
1. Tính dã man, tàn bạo.
Trong Đại Việt sử kí toàn thư có một số ghi chép ít ỏi về PL thời Ngô Đinh tiền Lê theo đó
năm 968, Đinh Tiên Hoàng “muốn sử dụng uy chề ngự thiên hạ, bèn đặt vạc dầu lớn ở sân
triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn,
mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm”. Ngoài ra theo Tống sử thời tiền Lê, quan lại “ tả
hữu có lỗi nhỏ cũng giết đi hoặc đánh từ 100 roi đến 200 roi. Bọn quan giúp việc gì làm phật ý
cũng đánh từ 30 roi đến 50 roi…”
Đến thời Lý-Trần-Hồ hệ thống hình phạt bao gồm Ngũ hình và các hình phạt bổ sung. Hệ
thồng hình phạt trong PL Lý-Trần-Hồ được kế thừa hầu như nguyên vẹn dưới thời nhà Lê với
sự
ra đời của QTHL và sang đến thời Nguyễn thì hệ thống hình phạt cũng có cơ cấu hầu như
không thay đổi được quy định trong HVLL.
Hình phạt Ngũ hình được các triều đại PKVN áp dụng gồm:
+ Xuy
Dưới triều đại nhà Lý- Trần- Hồ thì hình phạt này chưa thấy có trường hợp nào được nói tới
nhưng nó vẫn nằm trong hệ thống hình phạt ngũ hình.
Hình phạt này được nêu rất rõ trong QTHL là có 5 bậc từ 10 đến 50 roi. Phạm nhân sẽ bị
đánh bằng roi mây nhỏ vào mông.


Trong HVLL hình phạt này không hề có sự thay đổi so với QTHL và được coi là một hình
phạt nhẹ với các cấp độ cũng là 5 bậc từ 10 roi đến 50 roi.
Với hình phạt này nhằm mục đích làm cho người phạm tội cảm thấy đau đớn, xấu hổ và
không có ý định phạm tội lần nữa, hình phạt này vừa có thể áp dụng độc lập(điều 570, 572…
QTHL) vừa có thể là hình phạt áp dụng bổ sung cùng với hình phạt tiền và biếm (điều
295,374…QTHL).
+ Trượng

Các đạo chiếu dưới triều Lý-Trần-Hồ không phản ánh trong hình phạt trượng có mấy bậc cụ
thể.
Trong QTHL quy định trượng có 5 cấp độ từ 60 đến 100 roi. Ở bộ luật này, hình phạt trượng
chỉ áp dụng đối với nam giới còn nữ giới thì được đổi thành xuy.
Còn đối với HVLL cũng quy định trượng có 5 cấp độ song hình phạt này còn được áp dụng
với cả nữ giới chỉ trừ trường hợp phạm ngoài tội thập ác, thông gian, trộm cắp thì mới được đổi
trượng thành xuy.
Hình phạt này cũng có thể là một hình phạt độc lập(điều 547,640….QTHL) hoặc cũng có thể
là một hình phạt bổ sung cùng tội lưu, đồ và biếm(điều 351,360…QTHL)
+ Đồ
Loại hình phạt này chỉ được quy định cu thể trong triều Trần Thánh Tông có 2 bậc là bậc
nặng thì người bị tội phải làm nô cày ruộng ở Tảo xã, phải cày cấy 3 mẫu ruộng công, nộp 300
thăng thóc rồi bị thích 6 chữ vào mặt, còn bậc nhẹ thì đày làm lính lao thành, thích 4 chữ vào
trán và đi phát cỏ ở Thăng Long thành, Phượng thành, bốn sương quân.
Trong QTHL đồ được quy định có 3 bậc và được phân biệt giữa nam giới và nữ giới:
- Bậc thứ nhất là dịch đinh và dịch phu. Trong trường hợp áp dụng hình phạt này thì nam giới
phải chịu 80 trượng còn nữ giới thì phải chịu 50 xuy.
- Bậc thứ hai là tượng phương fbinh và su thất tuỳ với hình phạt dành cho nam và nữ, cùng với
hình phạt này thì nam giới còn bị đánh 80 trượng bị thích vào cổ 2 chữ còn nữ giới thì bị đánh
50 xuy và cũng phải thích vào cổ 2 chữ.
- Bậc 3 là chủng điền binh dành cho nam giới và chung thất tỳ dành cho nữ giới, các hình phạt
bổ sung là nam giới bị đánh 80 trượng thích vào cổ 4 chữ và đeo xiềng, trong khi đó thì nữ giới
bị phạt 50 xuy và thích vào cổ 4 chữ.
Trong bộ HVLL được chia làm 5 bậc đồ là 1 năm với 60 trượng, 1,5 năm là 70 trượng, 2
năm là 80 trượng, 2,5 năm là 90 trượng và 3 năm là 100 trượng. Khi bị tội này người phạm tội
bị quản thúc ở Trấn họ ở và bị bắt phải làm những việc nặng nhọc từ 1 đến 3 năm và trong
suốt thời hạn này họ bị xiềng chân. Ngoài ra HVLL còn có quy định nhận đồ là đối với một số
tội sẽ được đổi từ 3 bậc lưu sang 4 năm đồ, tạp phạm bị treo cổ, chém được đổi sang 5 đồ.
+ Lưu
Hình phạt này chỉ được thấy trong đạo chiếu 1044 quy định các quan bỏ trốn thì bị xử tội

theo ba bậc lưu, hay một đạo chiếu khác cùng năm là phạt người nào coi lụa mà tham nhũng
thì bị xử lưu 10 năm. Còn ngoài ra không có đạo chiếu nào ghi cụ thể bậc trong hình phạt này
dưới các triều Lý-Trần-Hồ.
Dưới triều đại nhà Lê thì lưư gồm có 3 bậc được áp dụng cùng với suy, trượng, thích chữ
hoặc đeo xiềng tuỳ vào từng bậc cụ thể: Châu gần, châu ngoài và châu xa.
HVLL cũng chia thành 3 bậc tuy nhiên chia theo số lý tức là có 2000 lý, 2500 lý và 3000 lý
tuỳ vào từng tội.


+ Tử
Đây là mức hình phạt cao nhất trong Ngũ hình và ở các triều đại PKVN từ Lý-Trần-Hồ đến
Lê sơ rồi Triều Nguyễn đều có các hình thức tử hình là giảo và trảm, chém bêu đầu và lăng trì.
Các hình thức này đều khiến cho mọi người phạm tội đau đớn về thể xác.
Ngoài các hình phạt này thì còn có các hình phạt bổ sung như biếm tước. phạt tiền, thích
chữ, đeo xiềng, tịch thu tài sản và xung vợ con làm nô tỳ…Các hình thức này thường đi kèm
với các hình phạt trong Ngũ hình tuy nhiên cũng có trường hợp là hình phạt độc lập. Có thể
thấy rằng các hình phạt này cũng gây đau đớn về mặt thể xác cho con người như đeo xiềng
hay thích chữ đồng thời cũng làm cho họ thấy nhục nhã về mặt tinh thần.
2. Hình phạt của PLPK là chế tài chung cho mọi vi phạm thể hiện tính phổ biến của hình
phạt.
Đa số các vi phạm đều sử dụng các chế tài hình sự để áp dụng( khoảng 80% các điều luật
đều có sử dụng các chế tài hình sự để xử phạt). Chủ yếu là Ngũ hình ngoài ra còn có phạt tiền,
biếm, thích chữ…Điều đó được thể hiện rõ trong hầu hết các vi phạm PL như sau:
Quan niệm của các nhà làm luật PKVN về hình phạt có phạm vi điều chỉnh khá rộng. Các bộ
luật thường có hiệu lực áp dụng trong khoảng thời gian khá dài. Vì vậy, hầu hết các vi phạm
trong mọi lĩnh vực qhxh đều phải chịu chế tài hình sự: hình sự, dân sự, hành chính, hôn nhân
gia đình, quan chế, tố tụng, thuế, thi cử….
+Thời Ngô-Đinh-tiền Lê, như Đinh Tiên Hoàng tuyên bố “ kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc
dầu, cho hổ ăn” thì cứ bất kỳ hành vi trái phép nào sẽ đều có một kết cục xử phạt chung, dù
hành vi đó thuộc lĩnh vực dân sự, hành chính hay gia đình.

+Sang thời Lý-Trần-Hồ thì một nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hình sự là mọi hành vi vi
phạm PL đều bị trừng trị bằng hình phạt. Nguyên tắc này khiến hình phạt phổ biến ở khắp mọi
lĩnh vực của đới sống. Trong 27 chiếu, lệnh có quy định áp dụng hình phạt trong số các chiếu,
lệnh đã thống kê dưới triều Lý, Trần thì có 17 vi phạm thuộc lĩnh vực hình sự, 5 vi phạm thuộc
lĩnh vực dân sự, 2 vi phạm thuộc lĩnh vực hôn nhân gia đình, còn lại là những vi phạm thuộc
lĩnh vực quản lý hành chính và các lĩnh vực khác.
+Đến thời Lê và Nguyễn hình phạt vẫn là chế tài phổ biến đối với các hành vi vi phạm dù là
trong lĩnh vực hình sự hay dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, luân thường đạo lý…
3. Hình phạt trong PLPKVN được quy định một cách cố định hoá, cụ thể hoá và chi tiết
hoá trong hầu hết các điều khoản.
Đây là một đặc điểm thể hiện rõ tính cụ thể và phân hoá cao trong PLPKVN về hình phạt áp
dụng với người phạm tội. Căn cứ để các nhà làm luật PK cố định hoá, cụ thể hoá, chi tiết hoá
hình phạt gắn với từng hành vi phạm tội trong từng điều luật.
+ Dựa vào hậu quả phạm tội.Hậu quả ấy là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho qhxh được
PL bảo vệ, tính chất và mức độ hậu quả gây ra càng lớn thì tính chất nguy hiểm cho xh càng
cao. Các nhà làm luật PK đã dựa vào căn cứ này để tuyên hình phạt tương xứng với hành vi
phạm tội mà tội phạm thực hiện trên thực tế.
+ Công cụ phương tiện phạm tội để cố định, cụ thể và chi tiết hoá hình phạt.Công cụ và
phương tiện phạm tội là đối tượng mà chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi
phạm tội của mình. Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội, phương tiện
phạm tội càng nguy hiểm thì mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội càng lớn.


+ Căn cứ vào địa vị người phạm tội và người bị hại.PLPK cho rằng quan hệ giữa người phạm
tội và nạn nhân xét về địa vị xã hội, địa vị trong dòng họ gia đình theo lễ giáo PK là yếu tố ảnh
hưởng không nhỏ đến mức độ hình phạt, và tuân theo quy luật : mức độ nguy hiểm và tội
phạm tỉ lệ thuận với địa vị nạn nhân và tỉ lệ nghịch với địa vị của chủ thể của tội phạm.
+ Căn cứ vào hoàn cảnh phạm tội. Đây là căn cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc dánh giá
mức độ nguy hiểm cho xh của hành vi phạm tội, từ đó áp dụng hình phạt hợp lý cho từng tội
phạm.

Như vậy trong PLPK hình phạt được quy định một cách cố định, rất cụ thể, tỉ mỉ gắn với từng
hành vi phạm tội trong từng điều khoản. Các nhà làm luật miêu tả từng trường hợp phạm tội
cùng với tất cả các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ hình phạt và mức phạt cho trường hợp
phạm tội đó.Mặc dù cứng nhắc. lắm điều luật rườm rà và thể hiện tính khái quát chưa cao
trong kỹ thuật lập pháp, song nó có ưu điểm lớn đặc biệt vào thời điểm đó: tính cụ thể và phân
hoá cao trong luật.
Câu 16: Nhóm tội thập ác trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
-Tội thập ác là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua, đến trật tự xã hội của Nho
giáo. Bởi vậy, dưới cái nhìn của nhà làm luật phong kiến, thập ác là những trọng tội nguy hiểm
nhất, và luôn đi kèm với đó là những hình phạt nghiêm khắc và tàn bạo nhất: " Những kẻ mưu
làm phản, mưu làm việc đại nghịch thì xử tội chém bêu đầu, kẻ tòng phạm và thân đảng biết
việc ấy đều phải tội chém, vợ con điền sản đều bị tịch thu làm của công... " [ Điều 411 Quốc
triều hình luật ]. Do đặc điểm này mà pháp luật phong kiến quy định các tội thập ác không
được hưởng nghị giảm theo chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được
hưởng chế độ đặc xá, đại xá...
Thập ác bao gồm:
1. Mưu phản: lật đổ nền cai trị của nhà vua, làm xụp đổ xã tắc.
2. Mưu đại nghịch: phá đền đài, lăng tẩm, cung điện của nhà vua.
3. Mưu bạn: phản bội Tổ quốc theo giặc.
4. Ác nghịch: mưu giết hay đánh ông bà, cha mẹ, tôn thuộc.
5. Bất đạo: vô cớ giết nhiều người, cắt tay chân người sống, chế thuốc độc bùa mê, tàn ác,
hung bạo...
6. Đại bất kính: lấy trộm các đồ tế trong lăng tẩm, các vật dụng của vua, làm giả ấn vua...
7. Bất hiếu: cáo giác hay chửi rủa ông bà, bố mẹ hay ông bà, bố mẹ chồng. Không phụng
dưỡng bố mẹ, tự ý bỏ nhà, tự ý phân chia tài sản, cưới xin khi có tang cha mẹ, vui chơi trong
khi tang chế, được tin bố mẹ, ông bà chết không chịu tang hoặc phát tang giả dối.
8. Bất mục: mưu giết hay bán các thân thuộc (cho đến ngũ đại), đánh hoặc cáo giác chồng hay
các tôn thuộc (cho đến tam đại).
9. Bất nghĩa: dân giết quan lại sở tại, lính tốt giết quan chỉ huy, học trò giết thầy dạy, vợ không
để tang chồng, ăn chơi và tái giá.

10. Nội loạn: tức là tội loạn luân (thông dâm với thân thuộc hay với các thiếp của bố hay của
ông).
Câu 17. Chế độ hôn nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
Câu 18. Chế độ gia đình trong pháp luật phong kiến Việt Nam.


Câu 19. Chế độ thừa kế trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
Câu 20. Chế định hợp đồng trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
Câu 21. Đặc điểm pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam.
Câu 22. Đặc điểm pháp luật phong kiến Việt Nam.
Câu 23. Yếu tố Trung Hoa và yếu tố Đại Việt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
Câu 24. Đặc điểm của chính quyền và pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc.
Nguồn:
123doc.vn
Lớp Luật hành chính 7BCQ - ĐH Luật HN
idoc.vn

Tham khảo thêm
Câu 1: Nội dung cơ bản và quan điểm chính trị pháp lý cơ bản của Nho giáo.
NỘI DUNG
I. NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ
Để có thể hiểu một cách tường tận về các quan điểm chính trị pháp lý cơ bản của Đạo nho
trước tiên ta cần hiểu rõ khái niệm “quan điểm chính trị - pháp lý” là gì. Đây không chỉ là vấn đề
giải thích ngữ nghĩa của thuật ngữ - vốn rất cần làm sáng tỏ - mà quan trọng hơn là có giải
thích được nội hàm của khái niệm trên mới có thể xác định được chính xác phạm vi và nội
dung của vấn đề đang đề cập.
Nhìn một cách tổng thể thì quan điểm chính trị - pháp lý được cấu trúc từ hai thành phần là
quan điểm về chính trị và quan điểm về pháp lý. Như vậy ta cần hiểu rõ hai khái niệm cơ bản:
chính trị và pháp lý.
- Chính trị được hiểu là việc tổ chức và vận dụng quyền lực để giải quyết các quan hệ lợi ích.

Bản thân thuật ngữ chính trị là tiếng Hy Lạp – Po litike, có nghĩa là công việc nhà nước. Lênin
cũng đã từng định nghĩa: “Chính trị là sự tham gia công việc nhà nước, phương hướng của nhà
nước, xác định hình thức và nội dung hoạt động của nhà nước”.
- Pháp lý theo phương diện trong nội dung bài thì được hiểu là khái niệm biểu đạt “tính pháp
luật” của những quy định, hiện tượng, các phạm vi, hoạt động, cơ chế,…trong cả trạng thái tĩnh
và cả trạng thái động của pháp luật.
Từ các khái niệm nhỏ lẻ này ta có thể đi đến định nghĩa chung như sau: Quan điểm chính trị pháp lý là những quan niệm của con người về quyền lực, quyền lực nhà nước và pháp luật, thể
hiện cách thức giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các bộ phận giai cấp, các nhóm xã hội, các
quốc gia, dân tộc hình thành do kết quả nhận thức bằng tri giác trong sự tương tác giữa con
người với môi trường xã hội tồn tại dưới dạng các học thuyết.


II. QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ CƠ BẢN CỦA ĐẠO NHO
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức
xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội,
phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả
phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là
những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối
tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người
quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người
quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí). Nho gia hình
dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí
vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề
xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua
cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi
giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh. Tổng quát lại thì quan điểm chính trị - pháp lý cơ
bản của Nho giáo thể hiện ở ba mảng vấn đề, hay ba quan điểm. Đó là Thiên mệnh, Chính
danh, Tôn quân quyền. Đây có thể coi là ba thành tố cơ bản cấu thành nên hệ tư tưởng
của đạo nho và là cái gốc của đạo nho.


1/ THIÊN MỆNH
Nho giáo đã tin có trời là chúa tể cả vũ trụ thì tất là nhận có cái ý chí rất mạnh để khiến sự biến
hóa ở trong thế gian cho hợp lẽ điều hòa. Cái ý chí ấy gọi là thiên mệnh hay đế mệnh. Người
xưa dùng chữ “thiên để” chỉ cái ý to lớn cao xa, bao bọc, che chở và dùng chữ “đế” chỉ cái ý
làm chúa tể của muôn vật. Nói thiên mệnh hay đế mệnh tức là muốn nói đến cái ý chí của trời.
Nhưng ta phải biết rằng quan niệm của Khổng Tử về trời hay thượng đế không giống như quan
niệm của phần nhiều người thường tưởng tượng. Trời hay Thượng đế là một đấng có hình
dáng, có tình cảm, có tư dục như người ta. Trời hay Đế chỉ là một cái lý vô hình, rất linh diệu,
thần bí, mà khi đã định sự biến động ra thế nào thì dẫu làm sao cũng không cưỡng lại được.
Khổng Tử tin có trời như thế, và có thiên mệnh cho nên Ngài nói rằng: “Bất tri mệnh vô dĩ vi
quân tử dã”, có nghĩa là không biết mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử. Những công việc ở
đời người ta thành hay bại, thế cục thịnh hay suy đều do ở thiên mệnh cả. Cái đạo của Khổng
Tử mà thi hành ra được cũng là mệnh trời, mà không thi hành ra được cũng là mệnh trời: “Đạo
chi tương hành dã dư, mệnh dã; đạo chi tương phế dã dư, mệnh dã”. Người quân tử cứ an mà
làm điều lành điều phải, dẫu có thế nào thì cũng đã có cái mệnh của trời, không oán trời và giận
người, cho nên Khổng Tử nói rằng: “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị dĩ sĩ ”, nghĩa
là mệnh trên không oán trời, dưới không trách người, cứ bình dị mà đợi mệnh.


Tri mệnh, tức là biết vui cho mệnh trời mà sinh hoạt, mà hành vi cho phải đạo, chứ không lập ý
riêng, mà cưỡng làm những điều tâm tư của mình. Nhưng chi mệnh là việc rất khó, đến Khổng
Tử mà còn phải đến năm mươi tuổi mới biết mệnh trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”, huống chi
người thường cho là dễ làm sao được. Người ta lúc còn nhỏ tuổi, khí huyết đang hăng, tưởng
việc gì cũng làm được. Về sau dần dần có kinh nghiệm bao nhiêu thì mới biết công việc thành
hay bại thường không phải tự mình quyết định lấy được, mà còn do trời quyết định.
Người ta ở đời lưu hành trong cái biến hóa của trời đất, giống như đàn cá bơi lội ở giữa dòng
nước chảy, tuy lúc nào cũng có cái năng lực vẫy vùng chạy nhảy nhưng vẫn phải trôi theo dòng
nước. Dòng nước chảy càng to, càng mạnh bao nhiêu thì sự trôi đi lại càng khó cưỡng lại bấy
nhiêu. Sự trôi đi như thế như là thiên mệnh - mệnh trời, không thể cưỡng lại, mặc dù ta có cảm
giác như mình tự do, nhưng đó là tự do trong sự phụ thuộc, sự phụ thuộc vào một ý chí lớn lao,

mệnh trời. Ta phải hiểu rằng, trong khi ta theo thiên lý mà lưu hành thì bao giờ con người cũng
có cái năng lực tự do để tự cường tự kiện, khiến cho cái tâm tính của con người được sáng
suốt, mẫn nhuệ để khi nào hành động cũng không làm mất đi cái trung. Vậy trong sự thiên
mệnh ấy, có cái sức cố gắng rất cường kiện để hoạt động luôn, chứ không phải như những
người tầm thường nhu nhược, cứ đành chịu ép một bề mà đợi số mệnh. Bởi thế nên trong kinh
dịch nói rằng: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”, có nghĩa là việc hành động của
trời rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không nghỉ. Nếu người ta hiểu không rõ
cái ý nghĩa ấy, rồi cứ vì cái lẽ theo thiên mệnh mà thành ra lười biếng, như thế thì đến ông trời
cũng tuyệt diệt đi, không tài bồi cho cái yếu đuối, hèn hạ bao giờ. Sách Trung dung nói: “Thiên
chi sinh vật, tất nhân kì tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi”, nghĩa là trời sinh
ra muôn vật, nhân cái tài lực của từng vật mà đôn đốc thêm vào, cho nên vật nào có thể vun
đắp được thì vun đắp vào cho tốt lên, vật nào nghiêng lệch thì làm cho đổ nát đi. Theo thiên
mệnh thì phải có cái khí cường kiện thì mới theo nổi, không thì thành ra thất bại ngay. Khí
cường kiện ở đây là muốn chỉ đến cái ý chí lớn lao, mạnh mẽ, sắt đá của người quân tử. Người
nào không có nó thì không thể làm nên việc lớn được.
Về sau tư tưởng thiên mệnh của Khổng tử được các học trò của ông kế thừa, phát triển, xây
dựng thành một học thuyết hoàn chỉnh và trở thành một trong các học thuyết làm nền tảng cho
hệ tư tưởng đạo nho, thuyết thiên mệnh. Trong đó người có công lớn nhất phải kể đến là Đổng
Trọng Thư. Ông viết: “Tôi nghe: Trời là tổ của muôn vật, cho nên che chở bao bọc khắp mọi
nơi,…Mùa xuân là mùa sinh muôn vật của trời, mùa hạ là mùa trưởng thành muôn vật của
trời…Lệnh trời gọi là mệnh, mệnh không phải là thánh nhân thì không thi hành được; chất phác
gọi là tính, tính không phải có giáo hóa thì không nên; nhân dục gọi là tình, tình không phải có
chế độ, không tiết chế được. Cho nên đấng vương giả nên cẩn trọng noi ý trời để thuận
mệnh…Người chịu mệnh của trời vốn siêu nhiên hơn các loài sinh vật ở đời”. Có thể thấy tư
tưởng của Đổng Trọng Thư đã phát triển khá hoàn chỉnh tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử.
Sách “Trúc lâm” có đoạn viết: “Thiên chi vi nhân tính mệnh. Sử hành nhân nghĩa nhi tu khả sỉ,
phi nhược điểu thú thiên, cẩu vi sinh, cẩu vi lợi nhi dĩ”, nghĩa câu nói đó là trời làm ra cái tính
mệnh của người, khiến làm điều nhân nghĩa, mà biết thẹn điều đáng thẹn, không phải như
giống chim muông, cẩu thả cầu lấy sống, cẩu thả cầu lợi mà thôi.



2/ CHÍNH DANH
Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận
của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách
Luận ngữ). Theo Khổng Tử giải thích chính danh tức là làm mọi việc phải cho ngay thẳng,
“Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách
Luận ngữ). Khổng Tử cho việc chính trị hay hay dở do ở người cầm quyền. Người cầm quyền
biết theo đường ngay chính để sửa đạo nhân thì việc gì cũng thành ra ngay chính cả. Hễ người
trên đã ngay chính thì ắt người dưới phải theo mà bắt trước. Vậy nên mới nói: “Kỳ thân chính,
bất lệnh nhi hành, kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng”, có nghĩa là mình ngay chính thì không
sai khiến người ta cũng làm, mình không ngay chính tuy có sai khiến cũng không ai theo.
Người trên phải giữ mình cho ngay chính và làm việc gì cũng phải giữ cái danh cho chính.
Danh tự đã chính thì việc gì có nghĩa lí việc ấy, những điều tà thuyết không làm mờ tối được
chân lý. Danh phận đã định rõ thì người nào có địa vị chính đáng người ấy, trên ra trên, dưới ra
dưới, trật tự phân minh. Vua có phận vua, tôi có phận tôi: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ
trung”, nghĩa là vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi, còn bề tôi thì lấy trung mà thờ vua.
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng pháp luật và hình phạt để
cai trị dân. Ông cho rằng nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là do không
“chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải giáo hóa đạo đức và thực hiện “chính
danh, định phận”. Nhà cầm quyền muốn trị nước, trước hết phải thực hiện “chính danh” , bởi vì
“nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn sẽ dẫn đến việc
thi hành sai…Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh
đúng với danh, với phận thì phải tùy theo đó mà làm”. (Luận ngữ, Tử lộ, 3).
Về sau thuyết chính danh của Khổng Tử tiếp tục được các môn đồ của ông phát triển thêm
nhưng phải đến Tuân Tử thì những tư tưởng chính danh của Khổng Tử mới được lập thành
một học thuyết. Cái danh theo Tuân Tử là cái danh đã thông hành trong xã hội, dùng làm pháp
lệnh của quốc gia, không ai được thay đổi. Ông nói: “Bậc vương giả chế ra danh. Danh đã định
thì sự biện luận có cái thực. Cái đạo chế danh thi hành ra, thì lời nói dễ hiểu, rồi cứ cẩn thận
khiến dân theo một đạo ấy, không được lấy dị đoan mà thay đổi…Dân của vương giả không
dám mượn tiếng mà làm ra lời nói lạ để loạn cái chính danh, cho nên một lòng theo đạo, theo

phép mà kính cẩn ở chỗ theo lệnh vậy. Như thế thì cái tích của vương giả lớn lên, cái công hiệu
thành đạt, là cái cực điểm của sự trị. Đó là nhờ có công của sự giữ cái danh cẩn thận. Nay bậc
thánh, bậc vương mất, cách giữ danh thì bỏ lười, những lời lạ thì khởi lên, danh với thực loạn
cả, cái hình phải trái không rõ, thì dẫu kẻ lại giữ phép, kẻ nho noi theo học cũ, đều loạn cả. Nếu
kẻ vương giả lại sinh ra ở đời thì ắt lại theo cái danh cũ và sửa cái danh mới cho chính”. (Chính
danh, XXII).
Tuân Tử xét theo cái lẽ tại sao mà có danh, và chia ra làm ba điều: Sở vị hữu danh (bởi sao có
danh), Sở duyên hữu đồng dị (bởi duyên cớ gì mà có đồng dị), chế danh chi khu yếu (cái khu
yếu để chế danh).


Tuân Tử cho danh có cái tính chất thuộc về xã hội, cho nên chủ đích là cốt phải theo cái phải
của ước định, tục thành. Còn việc chính danh thì ông cho là phải dùng thế lực của pháp luật mà
bắt người ta phải theo những danh mà xã hội đã thừa nhận. Nhìn chung cái chính danh trong
tư tưởng của Tuân Tử, tuy có nhiều điều rất tinh tường, nhưng chỉ vì ông khuynh hướng về mặt
dùng thủ đoạn chuyên chế mà ngăn cấm những điều trái với sự công dụng thiển cận, chính vì
thế mà ông chủ trương chính sách chuyên chế.
Có thể thấy rất rõ, cái chính danh trong tư tưởng của Tuân Tử đã phát triển lên một tầm cao
mới, nó thể hiện ở bản chất thật của vấn đề. Tuân Tử dùng lý trí để suy luận, không như cái
danh trong tư tưởng của Khổng Tử chủ yếu dựa vào trực giác mà thành. Tuy nhiên, mỗi cách
lại có một ưu thế riêng: lối dùng trực giác, tuy người thường khó hiểu, nhưng khi đã hiểu thì ý
nghĩa lại rất sâu xa; còn lối dùng lý chí mà suy luận, tuy kém phần sâu xa, nhưng dễ hiểu và cái
phương pháp luận lý lại sang rất rõ. Chính sự đa dạng này đã làm cho nho giáo trở thành hệ tư
tưởng chính thống của nhiều triều đại phong kiến.

3/ TÔN QUÂN QUYỀN
Khi con người đã quần tụ với nhau sống thành xã hội thì ắt trong lòng xã hội phải nảy sinh các
quyền tối cao để có thể quản lý xã hội, điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với nhau trong
cái xã hội đó. Xuất phát từ thuyết thiên mệnh, nho giáo đề cao nguyên tắc tôn quân quyền, tức
quyền chủ tể cả một nước, nhằm xây dựng củng cố nhà nước tập quyền, với quyền lực vô hạn

thuộc về nhà vua. Theo tư tưởng của Nho giáo thì Quân quyền phải để một người giữ cho rõ
cái mối thống nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế hay vương, ta thường gọi là vua. Vua phải
lo việc trị nước, tức là lo sự sinh hoạt, sự dạy dỗ và mở mang cho dân. Tư tưởng tôn quân
quyền của nho giáo hoàn toàn có thể đáp ứng được hệ tư tưởng của các triều đại phong kiến.
Trong quan điểm của Nho giáo, nói đến nước là nói đến vua, nước là của vua. Ngôi vua bao
giờ cũng được đề cao, và trong việc giáo dục thần dân thì đức tính trung với vua bao giờ cũng
được coi trọng nhất. Tư tưởng tôn quân có những hạn chế nhất định vì nó dẫn con người tới
chỗ mù quáng, phụng sự vô điều kiện đối với giai cấp thống trị. Nhưng xét ở khía cạnh khác, nó
cũng có những yếu tố tích cực. Nếu một ông vua có tư tưởng tiến bộ theo xu thế phát triển của
lịch sử thì cũng có tác động thúc đẩy xã hội phát triển và khi ấy lợi ích vương tộc phù hợp với
lợi ích dân tộc. Từ tư tưởng tôn quân, nho giáo đã đưa ra một đường lối chính trị nhân nghĩa
trong đó đề cập tới đạo làm vua, quan hệ giữa vua và dân, quan điểm về dùng người,…
Phân tích mối quan hệ giữa vua và dân, đó là hai mặt đối lập trong một thể thống nhất: vua
không có dân thì không thể tồn tại được. Hầu hết các vị vua quan tâm tới dân không phải vì lợi
ích của dân mà trước hết đều là vì quyền lợi của chính mình. Muốn cho dân không nổi dậy, để
giữ ngôi vua được lâu dài trước hết vua phải lấy đạo đức dẫn đạo cho dân, tức là vua phải noi
theo lễ để làm gương cho kẻ dưới. Nho giáo xây dựng xã hội theo mô hình gia đình, nên xem
xét con người từ cách cư xử trrong gia đình để suy ra cách cư xử với xã hội. Đạo làm vua là
làm nên mực thước để dân bắt chước. Vua là đại diện cho thế lực của trời, được ví là con trời,
được trời cử xuống để thay trời cai trị muôn dân. Vì thế những lời huấn thị của vua giống như
lời huấn thị của trời. Điều này cho thấy tư tưởng thiên mệnh đã phần nào làm suy giảm ý chí


đấu tranh của nhân dân, bởi dù có đấu tranh cũng không mang lại điều gì tốt đẹp, vì tất cả đã
được trời quyết định, an bài sẵn rồi.
Về phương thức cai trị nho giáo chủ trương dùng đức trị, lấy việc tu nhân, giáo hóa nhân bằng
lễ, nhạc là chủ yếu, hình phạt chỉ là bổ trợ. Trong thời đại của Khổng Tử, mà theo ông lễ nhạc
hư hỏng, thiên hạ vô đạo, xã hội loạn li, nên phải khôi phục lễ để thiên hạ hữu đạo, xã hội thái
bình. Đó là một trật tự chặt chẽ, một quan hệ giữa người với người ổn định mới được xem là
cái phúc tuyệt đối của xã hội. Bất cứ sự phá vỡ nào đối với chúng đều được quan niệm là đối

lập với bản thân cái cơ sở của tồn tại vũ trụ, là trái với mệnh trời. Quan niệm như vậy rất có lợi
cho giai cấp thống trị vì nó xây dựng trật tự xã hội hiện tồn là khả năng duy nhất, bất cứ sự đi
lệch nào khỏi khả năng đó đều là phi tự nhiên, tất nhiên sẽ bị đào thải. Ở trong nhà, con phải
hiếu đễ với cha mẹ, ở trong nước thì thần dân phải trung với vua. Hai chữ trung quân không
nên hiểu một cách đơn giản như người ta vẫn thường hiểu là chỉ trung với một người làm đế,
làm vương, mà phải hiểu theo nghĩa rộng là trung với cái quân quyền trong nước. Theo nghĩa
đó thì cứ ở vào thời đại nào, hai chữ trung quân vẫn có nghĩa chính đáng. Có lòng trung ấy thì
dân mới yên, nước mới trị, miễn là quân quyền không trái với lòng dân là được.
Quân quyền là cái cao quý, linh thiêng, có quan hệ tới vận mệnh của một xã hội, một dân tộc,
nếu không phải là bởi cái mệnh trời giao cho, thì tất là bởi cái bọn xấu xa của xã hội cướp lấy.
Vậy muốn cho chính cái danh hiệu của người giữ quân quyền, thì Nho giáo mới cho là quân
quyền là do mệnh trời quyết định, và ai giữ được quân quyền thì tức là người đó giữ được thiên
hạ.
Mệnh trời không phải là cứ cho ai thì cho mãi, mà người giữ quân quyền, ai làm điều lành, hợp
lòng trời thì được còn ai làm điều ác, trái với lẽ trời thì mất. Ông trời không thân riêng ai, chỉ có
đức là trời giúp. Vậy người làm đế, làm vương tuy rằng có uy quyền rất to lớn, thế lực rất
mạnh, nhưng cũng không được lợi dụng uy quyền ấy và thế lực ấy mà làm điều tàn bạo.

Câu 2: Những biểu hiện và điểm tích cực, hạn chế của nhà nước phong kiến quân chủ
quý tộc ở Việt Nam.
I. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:
Bộ máy chính quyền thời Lý – Trần được xây dựng trên hình thức chính thể quân chủ quý tộc.
Dựa trên nguyên tắc “liên kết dòng họ”, hoàng thân quốc thích là hậu thuẫn chính trị hùng mạnh
cho quyền lực của nhà vua. Biểu hiện của nó là hầu hết các trọng trách ở bộ máy trung ương
đều do tầng lớp quý tộc nắm giữ. Vương hầu, tôn thất đều được trọng dụng và khuyến khích
hôn nhân nội tộc vừa để củng cố sự vững chắc của vương triều vừa nhằm đảm bảo tính thuần
nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền vững.
Về bộ máy hành chính: Thời Lý - Trần cấu trúc theo 3 cấp: Cấp trung ương, cấp hành chính
trung gian, cấp hành chính cơ sở.
- Thời Lý: Ở Kinh đô, nhà Lý giao cho một hoàng tử hay thân vương trông coi gọi là kinh sư lưu

thủ. Ở các châu gần, đặt các chức tri châu, thông phán, tổng quản để trông coi. Ở các châu
biên giới đặt chức châu mục đứng đầu. Đứng đầu phủ có chức tri phủ, tri phủ sự, phán phủ sự


phụ trách. ở các địa phương, nhà Lý từ năm 1011 đổi 10 đạo thời Lê làm 24 lộ , đặt thêm một
số đạo và trại, châu. Một số châu, trại đổi làm phủ, các vùng xa gọi là châu (như châu Vĩnh An,
Đằng Châu, châu Lâm Tây, v.v.). Dưới lộ có huyện, hương.
- Thời Trần: Nhà Trần đổi 24 lộ thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ là châu, huyện, xã. Đứng đầu các lộ là
an phủ sử, ở các phủ là tri phủ, trấn phủ rồi đến các viên chức thông phán, thiên phán, tào, vận
lệnh uý v.v.. Các châu do chuyển vận sứ, thông phán quản lý, ở huyện do lệnh uý, chủ bạ coi
giữ. Chế độ xã quan được phổ biến ở các xã. Đứng đầu các xã là đại tư xã và tiểu tư xã. Các
viên xã quan được tuyển chọn trong hàng ngũ những người có phẩm hàm, từ ngũ phẩm trở lên
làm đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống giữ chức tiểu tư xã (xã nhỏ). Dưới đại, tiểu tư xã có các
chức xã trưởng, xã giám giúp việc sổ sách.
Vể tổ chức bộ máy quan lại: Đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức đứng
đầu các quan lại trong triều, đó là thái sư, thái phó, thái bảo (tam thái). Dưới đó là chức thái úy,
nắm giữ việc chính trị, quân sự trong nước, về sau chức này được gọi là tể tướng. Tiếp đến là
các chức tư không, thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy (phụ trách cấm quân), nội điện đô trị sự, ngoại
điện đô trị sự, kiểm hiệu bình chuơng sự. Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà
vua. Để giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ quan chuyên trách như Trung
thư sảnh, Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển tượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm
học sĩ.
Năm 1097, nhà Lý cho biên soạn và ban hành Hội điển , quy định các phép tắc chính trị, tổ
chức bộ máy quan lại. Từ đó, quy chế tổ chức hành chính và quan lại được xác lập, thể hiện
bước tiến bộ rõ rệt trong việc quản lý xã hội, đất nước. Các quan lại cao cấp có nhiều công lao
được phong thực phong, thực ấp. Chỉ con cháu những người có quan tước, được tập ấm, mới
được làm quan.
Sang thời Trần, tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương có bước hoàn thiện hơn thời Lý. Khác
với nhà Lý, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng. Các vua sớm truyền ngôi cho con trai
trưởng (hoàng thái tử) nhưng vẫn cùng với vua (con) trông coi chính sự, tự xưng là Thái

thượng hoàng. Trong triều đình, đứng đầu các quan vẫn là ba chức thái (sư, phó, bảo) chỉ có
điểm khác thời Lý ở chỗ nhà Trần đặt thêm hàm thống quốc, tá thánh, phụ quốc để gia phong
thêm (như thống quốc thái sư, tá thánh thái sư phụ quốc thái bảo). Chức thái úy thời Lý (tướng
quốc) đổi thành tả hữu tướng quốc bình chương sự. Giúp việc cho tể tướng (tướng quốc) thời
Trần đặt thêm các chức hành khiển nằm trong cơ quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm
cả các chức thượng thư (đứng đầu bộ), tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu . Dưới các
chức vụ nói trên, các quan được chia thành hai ban văn và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu
mỗi bộ là một viên thượng thư. Ngoài bộ, có các cơ quan chuyên trách như ở thời Lý, nhưng
nhiều hơn, tổ chức chặt chẽ hơn như: các cục (Nội thư hoả cục, Chi hậu cục); các đài (Ngự sử
đài với các chức tả hữu gián nghị đại phu, thị ngự sử, giám sát ngự sử v.v.); các viện (Khu mật
viện với các chức tri mật viện sự, khu mật tham chính...v.v..)
Nhà Trần còn đặt thêm một tổ chức phụ trách về dòng họ nhà vua gọi là tông chính phủ. Nhà
Trần cũng thực hiện chế độ ban phong thái ấp cho vương hầu, tôn thất và cho phép họ được
xây dựng phủ đệ riêng.
Nhận xét:
- Thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất cả các chức
vụ quan trọng trong triều đình cũng đều giao cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ.
Nguyên tắc “tôn quân quyền” được thể hiện nhưng không đậm nét bằng nguyên tắc


-

“liên kết dòng họ”. Trong bộ máy chính quyền trung ương, Hoàng đế là người nắm giữ
toàn bộ vương quyền và thần quyền nhưng mức độ tập trung quyền lực của vua chưa
cao tới mức chuyên chế, mà quyền hành pháp được chuyển giao rộng rãi cho các chức
vụ trung gian trong nhà nước, thường là các chức vị dưới vua như Tế tướng, Thừa
tướng.
Thời Trần để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực
hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình
(nhất là về võ quan, như các tướng lĩnh trong cuộc kháng chiến chống Nguyên) đều do

các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Cách sử dụng, bổ nhiệm quan lại của
nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ nét bản chất của nhà nước quân chủ quý tộc.

II. Điểm tích cực của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:
Thứ nhất, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần giúp quyền lực tập trung trong tay
nhà nước trung ương; chế độ quân chủ trung ương tập quyền được tiến thêm một bước, củng
cố sự vững chắc của vương triều và đảm bảo tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua
được bền vữngBởi
Thứ hai, bộ máy hành chính, nhà nước thời Lý – Trần đã thể hiện tính chất thân dân. Nhà Lý
tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất của cộng đồng làng xã. Theo đó, nhà nước không thu thuế
theo từng hộ dân mà coi mỗi cộng đồng làng xã là một tập thể lớn (hoặc nhỏ) để thu thuế lúa
gạo theo hộ dân. Người được ban thái ấp sẽ thu thuế các làng, rồi nộp một phần cho nhà nước
nên họ thực sự là chủ của dân chứ không phải là chủ ruộng đất. Dân chúng chủ yếu cày ruộng
theo quy mô làng xã.
Nhà Trần có chế độ thái ấp, điền trang là một hình thức sở hữu đặc biệt của tầng lớp quý tộc
quan liêu, có đặc quyền đặc lợi. Theo sử sách ghi lại thì thái ấp là ruộng do nhà vua ban cấp
cho các quý tộc và triều thần có công. Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu
của nhà nước, triều đình có quyền lấy của người này ban cấp cho người khác. Quý tộc có
quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần về cư dân trên đó, như thu tô thuế,
xây dựng phủ đệ, lập các đội quân vương hầu gia đồng. Thời trần, có những thái ấp của Trần
Liễu (Đông Triều, Quảng Ninh), Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát
Chân ở Kẻ Mơ (Hà Nội)… Do tính chất hạn chế về quyền chiếm dụng ruộng đất nên thái ấp
không có khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính quyền trung ương.
Điền trang là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý, sử
dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu
phong kiến lớn, tư nhân. Các điền trang được nhắc đến trong lịch sử là của Trần Khánh Dư
(Chí Linh, Hải Dương), Trần Quốc Khang (Diễn Châu, Nghệ An)…Chế độ điền trang phát triển
mạnh mẽ, hàm chứa nhiều yếu tố và xu thế cát cứ.
Tuy nhiên, trong suốt hàng trăm năm tồn tại của mình, chế độ thái ấp, điền trang đã có những
tác động lớn về mặt chính trị. Nó góp phần xây dựng một triều đình thống nhất, đoàn kết nội bộ,

đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc. Thực tế đã chứng minh rằng những chủ nhân
của các thái ấp đã hoàn thành tốt vai trò của mình là những trụ cột trợ giúp triều đình và không
bao giờ trở thành lãnh chúa địa phương như ở châu Âu cùng thời. Quan trọng hơn, đất phân
phong cho các vương hầu quý tộc vẫn gắn với ruộng đất công làng xã, với nông dân. Các quý
tộc vẫn nằm trong làng, không tách khỏi làng xã. Nhờ đó, nhà nước luôn duy trì được mối quan
hệ mật thiết với nhân dân. Thế cân bằng ổn định về kinh tế cũng được xác lập và duy trì giữa


công hữu và tư hữu; giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước với các đẳng cấp quý tộc quan liêu
và khối bình dân làng xã.
III. Hạn chế mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:
Bộ máy quân chủ quý tộc lúc bấy giờ có những hạn chế thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, việc trao quyền lực cho một tầng lớp vương hầu quý tộc tiềm ẩn nguy cơ phân
quyền, cát cứ. Cụ thể:
Khoảng từ giữa thế kỷ XII, triều chính nhà Lý bắt đầu suy đồi. Các nhà vua khi lên ngôi còn quá
non trẻ, lớn lên lại hay ham chơi. Trong triều, các gian thần, nịnh thần lộng hành nhiễu loạn.
Ngoài xã hội, nhiều năm mất mùa đói kém, loạn lạc nổi dậy khắp nơi. Những cuộc nổi dậy này
biểu hiện sự trỗi dậy của những yếu tố cát cứ, làm suy yếu chính quyền trung ương. Đầu thế kỷ
XIII, lại xảy ra nạn hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến. Các hào trưởng địa phương, các
tướng lĩnh triều đình đem quân đánh lẫn nhau, uy hiếp triều đình Lý trong một tình hình hết sức
rối ren, phức tạp.
Đến thời Dụ Tông, Triều Trần lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Mâu thuẫn nội tại của
chế độ điền trang, thái ấp phát triển. Quý tộc Trần ngày càng thoái hoá biến chất với cuộc sống
xa hoa. Nông nô và nô tỳ bị áp bức và bóc lột tàn khốc nổi dậy chống đối, thiên tai xảy ra liên
tiếp, sản xuất đình đốn, dân tình đói khổ. Mâu thuẫn xã hội gia tăng làm bùng nổ các cuộc khởi
nghĩa của nông dân, nông nô, nô tì để trở thành nông dân tự do. Đây có thể coi là nguyên nhân
quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý – Trần. Bên cạnh
đó, đội ngũ quý tộc tha hóa, trình độ, năng lực trị nước an dân không cao nhưng vẫn được
trọng dụng. Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực
lượng quan lại đều kém tài. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào

của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần
Khát Chân vốn mang họ Lê).
Thứ hai, về chế độ hôn nhân đồng tộc. Triều đại nhà Trần, tới các đời sau, Trần Nghệ Tông và
Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền.
Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Lê Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu,
người thân tộc họ Trần. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự
"thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi
khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý,
Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Việc dung túng cho cấp dưới, những
kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua
Trần quả là hiếm có.
Thể chế quân chủ quý tộc lúc bấy giờ đã khủng hoảng nặng nề, kìm hãm sự phát triển của
quốc gia. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và hành chính mang tính phân tán, quyền
lực của nhà nước quân chủ quan liêu trung ương tập quyền bị hạn chế. Cuộc cải cách của Hồ
Quý Ly nhằm thay thế thiết chế quân chủ quý tộc bằng một thiết chế mới quân chủ quan liêu là
đúng đắn, cần thiết, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nó đã thất bại
nhanh chóng.

Câu 3: Những biểu hiện của nhà nước phong kiến quân chủ quan liêu chuyên chế ở
Việt Nam.


Biểu hiện của nhà nước phong kiến quân chủ quan liêu chuyên chế (thời Lý – Trần)
1. Nhà nước quân chủ quí tộc là nhà nước chỉ có vua nhưng quyền lực tập trung vào tay
vua chưa cao độ
Cũng như những quân vương ở triều đại khác, các Hoàng đế Lý - Trần là vị trí độc tôn trong xã
hội, là người nắm trọn vương quyền và thần quyền, nhưng việc thực hiện quyền lực đó còn
chưa tới mức độ chuyên quyền. Trước khi ra một quyết định quan trọng vua thường phải hỏi ý
kiến của các quan đại thần. Đáng chú ý là chức danh Tể tướng thời kì này thường được giao
cho các quan đại thần như Thái Phó Tô Hiến Thành, Thái sư Trần Thủ Độ, tuy được gọi bằng

những tên gọi khác nhau như Tướng công, Phụ quốc, Bình chương quân quốc trọng sự,...
nhưng thực chất các công thần này đều giữ chức vụ Tể tướng, là người có rất nhiều quyền
hành, thực hiện nhiệm vụ giúp vua điều hành toàn bộ hoạt động của các quan chức trong triều,
thực sự là “dưới một người trên vạn người”. Chính vì vậy có thể nói mặc dù bộ máy nhà nước
thời kì này được tổ chức theo chính thể quân chủ chuyên chế nhưng quyền lực tập trung vào
tay nhà vua chưa cao, giữa vua và các quan lại, các bộ, các cơ quan chuyên môn còn có một
chức danh trung gian là Tể tướng và chức danh này chỉ giao cho một người. Sau này trong cải
cách Lê Thánh Tông đã đặt ra chế độ “đồng tể tướng” (Tả, Hữu) nhằm phân quyền và cũng
đồng thời hạn chế sự độc đoán, tiếm quyền của Tể tướng, bộ máy nhà nước thể hiện rõ tính
chất quân chủ quan liêu chuyên chế. Sở dĩ có sự đặc biệt trên bởi các vua Lý - Trần trong
buổi ban đầu thường là những người xuất thân từ tầng lớp bình dân, đồng thời họ cũng được
chính triều đình của dòng họ vua trước suy tôn lên làm vua, từ đó nên họ vừa là Hoàng đế của
nhà nước quân chủ vừa là thủ lĩnh của cả cộng đồng dân tộc, vừa là người đại diện cao nhất
của giai cấp thống trị và bóc lột nhưng vẫn còn dáng dấp “người cha của số đông các công xã”.
2. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, bên cạnh nhà vua còn có đội ngũ quý tộc là hậu
thuẫn, bệ đỡ cho vương triều.
Trong chế độ phong kiến nói chung, hoàng tộc luôn là hậu thuẫn chính trị của vương triều. Dưới
các triều Ngô - Đinh – Tiền Lê trước đây cũng vậy nhưng các triều đại này trị vì trong hoàn cảnh
lịch sử đặc biệt, ngoài hoàng tộc thì việc thu phục các thế lực chính trị - quân sự khác cũng
không kém phần quan trọng. Bởi vậy tính quí tộc của nhà nước chưa nổi trội hẳn lên. Tuy nhiên
từ đời Lý đặc biệt là đời Trần, thể chế chính trị quân chủ quý tộc càng phát triển, hoàng tộc
càng là hậu thuẫn chính trị vững chắc của vương triều. Để củng cố vương quyền, nhất là trong
những thời kỳ đầu, nhà Lý - Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Tầng
lớp quý tộc nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình đều do
các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Thời Lý lấy tước vương, tước công phong
cho thân thích hoàng tộc và người có công lớn như Thái Tổ phong cho anh là Vũ Uy vương,
chú làm Vũ Đạo vương, Lý Thường Kiệt được phong tước làm Việt Quốc công. Thứ đến là
tước hầu như Đào Cam Mộc được phong nghĩa hầu. Thời Trần “người tôn thất được phong
tước vương hoặc tước quận vương (cũng có người là cựu thần có công được phong tước
vương như Trần Tá Chu được phong Hưng Nhân vương). Năm 1267 vua Trần Thánh Tông

định “ Hoàng đế ngọc điệp” theo tiêu chuẩn ngũ phục để ấn định quan hệ họ hàng xa gần của
nhà vua để ban tước, bổ chức, phong đất.
Nhà Lý - Trần coi đội ngũ quý tộc là bệ đỡ cho vương triều thể hiện rõ trong cách thức tuyển
chọn quan lại. Vào thời nhà Trần, quan lại được tuyển dụng qua các phương thức : nhiệm tử
(tập ấm), tuyển cử (giới thiệu và bảo lãnh), khoa cử (qua các kỳ thi). Cách sử dụng, bổ nhiệm


quan lại của nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ nét tính đẳng cấp sâu sắc, nhất là dưới thời
Trần. Năm 1228 Trần Thái Tông quy định “ người có quan tước con cháu mới được thừa ấm
làm quan, người giàu khỏe mạnh mà không có quan tước thì sung quân đời đời làm lính”, đến
cuối đời nhà Trần tuyển cử và bổ nhiệm vẫn là 2 phương thức tuyển dụng quan lại chủ yếu của
các vương triều.
Trong bộ máy quan lại của triều Lý và Trần chủ yếu là quý tộc. Đây là thể hiện rõ nét của bộ
máy quân chủ quý tộc. Tuy nhiên mỗi triều đại lại sử dụng người để phong quan khác nhau.
Nhà Lý sử dụng cả đội ngũ quý tộc, đồng tộc và ngoại thích: Các chức tướng công, thái phó
được hoàng đế nhà Lý ban cho những người có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển toàn bộ chính
quyền. Lý Thái Tổ đã bổ nhiệm Trần Cảo làm tướng công. Lý Thánh Tông bổ nhiệm Lý Thường
Kiệt làm Thái phó phụ quốc thượng tướng quân… Còn đối với nhà Trần chỉ sử dụng đội ngũ
quý tộc và đồng tộc, không sử dụng ngoại thích. Để đề phòng nạn ngoại thích, củng cố sự
vững chắc của vương triều nhà Trần đã thực hiện chế độ hôn nhân đồng tộc. Nhiều nhà vua và
vương hầu tôn thất nhà Trần đã lấy người trong họ hàng, đôi khi khá gần gũi (như Trần Thái
Tông lấy chị dâu, Trần Thủ Độ lấy chị họ, Trần Quốc Tuấn lấy em họ). Trần Thánh Tông thường
căn dặn : “Thiên hạ này là thiên hạ của tổ tông, người nối giữ cơ nghiệp tổ tông nên cùng anh
em trong tông thất chung hưởng phú quý. . . Anh em là xương thịt rất thân, gặp lúc lo thì cùng
lo, gặp lúc vui thì cũng vui...".
Biểu hiện của bộ máy quân chủ quý tộc thời Lý – Trần còn thể hiện ở sự trọng đãi các quan
chức ở trung ương và địa phương. Tầng lớp quý tộc nắm giữ vị trí quan trọng trong tổ chức bộ
máy nhà nước, nắm giữ hầu hết các trọng trách ở triểu đình, địa phương, trấn trị các vùng quan
trọng, chỉ huy quân đội. Các hoàng tử được phong vương và được cử đi trấn trị ở các nơi trọng
yếu, vương hầu tôn thất được phong cấp thực ấp, thực hộ, cho lập điền trang phủ để.

3. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, nhà vua được thế tộc.
Nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp hôn nhân - từ vai trò là ngoại thích của nhà Lý đã
giành ngôi. Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người trong
họ. Nhà Trần khuyến khích hôn nhân nội tộc để củng cố sự vững chắc của vương triều. Theo
tập quán dân gian và quan niệm Nho giáo, giữa những người trong cùng họ đều không được
kết hôn với nhau nhưng dòng họ Trần lại khuyến khích nội tộc hôn nhân nhắm đảm bảo tính
“thuần nhất” của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được vững bền, ngăn ngừa ngôi vua để lọt vào tay
dòng họ khác. Chúng ta có thể điểm qua một số cuộc hôn nhân nội tộc này: Năm 1225, Trần
Cảnh, tức Trần Thái Tông, lấy Lý Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên; trường hợp này cũng là con
cô lấy con cậu. Năm 1237, vì Chiêu Hoàng không có con, Thủ Độ ép Thái Tông lấy Thuận
Thiên, lúc ấy đã có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp này vừa là con cô con cậu lấy
nhau, vừa là em chồng lấy chị dâu. Năm 1258, Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm công chúa là
con Trần Liễu, tức là con chú con bác lấy nhau.
Câu 4: Nguyên nhân thiết lập thể chế nhà nước quân chủ lưỡng đầu Lê – Trịnh.
Có 3 nguyên nhân chính:
- Nguyên nhân sâu xa và có tính chất chủ đạo là tư tưởng chính danh của nho giáo.
Nho giáo đã trở thành tư tưởng chính trị chính thống từ đầu Lê sơ. Theo quan điểm nho giáo
thời bấy giờ chỉ có triều Lê mới là triều đại chính thống. Nên khi lên cầm quyền, các chúa Trịnh
ko thể không duy trì triều Lê.


- Nguyên nhân về mặt lịch sử, thể chế lưỡng đầu đã bước đầu được hình thành từ
thời Lê trung hưng, tức giai đoạn Nam triều. Trong đó, bên cạnh vua Lê là Nguyễn Kim oy họ
Trịnh nắm thực quyền. Sau khi đánh đổ được nhà Mạc, họ trịnh ko thể ko duy trì vua Lê ở đàng
ngoài.
- Do sự tương quan lực lượng giữa các phe phái PK: giữa tập đoàn họ Trịnh và tập
đoàn nhà Lê, giữa PK đàng ngoài & PK dàng trong.
Câu 5: Đặc điểm của thể chế nhà nước lưỡng đầu Lê – Trịnh.
Có 4 đặc điểm:
- Chính quyền Lê – Trịnh thể hiện sự hoàn bị, rõ ràng nhất và tiêu biểu về thể chế

lưỡng đầu trong lịch sử chế độ phong kiến VN
- Chính quyền Lê – Trịnh là thể chế lưỡng đầu của 2 dòng họ, giữa vua và chúa, giữa
đế và vương, kết hợp với nhau trong sự đối trọng vừa hòa hợp vừa mâu thuẫn.
- Thể chế lưỡng đầu vua Lê – chúa Trịnh là cả một hệ thống cơ cấu tổ chức nhà nước
chặt chẽ, rõ ràng, trong đó có một số yếu tố đã được luật pháp hóa.
- Nhà nước có nhiều cơ quan và chức quan mới được đặt ra, ngạch quan văn võ có
vai trò rất quan trọng, hầu hết các chức vụ chủ chốt từ trung ương đến địa phương được trao
cho các võ quan nắm giữ.



×