Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Đề cương ôn tập có đáp án môn Đường lối cách mạng của D(CSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.91 KB, 35 trang )

Hoang Le
QH17

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


1. Chứng minh sự ra đời của cương lĩnh chính trị đầu tiên mang tính
khoa học, tính cách mạng và tính đúng đắn
2. Chứng minh sự ra đời của Đảng là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mac –
Lenin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Sự ra đời cua
̉ Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3–2–1930 không phải là một hiện tượng ngẫu
nhiên, mà là kết quả của sự tác động, vận động và phát triển tất yếu của ba nhân tố k ết
hợp : chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu n ước Vi ệt Nam. Chủ
nghĩa Mác Lênin trang bị lí luận, chỉ ra mục tiêu, lí tưởng, nhi ệm vụ, ph ương pháp khoa học,
soi đường dẫn lối cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động tiến hành đấu tranh cách
mạng xoá bỏ chế độ xã hội cũ, chế độ người áp bức bóc lột người và xây dựng xã hội m ới,
xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác Lênin còn chỉ ra : Trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù giai cấp và trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân cần
phải lập ra Đảng vô sản của mình, Đảng đó phải là bộ tham mưu, đội tiên phong của giai
cấp công nhân, trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và dân t ộc, Đảng đó ph ải là
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác Lênin được truyền bá, thâm nh ập
vào Việt Nam trở thành nhân tố quan trọng dẫn tới sự ra đời của Đảng.
+ Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân t ộc Vi ệt
Nam : cứu nước theo con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin. Từ năm 1921 đến
1930, Người đã tích cực hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam. Nh ờ
những đóng góp thiết thực của Người : xuất bản báo chí, viết bài, báo cáo tham lu ận... đặc
biệt là hai tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp và Đường Kách mệnh nh ững tư
tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin đã ngày càng được thâm nhập rộng rãi vào Việt Nam.
Thông qua việc sáng lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và các hoạt động của


nó, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện được việc truyền bá và giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin cho
quần chúng lao động và giai cấp công nhân Việt Nam.
+ Qua đó, vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin đã được thể hiện : những tư tưởng về cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN đã thức tỉnh những người Vi ệt Nam h ướng
theo con đường cách mạng đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản ; Đảng Cộng sản
là lực lượng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN ; xác định đúng vấn
đề động lực cách mạng, liên minh giai cấp ; vị trí của cách mạng thuộc địa, phương pháp
cách mạng bạo lực... ; đó là cơ sở lí luận cho cương lĩnh cách mạng của Đảng sau này.
Nhờ có chủ nghĩa Mác Lênin mà phong trào công nhân đã chuyển t ừ tự phát sang tự giác.
Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đòi hỏi phải có một chính Đảng duy nh ất và thống
nhất lãnh đạo. Phong trào công nhân là điều kiện cơ bản, quyết định dẫn tới sự ra đời của
Đảng. Đầu thế kỉ XX, giai cấp công nhân Việt Nam đã được hình thành và bước vào trận
tuyến đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào công
nhân chưa trở thành lực lượng riêng biệt, còn hoà lẫn vào phong trào dân tộc. Từ sau Chi ến
tranh thế giới thứ nhất đến 1925, giai cấp công nhân được tăng cường về số lượng và ch ất


lượng, phong trào công nhân đã trưởng thành, xuất hiện những cuộc bãi công lớn đòi các
quyền lợi về kinh tế, chính trị, trở thành lực lượng riêng biệt và bước đầu xuất hi ện những tổ
chức sơ khai. Từ năm 1926 – 1930, do tiếp thu được chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào công
nhân đã phát triển dần lên trình độ tự giác với sự xuất hiện của ba tổ chức c ộng s ản trong
năm 1929 : Sự thống nhất ba tổ chức cộng sản được đặt ra thành một yêu cầu cấp bách
của cách mạng nước ta ; đồng thời đánh dấu bước trưởng thành và chín muồi của m ột
chính Đảng vô sản duy nhất. Như vậy, phong trào công nhân ngày một trưởng thành, đi từ
tự phát đến tự giác là một trong những điều kiện tất yếu dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời con
̀ là do nhu cầu đòi hỏi của phong trào yêu nước Việt
Nam. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta với tinh thần yêu n ước nồng nàn đã
liên tục vùng dậy đánh đuổi đế quốc Pháp để giành độc lập dân tộc.Từ nửa sau thế kỉ XIX

đến đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước tiêu biểu đã xuất hiện : phong trào nông dân và
phong trào Cần vương... Từ năm 1919 đến 1930, phong trào yêu nước Vi ệt Nam phát triển
theo hai khuynh hướng rõ rệt : khuynh hướng tư sản và khuynh hướng vô sản.
(...) Khuynh hướng tư sản : bao gồm các phong trào của giai cấp t ư sản và tiểu tư s ản, tiêu
biểu như : Phong trào chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá, chống độc quyền cảng Sài
Gòn... ; những phong trào mít tinh, biểu tình của tầng lớp tiểu tư s ản : phong trào đòi th ả
Phan Bội Châu, phong trào truy điệu Phan Châu Trinh... và đỉnh cao là cuộc kh ởi nghĩa Yên
Bái do Việt Nam quốc dân đảng phát động... Các phong trào theo khuynh hướng tư s ản di ễn
ra rất sôi nổi, anh dũng nhưng kết quả cuối cùng đều thất bại.
(...) Khuynh hướng vô sản : Do ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và những ho ạt
động truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 1920 – 1930,
phong trào theo khuynh hướng vô sản ngày càng phát triển m ạnh m ẽ, điển hình nh ất là các
hoạt động của các tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách m ạng
đảng, đã có nhiều thanh niên yêu nước được giác ngộ trở thành đảng viên cộng sản.
=> Như vậy, đến cuối năm 1929 đầu 1930, cả ba yếu tố : Chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào
công nhân và phong trào yêu nứớc đã được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự kết h ợp đó đã
tạo điều kiện thuận lợi để Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì ? Tại sao trong thời kì đổi mới
Đảng ta lại chủ trương coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu? Em
hãy phân tích những mặt tích cực và hạn chế trong đường lối này ?
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.



4. Tại sao Đảng chủ trương: Con đường Công nghiệp hóa ở nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Để rút

ngắn thời gian chúng ta cần phải đảm bảo những yêu cầu nào.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội trong khi chưa qua phát triển chủ nghĩa tư bản.
Đây không phải là hiện tượng rút ngắn đầu tiên trong lịch sử phát triển của nhân
loại, nhưng chúng ta là một trong những quốc gia đầu tiên xác định và kiên trì sự
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ nền
kinh tế thuộc địa nửa phong kiến.
Phát triển rút ngắn bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội hay phát triển rút ngắn từng
giai đoạn trong bản thân một hình thái tự thân nó là một quá trình hợp lý và phù hợp
với lịch sử tự nhiên
Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế còn lạc hậu so với thế giới hiện đại, nên để đạt
được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trước mắt là tránh
nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình, đòi hỏi Việt Nam phải tạo ra được sự
phát triển mạnh mẽ, vượt cấp của lực lượng sản xuất. Muốn vậy, điều quan trọng trước
hết là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về mặt kinh tế, có thể nói cốt lõi của
sự phát triển rút ngắn tại Việt Nam, chính là rút ngắn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới đã cho thấy, không ít nền kinh tế đã thực
hiện thành công việc rút ngắn tiến trình công nghiệp hóa như Phần Lan, Nhật Bản và Hàn
Quốc. Nếu như Tây Âu phải đi qua chặng đường gần 5 thế kỷ (vào cuối thế kỷ XIV khởi
đầu chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu), thì với Nhật Bản chỉ mất 100 năm đã sánh ngang với các
quốc gia tư bản Tây Âu về trình độ phát triển kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa
rút ngắn. Với định hướng sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nền kinh tế chậm phát triển
với mục tiêu đặt ra đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, rõ ràng cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, thực hiện phát triển rút ngắn. Và
trong thời đại toàn cầu hóa, tri thức hóa nền kinh tế hiện nay, công nghiệp hóa phải gắn
với hiện đại hóa và dựa trên nền kinh tế tri thức.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn đối với Việt Nam hiện nay không chỉ là rút ngắn
thời gian của quá trình vươn lên trình độ hiện đại của thế giới mà còn phải có phương
thức phù hợp cho phép đi tắt đón đầu, thông qua các bước quá độ, hoặc vượt qua một số
bước tuần tự để đi thẳng lên hiện đại. Quá trình rút ngắn này phải bảo đảm chất lượng,
hiệu quả trong phát triển, tức là phải bảo đảm tính bền vững trong phát triển. Để rút ngắn

thời gian, đương nhiên phải tạo được tốc độ phát triển nhanh. Phát triển nhanh trên cơ sở
huy động các nguồn lực nội tại và tận dụng các cơ hội thông qua giao lưu hội nhập quốc
tế. Chỉ có phát triển nhanh mới bảo đảm thu hẹp khoảng cách với các nước hiện có trình
độ phát triển hơn chúng ta. Trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển cần tránh khuynh
hướng “say tốc độ”, tức là tăng trưởng mà không chú ý đến hiệu quả.
Cùng với tốc độ phát triển, cần có phương thức phù hợp tìm ra con đường đi tắt mới bảo
đảm nhanh chóng theo kịp các nước đi trước. Chẳng hạn về mặt công nghệ có thể thông
qua hình thức du nhập công nghệ, trên cơ sở đó tiếp cận các công nghệ hiện đại, tạo ra sự
phát triển nhanh và mạnh của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó tiếp cận các hình thức tổ


chức sản xuất tiên tiến phù hợp với sự phát triển mới của sức sản xuất, tạo cơ sở cho việc
hạ giá thành và nâng cao hơn năng xuất lao động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh là cơ
sở để giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường… Song cũng chính do tăng trưởng nhanh
đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội như bất bình
đẳng, ô nhiễm môi trường… Như vậy cần có cơ chế bảo đảm cho việc đi liền với tăng
trưởng phải bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện môi trường. Nói cách khác,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn nhưng bền vững. Bền vững về cả kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, môi trường và con người

5. Hãy lý giải tại sao Đảng ta tiến hành đồng thời 2 quá trình CNH HĐH.
Theo em VN cần phải làm gì để bắt kịp trình độ phát triển của các
nước trên TG.
6. Chứng minh kinh tế thị trường định hướng xhcn là con đường phát
triển tất yếu để đưa nước ta tiến tới mục tiêu dân giàu nc mạnh, dân
chủ công bằng văn minh ?
7. Thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xhcn? Có ý kiến cho
rằng kt thị trg định hướng xhcn là sự gán ghép chủ quan giữa kt thị
trg và cnxh. E hãy bình luận ý kiến trên? Theo e đó là sự gắn kết chủ
quan hay là động lực của sự pt

Đảng ta đã thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò
chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để
giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Kinh tế thị trường và CNXH hoàn toàn không mâu thuẫn nhau. Kinh tế thị trường không phải là cái riêng
có của chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu chung của nhân loại, nó được tồn tại và phát triển qua các
phương thức sản xuất khác nhau. Dưới chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường được coi là mục tiêu. Vì vậy,
họ lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh,
chiếm đoạt lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Vai trò của chủ nghĩa tư bản trong cơn lốc toàn cầu hóa kinh
tế đã đe dọa lợi ích đến tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới. Tự cho mình quyền tự do chiếm đoạt, tự
do xâm lược, tự do bóc lột, tự do khủng bố, tự do phân biệt chủng tộc…Bất chấp tất cả miễn sao chiếm


đoạt được nhiều lợi nhuận. Đối với chúng ta coi kinh tế thị trường là phương tiện, cách thức để xây dựng
cơ sở vật chất cho CNXH gắn chặt với việc không ngừng nâng cao đời sống toàn diện của nhân dân,
tuyệt nhiên không phải là mục đích giành lấy lợi nhuận tối đa bằng mọi giá như CNTB đã làm. Vậy thì
kinh tế thị trường và CNXH làm gì có mâu thuẫn.
Thực chất của quan điểm này chính là tìm mọi cách để phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước,
tuyệt đối hóa kinh tế tư nhân, xóa bỏ định hướng XHCN, tiến tới xóa bỏ CNXH ở nước ta. Nếu không có
kinh tế Nhà nước đủ mạnh thì lấy gì để hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác vươn lên đứng vững
trong cạnh tranh với các đối tác nước ngoài xây dựng một nền kinh tế phát triển thống nhất trong đa
dạng, hội nhập toàn cầu hiện nay ở nước ta. Ngay cả các nước tư bản chủ nghĩa, kinh tế Nhà nước luôn

đóng vai trò là “ bà đỡ”, “người cứu tử” đối với các doanh nghiệp khi họ rơi vào tình trạng khó khăn, có
nguy cơ sụp đổ, làm chao đảo nền kinh tế quốc dân như: (Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…) trong những năm
gần đây, đã không dưới hai lần Nhà nước của các quốc gia này phải dùng sức mạnh kinh tế của mình để
cứu lấy hàng trăm công ty trên các lĩnh vực kinh tế quan trọng của họ lâm vào cảnh phá sản, đổ vỡ trước
“cơn bão tài chính” năm 2008 và các vụ thăng trầm của thị trường chứng khoán thế giới những năm qua.
Đối với Việt Nam, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước luôn luôn
khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế cùng phát triển, hợp tác cạnh tranh
bình đẳng. Xin hỏi ông Do: hãy đánh giá một cách vô tư xem đã có mấy doanh nghiệp tư nhân trong
nước hay nước ngoài đầu tư vào phát triển các ngành kinh tế thuộc kết cấu hạ tầng quan trọng như các
nhà máy thủy điện ở vùng sâu, vùng xa. Khi hàng loạt “cơn sốt ác tính” của thị trường bất động sản, xi
măng, sắt thép… đồng loạt bùng phát, tưởng như không vượt qua, có nguy cơ tàn phá kinh tế đất nước,
trước nguy cơ đó đã có mấy ông kinh tế tư nhân ra tay cứu trợ, nếu không phải là kinh tế Nhà nước gánh
vác thành công trọng trách đầy cam go đó. Trong việc giải quyết những vấn đề xã hội ở tầm vĩ mô, có
ông kinh tế tư nhân nào sẵn sàng vô tư nhảy vào làm những việc cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự tàn phá
khốc liệt của thiên tai không ? Trên thực tế, việc đó chỉ có thể được giải quyết tốt, khi kinh tế Nhà nước
chủ động ra tay giải quyết. Vậy thì tại sao “vai trò chủ đạo lại không thuộc về kinh tế Nhà nước”

Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là sự gán ghép chủ quan giữa
kinh t ế thị tr ường và CNXH, mà là s ự n ắm b ắt và v ận d ụng xu th ế v ận động khách quan
của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay.
Th ực tiễn đã cho th ấy, nh ững ph ương án và mô hình phát tri ển kinh t ế thị tr ường khác
nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác định, hoàn cảnh phát tri ển c ụ
thể của quốc gia - dân tộc.
Một quốc gia đi sau không nh ất thi ết ph ải v ận d ụng c ứng nh ắc các nguyên lý lý lu ận; c ũng
không nh ất thi ết ph ải r ập khuôn các mô hình kinh t ế thị tr ường có s ẵn ở đâu đó, dù là mô
hình hiệu quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc thù của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và s ự
khái quát, đúc rút kinh nghi ệm phát tri ển kinh t ế thị tr ường th ế gi ới, đặc bi ệt là t ừ th ực ti ễn
xây dựng CNXH ở Việt Nam để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị tr ường định
h ướng XHCN, nh ằm s ử d ụng kinh t ế thị tr ường để th ực hi ện m ục tiêu t ừng b ước quá độ

lên CNXH.
Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh t ế thị tr ường. N ếu
nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, thì kinh tế thị trường định hướng XHCN là “cái đặc
thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.


8. Phân tích những mặt tích cực và hạn chế của cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp? Thế nào là kt thị trg định hướng xhcn?
Hãy phân tích để làm rõ tính định hg xhcn trg kt thị trg ở VN?


Theo chúng tôi, nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam được thể hiện như sau:
- Phát triển kinh tế thị trường phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất
nước là từng bước quá độ lên chủ ngh ĩa xã hội, làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ”.
Bằng phát triển kinh tế thị trường hiện đại, từng bước tạo lập những cơ sở kinh tế kỹ
thuật cần thiết cho phát triển đất nước theo hướng hiện đại trong nhiều thập niên


tới, trước mắt là đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, đến giữa thế kỷ này trở thành nước công nghiệp hiện đại. Chỉ có trên cơ
sở đó mới làm cho dân giàu, nước mạnh, có điều kiện kinh tế để giải quyết tốt
những vấn đề dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân làm chủ.
- Giải quyết tốt những mối quan hệ lớn trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển
đất nước ở từng giai đoạn quá độ lên chủ ngh ĩa xã hội.
Những mối quan hệ lớn này phải cấu thành những nguyên tắc phản ánh đặc thù
quốc gia trong phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Đó là quan hệ hài hòa giữa đổi mới, ổn định và phát triển đất
nước; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;

giữa giữ vững độc lập, tự chủ trong phát triển và chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế, hợp tác phát triển; giữa tuân thủ tính quy luật và coi trọng tính đặc thù quốc gia
trong phát triển kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng
trưởng kinh tế và thực hiện phân bổ thành quả tăng trưởng bảo đảm tạo động lực,
công bằng và tiến bộ xã hội; giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, văn hóa, bảo
vệ và làm giàu môi trường theo yêu cầu phát triển bền vững.
- Bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá
trình phát triển đất nước nói chung và phát triển kinh tế thị trường hiện đại.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành tố nội tại của mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là cái đặc thù, riêng có của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam và phản ánh sự khác biệt về bản chất so với những nền kinh tế
thị trường khác trên thế giới. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng có bản
lĩnh và trí tuệ đồng thời cũng là nhân tố quan trọng nhất để bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.

9. Tại sao Đảng ta khg định đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng trong
xây dựng và phát triển văn hóa ? Là đội ngũ tri thức hoạt động trg
lĩnh vực kt trg tương lai, a/c cần phải làm gì để phát huy vai trò của
mình trg xd và pt nền vh ?
Trong xu thế phát triển của nhân loại nói chung và của nền kinh tế tri thức nói riêng hiện nay, lao
động trí óc đang ngày càng chiếm ưu thế, lao động chân tay đang thu hẹp dần. Nhiều quá trình
sản xuất ra của cải vật chất xã hội được tự động hóa, tin học hóa, đòi hỏi người sản xuất phải có
trình độ tri thức, chuyên môn cao, làm việc theo phương thức sáng tạo. Do vậy, tầng lớp trí thức
đang phát triển nhanh chóng và chắc chắn sẽ trở thành bộ phận dân cư lớn, không những về số
lượng mà cả vai trò, sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến diễn tiến chính trị, kinh tế, xã hội. Đồng thời,
họ sẽ là những người tạo ra phần lớn nhất của cải xã hội.



Mặt khác, trong nền kinh tế tri thức, ranh giới của tầng lớp trí thức với các giai cấp, tầng lớp
khác trong xã hội cũng không còn tách biệt rõ ràng như trước đây. Đã xuất hiện những bộ phận
của giai cấp công nhân, nông dân và của các tầng lớp khác được trí thức hóa, lao động theo
những đặc điểm của lao động trí thức. Chính vì thế, quan niệm về trí thức và giới trí thức cũng đã
thay đổi, không còn nguyên nghĩa như trước đây, khi mà công nghệ thông tin chưa ra đời.
Cho dù quan niệm về trí thức có thể thay đổi do sự vận động của các điều kiện lịch sử xã hội, thì
trong xã hội thời nào cũng vậy, tầng lớp tri thức đều có 5 vai trò chủ yếu là:
- Tiếp thu và truyền bá tri thức;
- Sáng tạo các giá trị mới của tri thức;
- Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách và biện pháp giải quyết các
vấn đề của xã hội;
- Dự báo phát triển và định hướng dư luận xã hội;
- Tham gia gián tiếp và trực tiếp vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Cùng với những vai trò quan trọng kể trên, tầng lớp trí thức còn là bộ phận người rất nhạy cảm,
có uy tín lớn cũng như tầm ảnh hưởng rộng trong xã hội. Những đặc điểm này của trí thức là do
những điều kiện khách quan và vị trí của tầng lớp trí thức trong xã hội. Trước hết, đây là bộ phận
người có trình độ học vấn cao nhất của xã hội. Họ cũng là những người có điều kiện thuận lợi
trong việc tiếp nhận sớm nhất, nhiều nhất, nhanh nhất những thông tin xã hội. Những lời nói,
hành vi của một cá nhân trí thức, đôi khi có thể ảnh hưởng lớn đến dư luận xã hội, thậm chí có
thể tạo nên những phản ứng phức tạp liên quan đến an ninh trật tự của một địa phương hoặc cả
nước.
Hoạt động của tầng lớp trí thức ngày nay ngày càng gắn bó với thị trường. Kết quả lao động của
trí thức, dưới những hình thức khác nhau đều trở thành hàng hóa. Ngay cả chất xám của trí thức
cũng dần dần bị chi phối, tác động bởi những quy luật thị trường. Đến lượt nó, sự nảy nở của ý
thức thị trường lại kích thích hoạt động sáng tạo của trí thức, góp phần cho sự phát triển của xã
hội và giúp cải thiện đời sống của họ.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức và sự tác động của cơ chế thị trường, vai trò chính
trị, vị trí xã hội, địa vị kinh tế của tầng lớp trí thức cũng đang thay đổi nhanh chóng. Họ không
còn chỉ là người tham mưu, đứng bên lề các tiến trình kinh tế, xã hội, mà đã trực tiếp tham gia và

giữ vai trò quan trọng trong các tiến trình đó. Vì thế, quan niệm về giá trị trong tầng lớp trí thức
ngày càng đa dạng hóa, giàu tính hiện thực hơn.
Như vậy, xét từ tất cả các bình diện như đặc điểm, vai trò, vị trí xã hội đều có thể thấy rằng, việc
xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm nguồn lực
con người cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà nó còn có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong toàn bộ chiến lược xây dựng và phát triển đất nước.


10.
Phân tích quan điểm gắn tăng trưởng kt vs tiến bộ và công
bằng xh trong từng bc và từng chính sách pt
Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, các chỉ tiêu để đo tăng trưởng kinh tế thường
được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP
bình quân đầu người và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. Nội hàm tăng trưởng kinh tế là tăng
lên về số lượng trong một thời gian nhất định, khái niệm này chưa thể hiện đầy đủ chất lượng
của sự tăng trưởng.
Tiến bộ xã hội là sự vận động của xã hội từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ lạc hậu đến văn
minh hiện đại. Tiến bộ xã hội trước hết phải xuất phát từ con người, vì con người và hướng tới sự
tiến bộ của con người. Sự tiến bộ xã hội còn thể hiện ở sự phát triển ngày càng cao hơn của cơ sở
hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và ý thức xã hội.
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan niệm khác nhau của mỗi
giai cấp, mỗi quốc gia. Công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,
công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội. Như vậy,
công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Những thước đo chủ yếu về công bằng xã hội là: Chỉ số phát triển con người (HDI); Đường cong
Lorenz; Hệ số GINI; mức độ nghèo khổ; Mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người...
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa là
tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công

bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội;
tiến bộ, công bằng xã hội là nhân tố động lực để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ,
công bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối lập mà có quan hệ nhân quả với nhau.
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là khát vọng của tất cả các quốc gia và trong
mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mong muốn kép này là hết sức khó khăn và trong thực
tiễn đã có những ý kiến cho rằng có sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã
hội. Giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn luôn là yêu
cầu đặt ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các nước. Bài toán đặt ra hiện nay đối
với các quốc gia là thực hiện tăng trưởng kinh tế trước, sau đó mới thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội hay đặt tiến bộ và công bằng xã hội lên trước, sau đó mới chú trọng cho việc tăng
trưởng kinh tế hay giải quyết hài hòa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội? Thực tế ở
nhiều quốc gia cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công bằng xã hội trước nếu như không
bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục theo hướng phát triển bền vững. Mặt khác, nếu sự
tăng trưởng kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội thì sự tăng
trưởng này cũng không có ý nghĩa. Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm
gia tăng tình trạng bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên mục tiêu tiến bộ


và công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế, kết cục cả mục
tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển Mác Lê-nin trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người khẳng định mục đích xây dựng chủ
nghĩa xã hội là để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Mục tiêu hàng đầu của phát
triển kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, làm cho đời sống
của người dân ngày càng đầy đủ, sung sướng, hạnh phúc. Đời sống vật chất, theo Người, trước
hết giải quyết vấn đề ăn, mặc, nhà ở, chữa bệnh. Đời sống tinh thần, theo Hồ Chí Minh, trước hết
là bảo đảm học hành cho mọi người. Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ trách nhiệm
của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Xuất phát
từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư

bản chủ nghĩa, điều này chi phối quan điểm phân phối. Để bảo đảm tính công bằng trong phân
phối, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phải chí công, vô tư. Người quan tâm đến vấn đề phúc lợi xã
hội, tuy nhiên theo Người, phúc lợi phải gắn với hiệu quả sản xuất. Như vậy, vấn đề tăng trưởng
kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được xem xét trong quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là: Mục đích của xây dựng kinh tế để không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
công bằng xã hội một cách khoa học. Đảng ta cho rằng, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội, không thể có công bằng,
tiến bộ xã hội nếu không dựa trên nền tảng tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội là động lực, điều kiện quan trọng có tác dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng trưởng kinh tế
cao, bền vững. Mỗi bước tiến của tăng trưởng kinh tế gắn với việc từng bước thực hiện mục tiêu
tiến bộ, công bằng xã hội ở từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đại hội X của Đảng khẳng
định: "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề
xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua
phúc lợi xã hội".
2 - Thực tiễn giải quyết quan hệ tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt
Nam hiện nay
Những thành tựu đạt được
Thực hiện đường lối đổi mới từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986), quá
trình đổi mới tư duy của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ba trụ cột chính của đổi mới tư duy, nhất là
tư duy kinh tế, là: Thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện bước chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện chính sách mở cửa, tích cực chủ động hội nhập kinh tế



quốc tế. Những tư duy này được phát triển qua các đại hội Đảng tạo nên tính năng động sáng tạo
của các tầng lớp nhân dân, huy động các nguồn lực phát triển kinh tế. Hình thành cơ chế chính
sách, huy động các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và người lao động phát triển
sản xuất kinh doanh, xem mọi hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận; khẳng định chủ trương khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, đi đôi với tích
cực xóa đói, giảm nghèo. Chúng ta khẳng định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững. Thực hiện sự tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa. Xác định
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Đảng ta đã khẳng định chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung
tâm tạo điều kiện cho mọi người với tư cách từng cá nhân và cả cộng đồng đều có cơ hội phát
triển, sử dụng tốt năng lực của mình. Trong nhiệm kỳ Đại hội X, Trung ương Đảng đã xây dựng
và ban hành các nghị quyết về giai cấp công nhân, về tầng lớp trí thức, giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, đồng thời xác định nhiệm vụ xây dựng chiến lược phát triển
doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ các doanh nhân Việt Nam có trình độ, bản lĩnh thực hiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Các chủ trương, quan điểm của Đảng đã được Chính phủ thể chế hóa thành các chính sách, kế
hoạch, chương trình dự án cụ thể để đưa vào cuộc sống. Nhờ vậy, qua gần 25 năm đổi mới đất
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thực hiện kết hợp tăng trưởng kinh tế
với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Điểm quan trọng là đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội. Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã chuyển sang tinh thần năng
động, chủ động và tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích
của tập thể một cách chung chung, trừu tượng; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh
nghĩa nhưng thực tế là bình quân, cào bằng, đã từng bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công bằng xã hội được thể
hiện ngày một rõ hơn. Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách kinh tế đã đi đến
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện

vật chất để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng
thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm
đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã
đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo, coi
việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Từ chỗ muốn nhanh chóng xây
dựng một cơ cấu xã hội "thuần nhất" chỉ còn giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và
tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm về việc xây dựng một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó
các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp
phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Đã coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo điều kiện để ai
cũng được học hành; có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.


Nhờ đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội nên
kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm. Trong điều kiện khủng hoảng kinh tế
toàn cầu năm 2007 - 2008, Việt Nam vẫn là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và là một
trong số ít nước có tăng trưởng kinh tế dương trong năm 2009. Việt Nam sớm khắc phục tình
trạng suy giảm kinh tế và có nhiều triển vọng tiếp tục tăng trưởng kinh tế khá cao trong những
năm tiếp theo. Bảng sau đây cho chúng ta thấy điều đó:
Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
Năm

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

Tốc độ tăng 6,8
trưởng
GDP (%)


6,9

7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48 6,18 5,32

Nguồn: Niên giám thống kê
Thế giới đánh giá rất cao những thành tựu gắn kết tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã
hội ở Việt Nam. Việt Nam đã thực hiện sự phát triển kinh tế hướng vào con người, nhất là những
người nghèo. Thực thi chiến lược phát triển toàn diện, cùng với việc đạt được chỉ tiêu tăng
trưởng GDP cao, thì tất cả các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên quan trực tiếp đến tăng
trưởng và sử dụng kết quả của tăng trưởng đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Các chỉ tiêu
xã hội có xu hướng được cải thiện rõ rệt. Chỉ số HDI đo sự tiến bộ trung bình của một nước về
phát triển con người bao gồm tuổi thọ, trình độ dân trí và thu nhập GDP tính theo đầu người của
Việt Nam năm 2007 đã lên tới 0,725, tăng hơn so với năm 2006 (đạt 0,709) và thứ hạng HDI của
Việt Nam được cải thiện 4 bậc (từ thứ 109/177 lên 105). Chỉ số phát triển con người của Việt
Nam cao hơn một số nước có thu nhập bình quân đầu người cao hơn nước ta.
Nhìn chung, sau gần 25 năm đổi mới mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách khá hiệu quả.
Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Đời sống
của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ
vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực
tiễn Việt Nam.
Những mặt còn hạn chế
Thách thức đặt ra về tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội cho Việt Nam hiện nay là
rất to lớn và phức tạp bởi tăng trưởng kinh tế luôn ở mức dưới tiềm năng và thiếu bền vững; chủ
yếu dựa trên xuất khẩu và các yếu tố tài nguyên; chất lượng thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế
chậm được cải thiện. Trong 3 năm qua, theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), sức cạnh tranh của

kinh tế Việt Nam liên tục bị giảm bậc, chỉ số cạnh tranh của môi trường kinh doanh cũng ở thứ
hạng thấp. Tỷ lệ nghèo đói so với chuẩn thế giới còn lớn. Những mặt trái của cơ chế thị trường
đang làm nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp như: phân hóa giàu nghèo gia tăng; sự cách biệt


về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền; sự gia tăng các tệ nạn xã
hội; môi trường sinh thái ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng ảnh hưởng đến các thế hệ mai sau.
Điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp hiệu quả giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, kết
hợp ngay từ đầu và trong từng bước phát triển giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội.
3 - Quan điểm và định hướng giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta giai đoạn 2011 - 2020
Qua nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm nhiều nước và thực tiễn Việt Nam chúng tôi đề nghị quan
điểm tổng quát như sau: Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển và trong suốt quá trình phát triển; phát triển kinh tế bền vững gắn với
bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, giảm bất bình đẳng; bảo đảm thống nhất chính sách
phát triển kinh tế và chính sách xã hội.
Quan điểm cụ thể:
Một là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; tiến bộ,
công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh tế cao, ổn định.
Hai là, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là hai nhân tố chủ lực của phát triển bền
vững.
Ba là, tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hóa, bảo đảm các quyền con người và bảo vệ
môi trường.
Bốn là, không có công bằng tuyệt đối và cần phải xóa bỏ chủ nghĩa cào bằng, bình quân.
Trên cơ sở quan điểm tổng quát xin nêu ra một số nguyên tắc chỉ đạo nhằm thực hiện kết hợp
tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta giai đoạn 2011 2020 như sau:
- Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thực hiện ngay trong
từng quá trình phát triển và từng giai đoạn phát triển. Điều này phải thể hiện trong hành động
thực tiễn cụ thể, trên phạm vi toàn quốc và từng địa phương, không dừng ở chủ trương, cơ chế,

chính sách... Phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, gắn nghĩa vụ với quyền
lợi, cống hiến với hưởng thụ.
- Thống nhất chính sách phát triển kinh tế và chính sách xã hội. Do vậy, mỗi chính sách phát
triển kinh tế phải đồng thời hướng tới thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội. Ngược lại, mỗi chính
sách xã hội phải tạo điều kiện thúc đẩy cao nhất cho sự phát triển kinh tế, mối quan hệ hữu cơ
này được giải quyết hài hòa sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, nâng cao đời sống
của các tầng lớp dân cư nói chung.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân có quyền tiếp cận các thông tin và các dịch vụ xã hội
cơ bản nhằm phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần cải thiện đời sống cá nhân, gia đình và
cộng đồng xã hội. Muốn vậy, phải rà soát hệ thống chính sách và các thể chế bảo đảm minh
bạch, bình đẳng, dễ thực hiện đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.


Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
cần tập trung vào những giải pháp về cơ chế, chính sách chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoàn thiện mô hình tổng quát giai đoạn 2011 - 2020. Mô hình phát triển kinh tế Việt
Nam lựa chọn trong giai đoạn tới là mô hình phát triển toàn diện, hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Nội dung chính của mô hình này là thực hiện việc kết hợp tăng
trưởng kinh tế nhanh với công bằng xã hội ngay từ đầu khi xây dựng, thực thi chính sách kinh tế,
xã hội và trong toàn bộ tiến trình phát triển. Phát triển kinh tế của Việt Nam là quá trình kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa cả ba mặt là kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng tạo sự
thống nhất về nhận thức và hành động. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử
dụng nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phát triển kinh tế với nhiều hình
thức sở hữu, với hai khu vực kinh tế là nhà nước và dân doanh. Khuyến khích làm giàu hợp pháp
đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, từng bước làm cho mọi thành viên trong xã hội đều có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc.
Thứ ba, xây dựng và thực thi chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội. Thực hiện tiến

bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế
đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, giải quyết tốt các vấn đề xã hội
vì mục tiêu phát triển con người.
Thứ tư, hoàn thiện chính sách phân phối. Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm
lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã
hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua
phúc lợi xã hội
Thứ năm, đổi mới chính sách phúc lợi xã hội. Mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ
thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc. Đây là một trong những chỉ báo quan trọng của
một xã hội công bằng và văn minh


11.
Phân tích quan điểm xd nền vh VN tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc VN.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi mới về kinh tế,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng,
đồng thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong
suốt quá trình lãnh đạo của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại
Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là
một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng
yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung,
phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn

dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội"1.
Tháng 7-2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ra Kết luận Về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng (42006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã
hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”2.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ và giải pháp để xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong
những yêu cầu cấp thiết để tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, tạo động lực cho
việc triển khai các nghị quyết của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Đồng thời, đây cũng là cơ sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý luận này
để xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
I- ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
1. Phương hướng xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa


Khái niệm văn hóa thường được tiếp cận ở hai cấp độ lý luận và thực tiễn. Ở cấp độ lý luận,
văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người (cá nhân và cộng đồng)
sáng tạo ra để phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bản chất của văn hóa là sự sáng
tạo, vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ, vươn tới các giá trị nhân văn đem lại hạnh phúc cho con
người. Văn hóa là “thiên nhiên” thứ hai do con người tạo ra để phục vụ con người. Ở cấp độ
thực tiễn, văn hóa thể hiện trong toàn bộ hoạt động sống của con người, từ hoạt động sản
xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, phản ánh kiểu lựa chọn sáng tạo của cá nhân và
cộng đồng.
Như vậy, văn hóa vừa là sản phẩm sáng tạo của con người, vừa là môi trường nhân tạo để

nuôi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của con người. Cùng với thiên nhiên thứ nhất do
tạo hóa tạo nên, văn hóa trở thành môi trường sống của con người, văn hóa được nhìn nhận
là động lực của sự tiến bộ xã hội. Cần phải khắc phục nhận thức phiến diện về văn hóa, đồng
nhất văn hóa với một vài hoạt động thuộc lĩnh vực tinh thần và xem nhẹ vai trò, chức năng
xã hội của nó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” 3. Người đã khẳng định:
“Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và phải coi là quan
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, phương hướng xây dựng và phát triển văn hoá đã được
Đảng ta xác định là: “phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý
thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và
phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa
nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh
hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân
trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội”4.
Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường,
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc là những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Những
giá trị này đã được giữ gìn, bảo lưu sáng tạo, và phát huy qua các thế hệ trở thành truyền
thống văn hóa dân tộc, là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức sống
bất diệt của dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã phát huy cao độ truyền thống yêu
nước chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, tạo nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đánh bại mọi
kẻ thù cướp nước và bán nước. Ngay từ Đề cương văn hóa năm 1943, Đảng ta đã đề ra ba

nguyên tắc vận động văn hóa là dân tộc, khoa học, đại chúng để phát huy truyền thống yêu
nước của dân tộc, chống lại các xu hướng phản dân tộc, phản khoa học, phản lại nhân dân
lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định văn hóa là một mặt trận để kháng chiến và kiến
quốc. Tư tưởng văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa của Hồ Chí Minh đã thực
sự trở thành động lực thúc đẩy cuộc kháng chiến chống xâm lược thắng lợi.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc đóng vai
trò nền tảng và là động lực để chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, kế thừa và phát
huy những giá trị văn hóa tiêu biểu, truyền thống lịch sử tốt đẹp của dân tộc, bổ sung vào đó
những nội dung mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước


mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là yêu cầu hàng đầu đối với việc xây dựng
nền văn hóa hiện nay.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu cầu cần
thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Phương hướng phát triển này vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc và bản lĩnh văn hóa dân
tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển không ngừng, đạt tới trình độ tiên
tiến của các nước trong khu vực và thế giới.
Để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần phải tập
trung sức mạnh của toàn Đảng, của bộ máy nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và
toàn thể các tầng lớp nhân dân, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt
động của cá nhân và cộng đồng, phản ánh chất lượng và trình độ sống của xã hội, xây
dựng đời sống tinh thần cao đẹp, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi
mới đất nước, làm cho văn hóa thực sự trở thành môi trường nhân văn, trở thành động
lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
2. Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhằm xây
dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu cơ giữa tính tiên tiến và tính đậm
đà bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của việc tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và phát
triển nền văn hóa mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm qua. Trong mỗi giai

đoạn lịch sử cụ thể, Đảng ta đều đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, phù hợp
với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế, Đảng ta đã xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa không mâu thuẫn với bản sắc văn hóa
dân tộc, ngược lại, hai đặc tính thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại và quy định
lẫn nhau. Tuy nhiên, để tìm hiểu đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, chúng ta có thể cần làm rõ từng nội dung “tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong
phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa tự nhiên với cá nhân và
cộng đồng, giữa tự nhiên với xã hội.
- Chủ nghĩa yêu nước là hệ thống quan niệm, tư tưởng, lý luận về địa vị và sự tồn tại của đất
nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, về tinh thần yêu nước và truyền thống đại
đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ
của người dân đối với đất nước…, trong đó, lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.
Đây là chủ nghĩa yêu nước chân chính, hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc
chủ nghĩa sôvanh nước lớn. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị cao nhất trong thang bậc giá trị
của văn hóa Việt Nam. Nó là cơ sở để liên kết cộng đồng và liên kết thế hệ tạo thành sức
sống liên tục của truyền thống văn hóa dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam phải được nâng lên tầm cao của thời đại và phải được bổ sung những nội
dung mới gắn liền với lý tưởng tiến bộ và cách mạng của thời đại, thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng độc lập dân tộc phải gắn liền với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đó
là con đường phát triển vững chắc của dân tộc, con đường đảm bảo hạnh phúc của toàn thể
nhân dân. Vì vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi của nền văn
hóa Việt Nam hiện đại.


- Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển của đất nước dựa trên tư tưởng

cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nền văn hóa tiến bộ cũng là nền văn hóa thể hiện tinh thần nhân văn và dân chủ sâu sắc.
Tính nhân văn thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mà
Đảng ta đã đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu tranh, giải phóng cho con người, trước
hết là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội;
phấn đấu để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tạo điều
kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn hóa của dân
tộc và nhân loại. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Mọi hoạt động văn
hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn
trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền
thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”5.
Tính nhân văn của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng không phải là sự quan tâm đến con
người một cách chung chung trừu tượng mà là sự quan tâm cụ thể, thiết thực, toàn diện và
sâu sắc đối với con người, đối với các tầng lớp xã hội và các thành phần dân cư khác nhau
“nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự
nhiên”6.
Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ xã hội chủ nghĩa,
gắn liền với chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì dân”. Nền văn hóa này
khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo
của cá nhân và cộng đồng, đề cao trách nhiệm của công dân trước nhân dân, dân tộc và thời
đại. Tính chất dân chủ của nền văn hóa thống nhất với việc đề cao ý thức công dân, đề cao
trật tự kỷ cương xã hội và thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân
trước pháp luật. Đồng thời phát huy dân chủ phải gắn liền với việc nâng cao ý thức chính trị,
đạo đức xã hội và trình độ dân trí, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng bộ máy nhà
nước, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước và
ngoài xã hội. Phát huy dân chủ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước,

chống tư tưởng tự do vô chính phủ, tự do vô kỷ luật.
Nền văn hóa tiên tiến phản ánh trình độ phát triển cao mang tính hiện đại, cập nhật với
thành tựu văn hóa chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Bên cạnh hệ tư tưởng tiên
tiến là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tố khác của nền văn hóa
Việt Nam cũng phải được hiện đại hóa. Cần phải phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, nâng cao trình độ dân trí, khả năng chiếm lĩnh và sử dụng những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nền văn hóa mới phải tập trung xây dựng những phẩm chất mới,
xây dựng đạo đức, lối sống của con người Việt Nam hiện đại ngang tầm với công cuộc đổi
mới. Mặt khác, nền văn hóa Việt Nam phải tham gia cùng cộng đồng quốc tế giải quyết
những vấn đề đặt ra trong xu thế toàn cầu hóa, khẳng định bản lĩnh và bản sắc dân tộc
trong giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Nền văn hóa tiên tiến thể hiện ở nội dung phản ánh, đó là toàn bộ sự nghiệp đổi mới vĩ đại
của dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến
bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa hướng tới đấu tranh để khẳng định cái
đúng, cái tốt, cái đẹp, phủ nhận cái xấu, cái ác, cái giả; góp phần xây dựng con người phát
triển toàn diện và tạo lập môi trường văn hóa lành mạnh cho quá trình phát triển bền vững
của đất nước. Đây cũng là nền văn hóa có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, đáp ứng nhu


cầu phát triển của nền văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở
rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách,
phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc; là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền
văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tập trung trong
truyền thống văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền lại, được
các thế hệ sau kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình, tạo nên dòng chảy liên
tục của lịch sử văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng

nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự
tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống” 7. Bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để liên
kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc. Vì vậy, bản sắc
văn hóa dân tộc vừa được coi là “căn cước”, vừa được coi là “bộ gien” di truyền văn hóa dân
tộc. Đứng trước sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ và sự tác động của xu thế
toàn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát triển đều ý
thức sâu sắc việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị đặc sắc và đa dạng của văn hóa dân tộc, chống
nguy cơ bị đồng hóa. Vì vậy, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu cầu
khách quan và là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện
nay.
Bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm “động” và “mở”, mang tính lịch sử cụ thể và vận
động, đổi mới không ngừng trên cơ sở loại bỏ những yếu tố bảo thủ và tiêu cực, tiếp thu và
phát huy những yếu tố tích cực và tiến bộ, đồng thời tạo lập các giá trị mới để đáp ứng với
yêu cầu phát triển của thời đại. Không nên đồng nhất bản sắc dân tộc với “cái cũ”, với quá
khứ, với cái “nguyên gốc” do dân tộc mình tạo ra. Bản sắc văn hóa dân tộc vừa bao hàm các
giá trị do dân tộc mình sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại, vừa bao hàm các giá trị tinh
hoa của văn hóa nhân loại được dân tộc tiếp nhận một cách sáng tạo, biến nó thành nguồn
lực bên trong để xây dựng và bảo vệ đất nước. Cũng không nên đồng nhất bản sắc văn hóa
dân tộc với một số yếu tố hình thức bên ngoài của nền văn hóa, mà đây là sự thống nhất
giữa nội dung và hình thức, thống nhất giữa trình độ tư duy, tinh thần độc lập tự cường, ý chí
và bản lĩnh dân tộc với các hình thức biểu hiện bên ngoài của nó. Bảo vệ và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trước hết cần bảo vệ và phát huy truyền thống yêu nước và đại đoàn
kết dân tộc, khẳng định ý chí và bản lĩnh của con người Việt Nam hiện đại trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời bảo vệ và phát huy các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các
giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để làm động
lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
II- NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CƠ BẢN
VÀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định các quan điểm
chỉ đạo cơ bản và những nhiệm vụ cụ thể để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc. Các quan điểm này được bổ sung, phát triển, thể hiện trong Văn
kiện Đại hội lần thứ IX và Hội nghị lần thứ mười khoá IX của Đảng. Đây là những tư tưởng, lý
luận quan trọng của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới, cần được triển khai sâu
rộng trong toàn bộ đời sống xã hội.
1. Các quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.


Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó phải giải quyết hài hoà giữa sự phát
triển kinh tế và văn hóa, đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững và lâu dài. Vì vậy, Đảng
Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này vừa phải là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con
người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú
ý đến hiệu quả xã hội và văn hóa. Đồng thời, phải chú trọng khai thác văn hóa như một
nguồn lực đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển các ngành công nghiệp
văn hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch văn hóa… Như vậy, văn hóa không phải là kết quả thụ
động của nền kinh tế mà là nguyên nhân, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Quan điểm này xác định phương hướng và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mà
chúng ta tập trung xây dựng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Trình độ tiên tiến của nền
văn hóa phải thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định tầm vóc, vị thế của
văn hóa dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam.
Quan điểm này nhấn mạnh đến tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về đảm bảo

tính thống nhất và tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Tính thống nhất của
nền văn hóa Việt Nam thể hiện ở sự thống nhất về truyền thống yêu nước và tinh thần đại
đoàn kết của các dân tộc anh em trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thống nhất
ở việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và
phát triển sự nghiệp văn hóa; thống nhất ở ý chí và nguyện vọng chung của cộng đồng các
dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tính thống nhất là điều kiện để đảm bảo sự phát
triển đa dạng của văn hóa các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, trên đất nước ta
có 54 dân tộc với các đặc trưng văn hóa khác nhau. Các giá trị và các đặc trưng văn hóa
đó bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam và
củng cố sự thống nhất quốc gia.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong
đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Quan điểm này xác định vai trò chủ thể xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa. Mọi người
dân Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh đều có vinh dự, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ tham gia xây dựng và phát triển
nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn
dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Thứ năm, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Quan điểm này nhấn mạnh tới phương pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Văn hóa là một mặt trận, đội ngũ trí thức, văn nghệ
sĩ và các nhà hoạt động văn hóa phải là chiến sĩ trên mặt trận đó. “Mặt trận” là nơi đoàn kết
thống nhất ý chí và tình cảm của nhân dân, của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và các nhà hoạt


động văn hóa vào thực hiện mục tiêu chung của sự nghiệp đổi mới do Đảng đề ra. “Mặt trận”
là nơi đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác và cái giả, khẳng định cái đúng, cái tốt và cái đẹp
nhằm xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh. Đồng thời, đây cũng là nơi để

chống lại mưu toan phá hoại của kẻ thù, đặc biệt là âm mưu "diễn biến hoà bình" của các
thế lực thù địch quốc tế trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trong quá trình đó, “xây” phải đi đôi
với “chống” và lấy “xây” làm trọng tâm. Quan điểm này cũng nhấn mạnh đến tính đặc thù
của việc xây dựng và phát triển văn hóa. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị mới tích cực và tiến bộ, loại bỏ những yếu tố bảo thủ
và lạc hậu trong nền văn hóa, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn minh, nhân bản là một quá trình đầy khó khăn
gian khổ, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và cần phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận
trọng, tránh nóng vội, chủ quan duy ý chí. Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần phải nhận thức sâu sắc rằng, sản phẩm văn hóa là một
sản phẩm hàng hóa đặc biệt, hoàn toàn khác với sản phẩm hàng hóa thông thường khác.
Đây là phương tiện để biểu đạt đời sống tinh thần của mỗi dân tộc. Vì vậy, Đảng, Nhà nước
và toàn xã hội cần có giải pháp hữu hiệu để bảo vệ và phát triển nền văn hóa của dân tộc
mình, chống nguy cơ bị đồng hóa về văn hóa.
2. Những nhiệm vụ chủ yếu
Để xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã chỉ ra
mười nhiệm vụ cụ thể như sau:
Nhiệm vụ thứ nhất: Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Xây dựng con người Việt Nam hiện đại đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là nhiệm
vụ trọng tâm của quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện nay. Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể
chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa
tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở
thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng
của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”8.
Xây dựng con người và các thế hệ gắn bó với sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài,
khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân, từng gia đình, từng tập thể và
cộng đồng, gắn liền với các thiết chế và thể chế văn hóa của đất nước. Vì vậy, cần phải huy

động sức mạnh tổng hợp và toàn diện của các nguồn lực văn hóa để giáo dục và xây dựng
con người, bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, tạo điều kiện và cơ hội cho con
người phát triển toàn diện và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển đất nước.
Nhiệm vụ thứ hai: Xây dựng môi trường văn hóa.
Môi trường văn hóa là môi trường chứa những giá trị văn hóa và những quan hệ văn hóa của
con người từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Môi trường văn hóa là nơi đồng thời
diễn ra các hoạt động văn hóa từ hoạt động sáng tạo, sản xuất, bảo quản, lưu giữ, truyền bá,
thưởng thức và đánh giá các giá trị văn hóa. Môi trường văn hóa được hiện diện bằng sự tồn
tại của các giá trị văn hóa vật thể, các giá trị văn hóa phi vật thể, các hoạt động văn hóa cá
nhân và cộng đồng trong những mối quan hệ đa dạng và sinh động, từ hành vi của cá nhân tới
gia đình, họ hàng, làng xóm và cộng đồng xã hội cùng với sự ứng xử của họ với quá khứ, hiện
tại và tương lai, với con người và tự nhiên.


Môi trường văn hóa chính là hệ sinh thái văn hóa, nuôi dưỡng đời sống tinh thần của xã hội. Xây
dựng môi trường văn hóa góp phần ổn định chính trị - xã hội, tạo bầu không khí tinh thần lành
mạnh làm tiền đề để xây dựng con người, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống của con người.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh. Đảng ta đã nhấn mạnh: "Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình,
làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học,
đơn vị bộ đội...), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành
mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp
nhân dân... Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn
hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng
cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào
quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật" 9. Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa; xây dựng trường học, cơ quan, đơn vị văn hóa; xây dựng làng bản, khối phố văn hóa là
những nội dung quan trọng để xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở.
Nhiệm vụ thứ ba: Phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật.

Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế và nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng vươn
tới các giá trị Chân - Thiện - Mỹ của nhân dân. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp
văn học, nghệ thuật là sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật, thấm
nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục, bồi dưỡng tinh thần, tình
cảm, nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân hiện nay. Khuyến khích các tìm tòi, thể
nghiệm mọi phương pháp, phong cách sáng tạo, đáp ứng mọi nhu cầu tinh thần lành mạnh
của nhân dân. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ nghệ sĩ trước nhân dân, dân tộc và thời
đại. Đồng thời bài trừ các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính. Đấu tranh chống lại
các khuynh hướng sáng tác trái với đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Nâng cao thị hiếu
thẩm mỹ nghệ thuật cho nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên, nhi đồng. Khuyến
khích các hoạt động văn nghệ quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo,
hưởng thụ các giá trị nghệ thuật cao của dân tộc và nhân loại.
Nhiệm vụ thứ tư: Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Di sản văn hóa là tài sản, của cải quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của dân tộc do lịch sử
để lại, bao gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa còn
là cơ sở để liên kết cộng đồng, là nền tảng để sáng tạo các giá trị văn hóa mới, là tiền đề để
mở rộng giao lưu văn hóa với các dân tộc khác trên thế giới. Di sản văn hóa không chỉ nhằm
thoả mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần khẳng định niềm tự hào dân tộc, mà
còn là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục truyền thống yêu nước và cách
mạng qua hệ thống di sản văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện
nay. Vì vậy, đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, nâng cao trách
nhiệm của nhân dân đối với việc bảo vệ và phát huy vai trò của di sản văn hóa dân tộc là
công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách, cần phải được tiến hành nghiêm túc, kiên trì và thận
trọng.
Nhiệm vụ thứ năm: Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Phát triển khoa
học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”10.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện



×