Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của toà án từ thực tiễn tại các toà án ở tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THẨM QUYỀN SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH
THƢƠNG MẠI CỦA TOÀ ÁN TỪ THỰC TIỄN TẠI CÁC
TOÀ ÁN Ở TỈNH THANH HOÁ

DƢƠNG XUÂN TÖ

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

DƢƠNG XUÂN TÖ

THẨM QUYỀN SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH
THƢƠNG MẠI CỦA TOÀ ÁN TỪ THỰC TIỄN TẠI CÁC
TOÀ ÁN Ở TỈNH THANH HOÁ
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cá các môn học và đã thanh toán
tất cá các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Viện đại học Mở
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Viện đại học Mở Hà Nội xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Dương Xuân Tú


LỜI CẢM ƠN
Em xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với TS. Nguyễn Công Bình,
ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn và giúp em hoàn thành tốt luận văn này. Thầy
đã tận tình dìu dắt, san sẻ, giúp đỡ em có thể vƣợt qua những khó khăn gặp
phải trong suốt quãng thời gian qua.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Luật - Viện đại học Mở Hà Nội
đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho em. Xin cảm ơn những ngƣời yêu
thƣơng nhất đã hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần cho em trong những năm
qua. Nếu thiếu đi những tình cảm thân thƣơng ấy, thì em đã không thể hoàn
thành tốt khóa luận này./.
Em xin chân thành cảm ơn!!!
Hà Nội, ngày

tháng

Học viên

Dương Xuân Tú

năm 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ............................................................3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài .............................................................4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài ...........................................................................4
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ...........................................................5
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN SƠ THẨM VỤ
ÁN KINH DOANH, THƢƠNG MẠI CỦA TÕA ÁN ............................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc pháp luật quy định thẩm quyền
sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án ...........................................................................7
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án ............................7
1.1.2. Đặc điểm thẩm sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án .......................................10
1.1.3. Ý nghĩa việc pháp luật quy định về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của
Tòa án .......................................................................................................................13
1.2. Cơ sở của việc pháp luật quy định thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của
Tòa án .......................................................................................................................17
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định thẩm quyền sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án....................................................................................................17
1.3. Lƣợc sử sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam
về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án ...............................................24
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1994 ..........................................................24

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1994 đến 2004...................................................................27
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay.....................................................................28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................30
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH,
THƢƠNG MẠI CỦA TÕA ÁN .............................................................................31


2.1. Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án theo loại việc ....................31
2.1.1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có
đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận ................................32
2.1.2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận .....................................................36
2.1.3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty .................................38
2.1.4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên
Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình
thức tổ chức của công ty ..........................................................................................39
2.1.5. Các tranh chấp khác về KDTM, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật ..............................42
2.2. Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM theo cấp Toà án ...................................43
2.2.1. Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của TAND cấp huyện ..........................45
2.2.2. Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của TAND cấp tỉnh..............................46
2.3. Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án theo lãnh thổ ....................48
2.3.1. Các quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM
của Tòa án theo lãnh thổ .........................................................................................49
2.3.2. Các quy định về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án theo sự lựa

chọn của nguyên đơn ...............................................................................................53
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................56
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN SƠ THẨM VỤ ÁN KINH
DOANH, THƢƠNG MẠI CỦA TÕA ÁN TẠI CÁC TÕA ÁN NHÂN DÂN Ở
TỈNH THANH HÓA VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................57


3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các TAND ở tỉnh Thanh Hóa
...................................................................................................................................57
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các
TAND ở tỉnh Thanh Hóa .........................................................................................57
3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng
mắc trong việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các TAND ở tỉnh Thanh Hóa 60
3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các
TAND ở tỉnh Thanh Hóa ........................................................................................63
3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án .......................................................63
3.2.2. Kiến nghị về thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các TAND ở tỉnh Thanh Hóa 67
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

CHXHCNVN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

KDTM

: Kinh doanh, thƣơng mại

LDN

: Luật doanh nghiệp

LTCTAND

: Luật tổ chức Tòa án nhân dân

LTM

: Luật thƣơng mại

PLTTGQCVAKT


: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

TAND

: Tòa án nhân dân

TCTD

: Tổ chức tín dụng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động KDTM của các chủ thể
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những tác động
cũng như đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, khi
những hoạt động này diễn ra sẽ không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp
phát sinh do nhiều nguyên nhân. Bởi lẽ, một xã hội có nền kinh tế đã và đang phát
triển chắc chắn sẽ kéo theo tình trạng tranh chấp về KDTM xảy ra ngày càng nhiều,
không những phức tạp về tính chất mà còn đa dạng về nội dung. Do đó, vụ án
KDTM là một hệ quả tất yếu của quá trình vận động các nguồn lực của các cá nhân,
tổ chức vào hoạt động KDTM. Khi có tranh chấp xảy ra, cần có cơ chế giải quyết
tranh chấp để mở đường cho sự hợp tác và phát triển.
Để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong KDTM, Nhà nước ta đã không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đồng thời thông qua các cơ quan chức năng
của Nhà nước hoặc các tổ chức được pháp luật thừa nhận để giải quyết các tranh
chấp, mâu thuẫn. Trong đó, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp quan trọng
và phổ biến nhất ở Việt Nam. Trong hệ thống TAND thì Tòa kinh tế - Toà chuyên
trách được thành lập theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (LTCTAND) năm 2014 có

chức năng giải quyết các tranh chấp KDTM.

Ngày 25/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS) năm 2015 thay thế BLTTDS năm 2004, theo đó thẩm quyền sơ
thẩm vụ án KDTM của Tòa án được quy định có nhiều thay đổi theo hướng
Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện được giải quyết hầu hết các tranh chấp
KDTM. Quá trình thực hiện Bộ luật này để giải quyết các vụ án KDTM, bên
cạnh những thuận lợi, kết quả đạt được thì do nhiều nguyên nhân khác nhau
việc giải quyết các vụ án KDTM của các Tòa án cũng bộc lộ một số hạn chế,
vướng mắc. Tỷ lệ bản án KDTM sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy,
sửa hàng năm vẫn còn chiếm tỷ lệ tương đối cao. Việc tiếp tục nghiên cứu

1


một cách toàn diện thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án là rất cần
thiết. Vì vậy, Học viên đã lựa chọn đề tài: “Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM
của Toà án từ thực tiễn tại các Toà án ở tỉnh Thanh Hoá” làm luận văn thạc
sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, đến thời điểm hiện tại đã có một số công trình nghiên cứu
về các vấn đề liên quan đến thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án,
bao gồm các công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, cấp bộ; các sách
chuyên khảo; các luận văn, luận án và các bài viết công bố trên các tạp chí
chuyên ngành luật. Trong đó, phải kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu
sau đây:
- Sách chuyên khảo: “Trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự,
KDTM, lao động, hôn nhân và gia đình” của tác giả Hà Thị Mai Hiên, Nhà
xuất bản Công an nhân dân năm 2008;

- Sách chuyên khảo: “Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015”, sách
chuyên khảo, Bùi Thị Huyền (chủ biên), Nhà xuất bản Lao động, năm 2016;
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM
theo thủ tục tố tụng Tòa án ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Trang,
bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013;
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM - Thực tiễn
giải quyết tại TAND huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội” của tác giả Tưởng
Thị Lan, bảo vệ tại Khoa luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014;
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Toà
án về giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại” của tác giả Nguyễn Thị
Hiên, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014;
- Bài: “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp công ty của Tòa án” của tác
giả Nguyễn Thị Vân Anh đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2007;
- Bài: "Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh
2


chấp KDTM tại Tòa án" của tác giả Triệu Thị Quỳnh Hoa đăng trên tạp chí
TAND số 19/2012 v.v..
Mỗi công trình nghiên cứu nêu trên đề cập đến thẩm quyền sơ thẩm vụ
án KDTM của Tòa án dưới phương diện, ở các góc độ khác nhau và cũng đã
giải quyết được một số vấn đề riêng biệt. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có
một công trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện
về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án từ thực tiễn tại các Toà án ở
tỉnh Thanh Hoá.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ được một số vấn đề lý
luận về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án, thực trạng và thực tiễn
thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền sơ
thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các TAND ở tỉnh Thanh Hóa và đề xuất các

kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các
TAND ở tỉnh Thanh Hóa.
Để đạt được những mục đích nghiên cứu nêu trên, việc nghiên cứu đề
tài có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền sơ
thẩm vụ án KDTM của Tòa án;
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện nay về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án, nhận diện được các
bất cập của chúng;
- Khảo sát, tìm hiểu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện nay về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các TAND
ở tỉnh Thanh Hóa, nhận diện được những vướng mắc và nguyên nhân của
những vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện nay về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các TAND ở
3


tỉnh Thanh Hóa,;
- Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về thẩm quyền sơ thẩm vụ
án KDTM của Tòa án tại các TAND ở tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về thẩm quyền sơ
thẩm vụ án KDTM của Tòa án, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay
về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM và thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện nay về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
tại các TAND ở tỉnh Thanh Hóa.
Đề tài “Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Toà án từ thực tiễn tại
các Toà án ở tỉnh Thanh Hoá” có nội dung nghiên cứu rộng. Tuy nhiên, trong

khuôn khổ của luận văn thạc sĩ luật học việc nghiên cứu chỉ tập trung vào một
số nội dung sau đây:
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM
của Tòa án như khái niệm và đặc điểm thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của
Tòa án; ý nghĩa của việc pháp luật quy định thẩm quyền sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án; cơ sở ủa việc pháp luật quy định thẩm quyền sơ thẩm vụ
án KDTM của Tòa án;
- Các quy định của BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án;
- Thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS năm 2015 về thẩm
quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các TAND ở tỉnh Thanh Hoá
trong những năm gần đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cớ sở phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và
4


xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Ngoài ra, để nghiên cứu đề tài
Học viên cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền
thống như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thực tiễn v.v..để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đã luận giải và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm
sơ thẩm vụ án KDTM như khái niệm và đặc điểm của thẩm quyền sơ thẩm vụ
án KDTM của Toà án; ý nghĩa của việc pháp luật quy định thẩm quyền sơ
thẩm vụ án KDTM của Toà án; cơ sở pháp luật quy định thẩm quyền sơ thẩm
vụ án KDTM của Toà án.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thẩm quyền sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án và thực tiễn thực hiện chúng tại các TAND ở tỉnh Thanh
Hóa đồng thời phát hiện được những vướng mắc cũng như nguyên nhân của
những vướng mắc từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực
hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án tại các TAND ở tỉnh Thanh Hóa.
- Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc giảng dạy của các cơ
sở đào tạo luật, nghiên cứu hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự và áp dụng
pháp luật tố tụng dân sự trong giải quyết sơ thẩm các vụ án KDTM của các
TAND.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành các chương sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM
của Tòa án.
Chƣơng 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án.
5


Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án tại các Tòa án ở
tỉnh Thanh Hoá và kiến nghị.

6


Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN SƠ THẨM
VỤ ÁN KINH DOANH, THƢƠNG MẠI CỦA TÕA ÁN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc pháp luật quy định

thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
Tranh chấp được hiểu là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng (tranh cãi); sự
mâu thuẫn về các quyền yêu cầu hay quyền, sự đòi hỏi về quyền, yêu cầu hay
đòi hỏi từ một bên được đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược của
bên kia [49. Hiện nay ở Việt Nam chưa có cách hiểu chuẩn xác và thống nhất
về tranh chấp KDTM. Việc xác định phạm vi của tranh chấp KDTM được coi
là vụ án KDTM chủ yếu căn cứ vào luật thực định. Theo khoản 16 Điều 4
Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2014 thì: “Kinh doanh là việc thực hiện liên
tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tƣ từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng nhằm mục đích
sinh lợi” [29, Điều 4]. Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại (LTM) năm 2005
định nghĩa: “Hoạt động thƣơng mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” [30, Điều 3].
Khái niệm kinh doanh theo LDN năm 2014 và khái niệm thương mại
theo Luật thương mại năm 2005 về cơ bản là tương thích với nhau và cũng
phù hợp với khái niệm thương mại theo luật mẫu về thương mại điện tử của
UNCITRAL: “Thuật ngữ thƣơng mại đƣợc diễn giải theo nghĩa rộng để bao
quát các vấn đề nảy sinh từ mọi quan hệ thƣơng mại, dù có hay không có hợp
đồng. Các mối quan hệ mang tính thƣơng mại bao gồm nhƣng không phải chỉ
bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thƣơng mại nào về cung
cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại
diện hoặc đại lý thƣơng mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng
các công trình; đầu tƣ; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác
7


hoặc tô nhƣợng; liên doanh hoặc các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc
kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đƣờng biển, đƣờng

không, đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ” [45]. Với cách định nghĩa này hoạt động
kinh doanh và hoạt động thương mại có nhiều nội hàm trùng nhau như về
mục đích sinh lợi, về đầu tư, về cung ứng dịch vụ, về tiêu thụ sản phẩm…
Như vậy, có thể quan niệm vụ án KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng giữa
các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực hiện liên tục một, một số hoặc toàn
bộ quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng các dịch vụ
trên thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. Nói một
cách ngắn gọn hơn, có thể định nghĩa vụ án KDTM là những mâu thuẫn, bất
đồng về quyền lợi giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động KDTM.
Cách định nghĩa trên có hạn chế là tuy chỉ ra được bản chất của vụ án
KDTM là mâu thuẫn về quyền lợi phát sinh khi tham gia hoạt động KDTM
nhưng lại không cho thấy biểu hiện của nó. Trong quan hệ kinh doanh, giữa
các bên luôn tồn tại đồng thời hai mối quan hệ vừa xung đột, vừa hợp tác. Để
xác định chính xác khi nào những xung đột lợi ích này chuyển thành tranh
chấp thì cần phải dựa vào những dấu hiệu biểu hiện của nó. Dấu hiệu đó là
khi một bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm yêu cầu phía
bên kia khắc phục nhưng không nhận được sự đồng ý. Vì vậy, theo cách này,
còn có một cách định nghĩa khác đó là “vụ án KDTM xảy ra khi một bên
trong quan hệ KDTM khẳng định một trái quyền mà lại bị bên khác chống
lại.”
Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề
theo pháp luật [50, tr922]. Về mặt khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là
tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ
chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Thẩm quyền là
giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể nhất định (cá nhân, tổ chức) và
được quyết định khi thực hiện các hoạt động thuộc thẩm quyền. Thẩm quyền
8


gắn liền với bộ máy nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền khi thực hiện các

hoạt động trong phạm vi, quyền hạn.
Thẩm quyền của Tòa án được quy định trong Hiến pháp năm 2013,
LTCTAND năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, BLTTDS năm
2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015 và các văn bản pháp luật khác. Theo
quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Toà án là cơ quan xét xử
duy nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN),
chức năng xét xử của Toà án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao
trùm và xuyên suốt quá trình hoạt động của Toà án. Điều 122 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phƣơng,
các Toà án Quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử
của nƣớc CHXHCNVN” [23, Điều 122]; khoản 2 Điều 2 LTCTAND năm
2014 quy định: “Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy
định của pháp luật” [24, Điều 3].
Qua các quy định này cho thấy, thẩm quyền của Tòa án được pháp luật
quy định với những cấp độ và nội dung khác nhau. Cụ thể: Thẩm quyền của
Tòa án là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc thực hiện pháp luật mà
trọng tâm là công tác xét xử các loại vụ án theo quy định của pháp luật. Theo
đó tùy thuộc vào quyền hạn do luật định, Tòa án các cấp, các Tòa án khác
nhau trong hệ thống Tòa án, có phạm vi quyền hạn khác nhau trong việc xét
xử các loại vụ án. Giới hạn thẩm quyền căn cứ vào nhu cầu điều chỉnh pháp
luật từ thực tiễn khách quan, khả năng điều kiện của các Tòa án trong việc
thực thi nhiệm vụ cũng như hiệu quả của hoạt động đó.
Sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, là lần xét xử thứ nhất của Tòa án. Thẩm
quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án là việc Tòa án xem xét để giải quyết một vụ
việc dân sự có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam theo thủ tục
sơ thẩm hay không và Tòa án nào sẽ thụ lý giải quyết.
9



Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án là một trong những chế
định quan trọng góp phần xác định Tòa án nào có quyền thụ lý và giải quyết
các vụ việc dân sự, là một bộ phận cấu thành nên thẩm quyền dân sự của Tòa
án. Do đó, nếu đặt khái niệm thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
trong mối tương quan với khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án thi khái
niệm “thẩm quyền dân sự của Tòa án” là khái niệm gốc, còn khái niệm “thẩm
quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án” là khái niệm phái sinh từ khái niệm
đó. Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án là một loại thẩm quyền dân
sự chuyên biệt thuộc thẩm quyền dân sự chung của Tòa án, mang hai nội
dung chính là quyền hành động và quyền quyết định của Tòa án trong giải
quyết các tranh chấp KDTM.
Từ những vấn đề nêu trên có thể đi đến kết luận: “Thẩm quyền sơ thẩm
vụ án KDTM của Tòa án là quyền hành động và quyền quyết định giải quyết
các tranh chấp KDTM của cấp xét xử Tòa án thứ nhất.”
1.1.2. Đặc điểm thẩm sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
Thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án là một loại thẩm quyền
dân sự cụ thể của Tòa án. Vì vậy, trước hết nó mang những đặc điểm chung
của thẩm quyền dân sự của Tòa án đó là:
- Phạm vi xem xét và ra quyết định của Tòa án khi giải quyết các vụ án

KDTM được giới hạn bởi yêu cầu của đương sự. Khi giải quyết vụ án KDTM
Tòa án chỉ được xem xét và quyết định trong phạm vi yêu cầu của đương sự,
không được quyền xem xét và ra quyết định vượt quá yêu cầu của đương sự.
- Khác với thẩm quyền hình sự hay thẩm quyền hành chính của Tòa án

được giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc tố tụng hành chính thì thẩm
quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án được thực hiện theo thủ tục tố tụng
dân sự. Vì vậy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung về tố tụng thì Tòa án
khi xem xét, giải quyết các vụ án KDTM phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự
thỏa thuận, quyền tự định đoạt của đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

10


Bên cạnh mang những đặc điểm chung về thẩm quyền dân sự của Tòa
án thì thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án còn thể hiện những đặc
điếm riêng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của vụ án KDTM phát sinh chủ yếu giữa các thương
nhân với nhau. Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 LTM năm 2005: “Thƣơng
nhân bao gồm tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên và có đăng ký kinh doanh” [30,
Điều 6]. Trên cơ sở đó, thương nhân mang những đặc điểm riêng biệt là chủ
thể phải thực hiện hành vi thương mại một cách độc lập mang danh nghĩa của
chính mình và vì lợi ích của bản thân mình. Đồng thời, thương nhân phải có
năng lực hành vi thương mại và có đăng ký kinh doanh.
Năng lực hành vi thương mại của thương nhân là khả năng của thương
nhân bằng những hành vi của chính bản thân mình để xác lập và thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng căn cứ đầu
tiên để Tòa án phân biệt giữa vụ án KDTM với tranh chấp dân sự, tranh chấp
hôn nhân - gia đình và tranh chấp lao động là những tranh chấp phát sinh chủ
yếu giữa các thương nhân với nhau và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án cấp huyện hoặc Tòa Kinh tế thuộc Toà án cấp tỉnh.
Thứ hai, nếu như các tranh chấp về dân sự là những mâu thuẫn, bất
đồng, phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, tranh chấp hôn nhân - gia đình;
tranh chấp lao động phát sinh từ quan hệ pháp luật lao động thì vụ án KDTM
là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
phát sinh từ hoạt động thương mại. Pháp luật Việt Nam đã quy định hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác. Theo đó, các hoạt động thương mại này phải
được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh lợi. Đây là đặc điểm

mà dựa vào đó để chúng ta có thể phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động
11


thương mại với hành vi dân sự. Và nếu một hành vi được thực hiện nhằm mục
đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân thì đó là hành vi dân sự; ngược lại, cũng là
hành vi đó nhưng được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi thi đó là hoạt động
thương mại.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật Việt Nam, một vụ án KDTM phát
sinh thì các bên tranh chấp có quyền khởi kiện ra Tòa án hoặc yêu cầu Trọng
tài thương mại giải quyết theo các thủ tục tố tụng khác nhau. Vì vậy, cần phải
có cơ sở để phân định thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án và Trọng
tài thương mại. Cơ sở để phân định thẩm quyền đó chính là thỏa thuận Trọng
tài giữa các bên tranh chấp.
Tại Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định tranh chấp KDTM
được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận Trọng tài. Trong
trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận Trọng tài mà một bên khởi
kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận Trọng
tài vô hiệu hoặc thỏa thuận Trọng tài không thể thực hiện được [32, Điều 5,6].
Do đó, một tranh chấp được coi là tranh chấp phát sinh từ hoạt động KDTM
thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài khi đáp ứng hai điều kiện: Một là,
tranh chấp phát sinh từ hoạt động KDTM và hai là, các bên hoặc ít nhất một
bên phải tham gia hoạt động KDTM nghĩa là ít nhất một bên phải có đăng ký
kinh doanh và có mục đích lợi nhuận. Việc quy định như trên nhằm mục đích
tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên, tránh được sự chồng chéo về thẩm
quyền giải quyết các vụ án KDTM giữa Trọng tài và Tòa án. Vì vậy, trong
trường hợp các bên đã có thỏa thuận Trọng tài để giải quyết tranh chấp thì về
nguyên tắc, Trọng tài sẽ tiến hành giải quyết vụ tranh chấp cho các bên theo
thủ tục tố tụng Trọng tài.
Thứ tƣ, vụ án KDTM là những xung đột, mâu thuẫn về quyền và nghĩa

vụ của các bên phát sinh trong hoạt động KDTM. Trong khi đó, việc về
KDTM cũng phát sinh trong hoạt động KDTM nhưng là việc các cá nhân, cơ
12


quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ KDTM
của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác hoặc yêu cầu Tòa án công
nhận cho mình quyền về KDTM. Do vậy, việc về KDTM có đặc điểm khác
biệt so với vụ án KDTM đó là các bên trong quan hệ không có tranh chấp và
một bên đưa ra yêu cầu công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ về KDTM cho mình. Trên cơ sở đó, việc về
KDTM được tiến hành theo thủ tục đơn giản hơn và đó là thủ tục giải quyết
việc dân sự.
Như vậy, thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án với vai trò là
một bộ phận cấu thành nên thẩm quyền dân sự của Tòa án ngoài mang những
đặc điểm chung về thẩm quyền dân sự của Tòa án nó còn thể hiện những đặc
điểm riêng biệt. Do đó, việc nhận dạng các đặc điểm này có ý nghĩa quan
trọng cá về mặt lý luận và thực tiễn đối với các cấp Tòa án khi xác định vụ
tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không.
1.1.3. Ý nghĩa việc pháp luật quy định về thẩm quyền sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án
Để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói chung, vụ án KDTM nói riêng,
Tòa án phải dựa vào yêu cầu cụ thể của người khởi kiện để xác định quan hệ
pháp luật mà đương sự tranh chấp. Từ đó, đối chiếu với các quy định về thẩm
quyền của BLTTDS để xác định yêu cầu khởi kiện của đương sự có thuộc
thẩm quyền của Tòa án hay không. Việc xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung (điều
chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên) trong việc giải quyết yêu cầu của
đương sự.

Tuy nhiên, thực tiễn xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về KDTM
không hề dễ dàng bởi các lý do sau: (1) Tùy từng thời kỳ phát triển khác nhau
mà cơ quan lập pháp quy định một số quan hệ xã hội cần được điều chỉnh
bằng quy phạm kinh doanh, thương mại; một số quan hệ xã hội khác không
13


phải cứ có tranh chấp sẽ dễ dàng xác định được quan hệ pháp luật tranh chấp
về kinh doanh, thương mại; (2) Cùng một quan hệ xã hội nhưng lại thuộc
phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Mặc dù, mỗi ngành luật
đều có những quy định để phân biệt quan hệ pháp luật nào thuộc ngành luật
nào điều chỉnh như về chủ thể tham gia quan hệ, mục đích chủ thể, đối tượng
của giao dịch… nhưng việc phân biệt cũng không hề dễ dàng; (3) Một số văn
bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về KDTM có quy định phạm vi các
giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh nhưng lại quy định một cách chung
chung, mang tính mở nên khi có tranh chấp xảy ra để xác định chúng có thuộc
phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật này hay không cũng gây
ra những khó khăn, vướng mắc nhất định; (4) Một số trường hợp do văn bản
quy phạm pháp luật nội dung về KDTM không xác định rõ giao dịch thuộc
phạm vi điều chỉnh của mình nên để xác định cần dựa vào pháp luật tố tụng
dân sự. Bên cạnh việc quy định thẩm quyền theo vụ việc, pháp luật tố tụng
dân sự còn quy định thẩm quyền theo lãnh thổ để phân chia việc giải quyết án
giữa Tòa án các cấp, giữa các Tòa chuyên trách với nhau được tương xứng
nhưng trong nội dung hướng dẫn thẩm quyền theo lãnh thổ lại giải thích thêm
thẩm quyền theo vụ việc.
Để xác định đúng thẩm quyền sơ thẩm Tòa án trong giải quyết các vụ
án KDTM, Tòa án phải xác định cho được yêu cầu của đương sự thuộc nhóm
quan hệ vụ án KDTM trong quan hệ tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) để từ
đó có sự phân định thẩm quyền giữa Tòa án với cơ quan tài phán khác (Trọng
tài), với cơ quan hành chính (Ủy ban nhân dân) hay giữa các Tòa án với nhau.

Trong luận văn này, Học viên chỉ làm rõ một số vấn đề có liên quan đến quy
định của pháp luật tố tụng dân sự trong việc xác định quan hệ pháp luật vụ án
KDTM và thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án đối với loại tranh chấp này, nêu
lên một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện.
Khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp
14


xảy ra bởi tranh chấp đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của họ, làm gián đoạn quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi phí và công sức
để giải quyết tranh chấp. Không những thế còn liên quan đến chủ thể khác có
quan hệ với các bên tranh chấp, uy tín của chủ thể trên thương trường có thể
bị ảnh hưởng, cũng như các yếu tố khác thuộc về bí mật kinh doanh có thể bị
tiết lộ hoặc bị lợi dụng...
Giải quyết tranh chấp KDTM kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho
phép hạn chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng
như đặt ở mức chi phí thấp nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách
có hiệu quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào kinh
tế thương mại.
Giải quyết tốt tranh chấp KDTM thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung và quan
hệ kinh tế thương mại nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp luật, phải
đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra
bằng cách đặt ra các chế định và chế tài tạo thành một "sân chơi" lành mạnh
và công bằng. Khi tranh chấp xảy ra phải có các thủ tục, biện pháp để giải
quyết, nếu không giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và thiệt
hại rất lớn. Điều đó không những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền kinh tế
mà còn gây nên một khuyết điểm lớn của môi trường kinh doanh, các chủ thể
sau tranh chấp có thể "quay lưng" lại với nhau đố kỵ và không tin tưởng lẫn

nhau. Một tâm lý yên tâm làm ăn kinh tế, mạnh dạn đầu tư sẽ góp phần cải
thiện nền kinh tế.
Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp KDTM còn có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các
doanh nghiệp, vừa góp phần tạo môi trường pháp lý có kỷ cương. Trong sản
xuất kinh doanh tạo niềm tin, thực hiện công bằng và bình đẳng cho các
doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, thực hiện sản xuất kinh doanh có
hiệu quả.
15


Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, bên cạnh các tranh
chấp KDTM được giải quyết bàng Tòa án thì các tranh chấp KDTM còn có
thể được giải quyết bằng Trọng tài thương mại. Nguyên tắc thẩm quyền giải
quyết theo vụ việc cho thấy, các tranh chấp KDTM nào thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án và phân biệt vụ án KDTM với tranh chấp dân sự, tranh chấp
hôn nhân và gia đình và tranh chấp lao động. Chính vì vậy, việc quy định rõ
vụ án KDTM thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án có ý nghĩa quan trọng
trong thực tiễn giải quyết loại tranh chấp này, đó là:
- Quy định về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án một cách
hợp lý, khoa học sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ giữa các Tòa chuyên trách trong cùng một Tòa án và giữa các Thẩm
phán với nhau. Từ đó, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho Tòa án giải quyết
nhanh chóng và đúng đắn các tranh chấp, đảm bảo tính hiệu quả trong việc
giải quyết các vụ án KDTM của Tòa án.
- Quy định về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án một cách
hợp lý, khoa học góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia
tố tụng. Trong quá trình thực hiện các hoạt động KDTM việc tranh chấp giữa
các cá nhân, tổ chức phát sinh trong quá trình này là điều khó tránh khỏi.
Trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại và các bên không thể

tự bảo vệ quyền lợi của mình thì có quyền khởi kiện đến Tòa án và yêu cầu
Tòa án giải quyết. Vì vậy, việc quy định rõ thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM
của Tòa án sẽ giúp cho các đương sự xác định đúng Tòa án để gửi đơn, tránh
tình trạng đương sự không xác định được Tòa án có thẩm quyền để giải quyết
hoặc gửi đơn đến nhiều Tòa án gây mất thời gian và những chi phí không
đáng có.
- Bên cạnh đó, việc quy định về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của
Tòa án còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính chuyên sâu và
thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ cán bộ Tòa án.
Điều cần thiết để Tòa án có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là
16


cần phải có một đội ngũ nhân lực tức là đội ngũ Thẩm phán không chỉ giỏi về
trình độ chuyên môn và cũng cần phải có kinh nghiệm trong nghiệp vụ công
tác. Do đó, khi phân định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án trong việc giải
quyết các vụ án KDTM giúp cho mỗi Thẩm phán xác định rõ được vị trí, vai
trò của bản thân và có thể vận dụng tốt kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ
xét xử cần thiết để giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, từ đó góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ngoài ra, việc quy định về thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa
án cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc xác định pháp luật nội dung để áp
dụng. Các quan hệ pháp luật phát sinh trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân - gia
đình, KDTM và lao động đều có cùng tính chất là điều chỉnh các quan hệ tài
sản và quan hệ nhân thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận và
tự định đoạt của đương sự. Xét về tính chất, các quan hệ pháp luật này hoàn
toàn khác biệt so với các quan hệ pháp luật hình sự hay quan hệ pháp luật
hành chính mang nặng yếu tố quyền lực, phục tùng. Thông thường Toà án
phải dựa vào pháp luật nội dung để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp
tương ứng thuộc lĩnh vực nào và từ đó xác định thẩm quyền của Toà án. Tuy

nhiên, việc xác định rõ ràng các vụ án KDTM thuộc thẩm quyền sơ thẩm của
Toà án và ghi nhận cụ thể trong pháp luật tố tụng dân sự sẽ thuận lợi hơn cho
Toà án khi lựa chọn pháp luật nội dung được áp dụng để giải quyết vụ việc.
1.2. Cơ sở của việc pháp luật quy định thẩm quyền sơ thẩm vụ án
KDTM của Tòa án
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định thẩm quyền sơ thẩm
vụ án KDTM của Tòa án
Việc pháp luật quy định thẩm quyền sơ thẩm vụ án KDTM của Tòa án
trước hết dựa trên những cơ sở lý luận sau đây:
Một là, căn cứ vào tính chất của loại quan hệ pháp luật KDTM cần giải
quyết.

17


×