Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TẬN DỤNG VÀ XỬ LÍ PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BỘT MÌ TỪ KHOAI MÌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.96 KB, 22 trang )

BỘ CÔNNG THƯƠNG
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THỰC PHẨM


GV:
Lớp:
Nhóm:

Lê Hương Thủy
DHTP10A
11


TP. HỒ CHÍ MINH, 2017

BẢNG THÔNG TIN THÀNH VIÊN
Họ và tên

MSSV

Nguyễn Tuyết Nhi
( nhóm trưởng)

14124691

Trần Thị Đoan Trang

14079821

- Tận dụng vỏ sắn (mục 5.3)



Nguyễn Thành Trung

14052001

- Tổng quan phế phụ liệu (mục 1)
- Tận dụng thân cây sắn (mục 5.2)

Nguyễn Thị Lệ Trinh

14071811

Phân công
- Giới thiệu cây sắn (mục 3)
- Phát triển ý tưởng (mục 4)
- Tận dụng bã sắn (mục 5.1)
- Tổng kết

- Xu hướng tận dụng phế phụ liệu
(mục 2)
- Tận dụng lá sắn (mục 5.4)


1. TỔNG QUAN VỀ PHẾ PHỤ LIỆU TRONG NGÀNH SẢN XUẤT TINH BỘT
TỪ KHOAI MÌ (SẮN)
Trong những năm gần đây, ngành công nghệ thực phẩm có những bước phát triển
rất nhanh đem lại những giá trị to lớn về mặt kinh tế cho đất nước. Nhu cầu về tinh bột
cho thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế ngày càng tăng đã trở thành động
lực cho ngành công nghiệp chế biến tinh bột sắn.
Sắn là loại cây lương thực quan trọng ở nhiều nước nhiệt đới như Việt Nam, Thái

Lan, Indonesia, Brazil…Củ sắn chứa nhiều tinh bột, hiện nay tại các nước trồng sắn trên
thế giới phần lớn sắn được sử dụng để làm thức ăn cho người và gia súc. Một lượng nhỏ
được sử dụng trong các ngành công nghiệp chế biến.Trong chiến lược toàn cầu cây sắn
đang được tôn vinh là một trong những cây lương thực dễ dàng thích hợp với những vùng
đất cằn cỗi nghiệp khác. Ở nước ta cây sắn đang chuyển đổi nhanh chóng vai trò từ cây
lương thực truyền thống sang cây công nghiệp, sự hội nhập đang mở rộng thị trường sắn
tạo ra những cơ hội cho ngành chế biến tinh bột.
Việt Nam là nước xuất khẩu tinh bột sắn thứ 3 trên thế giới, sau Indonesia và Thái
Lan. Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Trung Quốc và Đài Loan. Cùng với
diện tích trồng sắn được mở rộng, sản lượng cũng như năng suất tinh bột sắn được sản
xuất cũng tăng theo thời gian.
Tuy nhiên, song song với sự phát triển thì ngành chế biến tinh bột sắn phải đối mặt
với sự môi trường phát sinh từ quá trình chế biến. Trong khi các biện pháp xử lí chất thải
rắn hiện tại trong ngành chế biến tinh bột sắn chưa thực sự phù hợp nên vẫn gây ảnh
hưởng tới môi trường. Do đó, những phương pháp xử lí phù hợp và thân thiện với môi
trường được quan tâm nghiên cứu.
Vấn đề đặt ra là hiện nay có rất nhiều biện pháp xử lí rác thải hiệu quả, và không
gây ô nhiễm môi trường, tái sử dụng các thành phẩm có giá trị kinh tế. Nhiều nghiên cứu
cho thấy rằng các phụ phẩm này mang nhiều giá trị dinh dưỡng vẫn có thể tiếp tục tái chế
để phục vụ các ngành khác như làm thức ăn gia súc, làm môi trường nuôi cấy một số nấm
men, làm phân bón.
2. XU HƯỚNG TẬN DỤNG PHẾ PHỤ LIỆU NÔNG NGHIỆP
Theo dự báo của Phòng Sử dụng đất và phân bón - Cục Trồng trọt, Bộ NN&PTNT,
hiện nay, nhu cầu sử dụng phân bón hữu cơ của Việt Nam rất cao, khoảng 13 triệu
tấn/năm, trong khi công suất sản xuất của các nhà máy rất thấp, chỉ khoảng 500 nghìn
tấn/năm.
“Hiện có khoảng 150 công ty chuyên sản xuất phân hữu cơ, nhưng chỉ có một số ít
công ty sản xuất với số lượng lớn như Công ty CP Sông Gianh, Công ty CP Quế Lâm,
Công ty Thiên Sinh…, còn lại đa số là các công ty nhỏ với công suất chỉ từ 500-2.000
tấn/năm”, ông Cao Việt Hưng, chuyên viên Phòng Sử dụng đất và phân bón cho biết.

Cũng theo ông Hưng, trong tổng số 21 danh mục phân bón đã được Bộ
NN&PTNT ban hành thì tổng số phân bón hữu cơ là trên 1.500 loại, trong đó phân hữu
cơ thông thường là 80 loại, phân hữu cơ sinh học là 465 loại, phân hữu cơ khoáng là 621


loại và phân hữu cơ vi sinh là 417 loại. Mặc dù nhu cầu sử dụng phân bón hữu cơ ngày
càng cao nhưng hiện nay, có một thực tế là nguồn than bùn, nguyên liệu sản xuất chủ yếu
lại đang bị suy giảm cả về chất lượng lẫn trữ lượng. Nguồn than bùn của Việt Nam hiện
nay chủ yếu có hàm lượng chất hữu cơ chỉ từ 12-15%, trong khi tiêu chuẩn do Bộ
NN&PTNT đưa ra cho phân hữu cơ khoáng, phân hữu cơ vi sinh ngày càng cao nên việc
sản xuất phân bón hữu cơ gặp nhiều khó khăn. Nếu không bổ sung được nguồn hữu cơ
khác thì việc vi phạm chất lượng về chỉ tiêu hữu cơ sẽ trở nên phổ biến.
Ông Hưng cho biết, kết quả kiểm tra chất lượng phân bón của Bộ NN&PTNT
những năm gần đây cho thấy, riêng chỉ tiêu hữu cơ các mẫu bị phát hiện không đủ chất
lượng chiếm tới 25-35%.
Do đó, việc khai thác nguồn nguyên liệu từ phế phụ phẩm nông nghiệp được coi là
một hướng quan trọng, vừa mang lại nguồn phân bón, vừa góp phần giảm khí thải do việc
đốt rơm rạ gây nên.
Ước tính, để sản xuất 13 triệu tấn phân hữu cơ có chứa từ 15-22% chất hữu cơ sẽ
cần từ 2-3 triệu tấn hữu cơ dạng nguyên chất. Theo số liệu năm 2011, mỗi năm Việt Nam
sản xuất khoảng 42 triệu tấn lúa, 4,6 triệu tấn ngô, 10 triệu tấn sắn, 1,1 triệu tấn cà phê…
Như vậy, bình quân mỗi năm chúng ta có thể khai thác được khoảng 50 triệu tấn phế phụ
phẩm từ những cây trồng chủ lực này. Nếu được xử lý theo đúng các quy định và quy
trình thì việc sản xuất 13 triệu tấn phân hữu cơ là hoàn toàn khả thi.
Đối với một dạng phế phẩm khác từ chăn nuôi, thạc sỹ Nguyễn Quỳnh Hoa,
chuyên viên Phòng Môi trường chăn nuôi - Cục Chăn nuôi, Bộ NN&PTNT nhận định:
Hiện nay, phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi tương đương 11,15 triệu tấn CO2 mỗi
năm, chiếm khoảng 17,2% tổng lượng phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp. Do đó,
việc sử dụng phụ phẩm từ khí sinh học (KSH) để sản xuất phân hữu cơ cũng là một
hướng đi đúng đắn.

Theo đó, phụ phẩm từ KSH gồm 3 phần là nước xả, bã cặn và váng đều có chứa
nhiều chất dinh dưỡng dễ hòa tan và nhiều nguyên tố vi lượng có ích cho cây trồng như
đồng, kẽm, sắt, magiê. Nếu quy đổi thì 1 tấn nước xả tương đương với khoảng 0,8-1,7 kg
urê, 0,5-1,5 kg super lân và 0,5-0,9 kg phân kali... Đồng thời, nước xả là loại phân bón có
tác dụng nhanh, chứa nhiều chất dinh dưỡng hòa tan trong nước nên cây trồng dễ hấp thu
khi tưới, trong khi bã cặn gồm các hợp chất hữu cơ và các chất hấp thu nhiều yếu tố dinh
dưỡng có hiệu quả cho cây trồng.
Theo bà Hoa, đến nay, các phụ phẩm KSH đã có nhiều ứng dụng trong sản xuất
nông nghiệp như dùng làm phân bón cho cây trồng, nuôi trồng nấm, xử lý hạt giống.
Riêng đối với việc cải tạo đất, phụ phẩm KSH giúp cải thiện khả năng canh tác của đất,
cải thiện cấu trúc và tính chất lý học của đất, làm đất tơi xốp hơn, tăng khả năng giữ,
thấm nước, làm giảm sự xói mòn do gió và nước.


Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Thổ nhưỡng nông hóa, khi sử dụng 60m 3
nước xả hòa với nước lã theo tỷ lệ 1/1 để bón bổ sung cho 1 ha bắp cải đã làm cho năng
suất bắp cải tăng 24% so với lô đất cùng diện tích chỉ bón bằng phân NPK. Sau một vụ
gieo trồng, với mỗi hecta, người dân tiết kiệm được trên 60 kg đạm urê, 65 kg supe lân…
Ngoài ra, việc sử dụng nước xả để tưới đã giúp giảm 50% số lần phun thuốc trừ sâu cắn
lá cho một vụ.
Bên cạnh đó, việc sử dụng phụ phẩm KSH để nuôi cá, theo bà Hoa cũng là một
hướng đi thích hợp để giảm phát khí nhà kính, vì phụ phẩm KSH là một loại phân sạch,
qua quá trình lên men sinh học, các mầm bệnh đã bị tiêu diệt. Do đó, việc sử dụng phụ
phẩm KSH làm phân bón cho cá đã góp phần làm giảm các loại bệnh cho cá và cũng là
cách hữu hiệu để giảm phát khí CO2 ra môi trường.
Theo dự báo của các chuyên gia, khí thải của ngành nông nghiệp tiếp tục tăng lên,
đặc biệt là khí thải từ hoạt động chăn nuôi sẽ vượt qua lượng khí thải từ đất nông nghiệp
trong giai đoạn 2020-2030 tới và sẽ chiếm khoảng 30% lượng khí nhà kính phát thải
trong nông nghiệp nói chung. Do đó, theo bà Hoa, trong thời gian tới, bên cạnh việc đẩy
nhanh tiến độ quy hoạch các vùng chăn nuôi, giết mổ tập trung gắn với bảo vệ môi

trường, các cơ quan chức năng cần triển khai nhanh việc áp dụng quy trình chăn nuôi tốt
và chăn nuôi sản xuất các bon thấp thông qua đẩy mạnh chương trình KSH cho ngành
chăn nuôi để không chỉ giảm phát khí thải mà còn tận dụng phụ phẩm KSH, đem lại giá
trị và lợi ích kinh tế cao hơn trong sản xuất nông nghiệp
Trước đây các phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân lá ngô... sau thu hoạch
thường được bà con nông dân tận dụng làm thức ăn cho gia súc, làm phân bón cho cây
trồng hoặc làm chất đốt. Trong những năm gần đây, do đời sống kinh tế khá hơn nên
những chất thải nông nghiệp ít được sử dụng lại, mà nông dân vứt bừa bãi hoặc đốt bỏ
ngay trên đồng ruộng, đường làng, ngõ xóm. Hiện thế giới cũng đang quan tâm nhiều đến
khả năng ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý môi trường và tái tạo rác phế thải từ
nông nghiệp thành những sản phẩm sạch, vừa hiệu quả lại vừa an toàn. Một số nước như
Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã phát triển rất mạnh công nghệ và các
ngành công nghiệp ăn theo công nghệ chế biến phế, phụ phẩm nông sản. Ví dụ sản phẩm
cám gạo có giá trị tăng cao hơn từ 100 - 300% khi được chế biến thành thức ăn chăn
nuôi, xà phòng, mỹ phẩm hoặc dược phẩm, rơm được chế biến thành viên làm thức ăn gia
súc, làm chất độn chuồng trong chăn nuôi hay xuất khẩu. Tại các nước này, rơm còn được
chế biến Ethanol hay nhiên liệu sinh học (Bio diesel), chế biến plastic sinh học để sản
xuất các loại bao bì, cốc chứa đựng sinh học thân thiện với môi trường, làm chất đốt, chế
biến xà phòng, dầu ăn, mỹ phẩm,…
Tại Mỹ, rơm được tái chế thành một loại vật liệu đặc biệt là những kiện rơm.
Theo Hiệp hội xây dựng California, rơm được phơi khô có thể tồn tại hàng ngàn năm.
Kiện rơm có tác dụng cách nhiệt tốt như vữa trát tường và tường thạch cao. Các kiện rơm
thường có trọng lượng 23 - 41 kg, mỗi ngôi nhà có diện tích gần 200 m2 cần khoảng hơn


300 kiện rơm để xây dựng. Những bức tường bằng rơm có thể chịu được sức gió trên 193
km/h, luồng nước trọng lượng hơn 4 tấn và nhiệt độ khắc nghiệp từ -20 độ C đến 50 độ
C. Rơm chống cháy gấp 2-3 lần so với tường truyền thống.Tại Đại học Công nghiệp
TP.HCM, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công công nghệ khí hóa từ phụ phẩm
nông nghiệp (trọng tâm từ trấu thải) để sử dụng làm năng lượng nhiệt, năng lượng điện.

Giá bán hiện nay của hệ thống là 1 tỉ 50 triệu, tỉ lệ nội địa hóa 85 – 90%, rẻ hơn gần một
nửa so với sản phẩm nhập ngoại với hiệu suất gần tương đương. Sản phẩm đã được ứng
dụng tại Xí nghiệp Xay xát và Chế biến lương thực số 1, Công ty Lương thực Tiền
Giang. Theo tính toán, hệ thống dùng điện trấu sẽ tiết kiệm cho hệ thống dùng điện lưới
quốc gia 331,864 đồng/ngày nếu số lượng trấu là 300kg/ngày (giá 330đồng/kg) và độ ẩm
trấu là 15.5%.
Tại Hà Nội, nhằm tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp Trung tâm Khuyến nông Hà
Nội đã triển khai mô hình ứng dụng chế phẩm sinh học để xử lý rơm rạ phục vụ một số
cây trồng ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Sông Cửu Long do Viện Thổ nhưỡng nông
hóa phối hợp thực hiện được triển khai tại huyện Mỹ Đức. Mô hình ứng dụng chế phẩm
sinh học để xử lý rơm rạ trên cơ cấu sản xuất lúa mùa và đậu tương với quy mô 60 hộ dân
tham gia, thời gian triển khai từ tháng 8 đến tháng 12/2014, chủ yếu hỗ trợ giống vật tư
và kinh phí triển khai cho các hộ tham gia, kinh phí hỗ trợ hơn 148 triệu đồng. Kết quả
cho thấy năng suất cao hơn so với trồng đậu không xử lý từ 17-20kg/sào. Gốc rạ được
phân hủy nhanh sau 50 ngày, đạt 70%; giảm số lần bón phân và thuốc bảo vệ thực vật từ
1-2 lần/vụ. Mô hình sinh trưởng phát triển tốt hạn chế sâu bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường và nâng cao độ phì nhiêu của đất.
Tại Lào Cai, để thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và giảm phát
thải khí nhà kính, ngành đã tích cực áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp, tỉnh đã đầu tư cho các đề tài, dự án nghiên cứu, thí điểm và phổ biến công nghệ
xử lý, tái sử dụng phụ phẩm, phế phẩm nông nghiệp để tạo ra thức ăn chăn nuôi, trồng
nấm, làm nguyên liệu công nghiệp, biogas, than sinh học, phân bón hữu cơ. Thông qua
đó nhằm hình thành và phát triển ngành công nghiệp tái chế phụ phẩm nông nghiệp, nâng
cao giá trị sản xuất và giảm phát thải ô nhiễm. Điển hình như: Dự án “Hỗ trợ nông nghiệp
các-bon thấp” đã lắp đặt được 487 hầm bể biogas; “Chương trình khí sinh học cho ngành
chăn nuôi tỉnh Lào Cai” đã hỗ trợ xây dựng và đưa vào vận hành có hiệu quả 214 công
trình khí sinh học trên địa bàn 8/9 huyện, thành phố. Các bể biogas được nhân dân đánh
giá cao, giúp cho người nông dân nông thôn giải quyết chất thải hữu cơ, tạo nguồn năng
lượng sạch, chống ô nhiễm môi trường. Việc áp dụng mô hình sản xuất nông nghiệp cácbon thấp còn cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.Tái sử
dụng phế phẩm, phụ phẩm nông nghiệp qua thực hiện đã mang lại hiệu quả kinh tế cao,

giảm phát khí thải nhà kính, bảo vệ môi trường, qua đó góp phần hướng tới một nền kinh
tế xanh và bền vững.
3. GIỚI THIỆU VỀ CÂY SẮN
Cây sắn (khoai mì) – Manihot esculenta Crantz – tiếng Anh là Cassava hay còn
gọi là Tapioca hoặc Manioc, là một trong số những loại cây có củ mọc ở hơn 80 quốc gia
có khí hậu nhiệt đới ẩm trên thế giới.


Cây sắn có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của Châu Mỹ Latinh (Crantz, 1976) và
được chồng cách đây 5000 năm (CIAT,1993).
Cây sắn là một loài cây sinh trưởng lâu năm, cây có chiều cao từ 1-3m, thân có ba
lõi đơn hay phân nhánh, các lá có thùy sâu, dạng chân vịt. Củ sắn nở to do các tế bào tinh
bột lắng đọng tạo thành.
Củ sắn có kích thước trung bình, dài 25-38 cm. Tùy theo giống, điều kiện đất đai
và thời gian thu hoạch mà củ sắn có thể có kích thước lớn hơn hay nhỏ hơn trị số trung
bình. Cấu tạo củ sắn gồm 4 phần chính: vỏ gỗ, vỏ thịt (còn gọi là vỏ cùi), thịt sắn và lõi
sắn.

Hình 1: Cây sắn

Hình 2: Phần rễ cây sắn

Hình 3: Cấu tạo củ mì
Hình 4: Củ mì
Củ sắn tươi có tỷ lệ chất khô 38-40%, tinh bột 16-32%; chất protein, béo, xơ, tro
trong 100g được tương ứng là 0.8-2.5 g, 0.2-0.3 g, 1.1-1.7 g, 0.6-0.9 g; chất muối khoáng
và vitamin trong 100 g củ sắn là 18.8-22.5 mg Ca, 22.5-25.4 mg P, 0.02 mg B1, 0.02 mg
B2, 0.5 mg PP. Trong củ sắn, hàm lượng các acid amin không được cân đối, thừa arginin
nhưng lại thiếu các acid amin chứa lưu huỳnh. Thành phần dinh dưỡng khác biệt tuỳ
giống, vụ trồng, số tháng thu hoạch sau khi trồng và kỹ thuật phân tích. Lá sắn trong

nguyên liệu khô 100% chứa đựng đường + tinh bột 24.2%, protein 24%, chất béo 6%, xơ


11%, chất khoáng 6.7%, xanhthophylles 350 ppm . Chất đạm của lá sắn có khá đầy đủ
các acid amin cần thiết, giàu lysin nhưng thiếu methionin.
Trong lá và củ sắn ngoài các chất dinh dưỡng cũng chứa một lượng độc tố (HCN)
đáng kể. Các giống sắn ngọt có 80–110 mg HCN/kg lá tươi và 20–30 mg/kg củ tươi. Các
giống sắn đắng chứa 160–240 mg HCN/kg lá tươi và 60–150 mg/kg củ tươi. Liều gây
độc cho một người lớn là 20 mg HCN, liều gây chết người là 50 mg HCN cho mỗi 50 kg
thể trọng. Tuỳ theo giống, vỏ củ, lõi củ, thịt củ, điều kiện đất đai, chế độ canh tác, thời
gian thu hoạch mà hàm lượng HCN có khác nhau. Tuy nhiên, ngâm, luộc, sơ chế khô, ủ
chua là những phương thức cho phép loại bỏ phần lớn độc tố HCN.
4. Ý TƯỞNG PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM TỪ PHẾ PHỤ LIỆU
Sắn có nhiều công dụng trong chế biến công nghiệp, thức ăn gia súc và lương thực
thực phẩm. Củ sắn dùng để ăn tươi, làm thức ăn gia súc, chế biến sắn lát khô, bột sắn
nghiền, tinh bột sắn, tinh bột sắn biến tính, các sản phẩm từ tinh bột sắn như bột
ngọt, cồn, maltodextrin, lysine, acid citric, xiro glucose và đường glucose tinh thể, mạch
nha giàu maltose, hồ vải, hồ giấy, colender, phủ giấy, bìa các tông, bánh kẹo, mì ăn liền,
bún, miến, mì ống, mì sợi, bột khoai, bánh tráng, hạt trân châu (tapioca), phụ gia thực
phẩm, phụ gia dược phẩm, sản xuất màng phủ sinh học, chất giữ ẩm. Thân sắn dùng để
làm giống, làm nấm, làm củi đun, nguyên liệu cho công nghiệp xenlulô. Lá sắn ngọt là
loại rau xanh giàu đạm rất bổ dưỡng và để nuôi cá, nuôi tằm. Lá sắn đắng ủ chua hoặc
phơi khô để làm bột lá sắn dùng chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò, dê v.v…Bã sắn được dùng để
sản xuất thức ăn gia súc, tạo chất dính cho sản xuất diêm, dùng trong phân bón, sản xuất
etanol sinh học, acid citric,…Ngoài ra dưa muối làm từ ngọn và lá non của sắn rất phổ
biến tại một số vùng miền trung du Bắc Bộ Việt Nam (như Phú Thọ, Hà Tây), thường
được sử dụng để xào, nấu canh với tôm, tép.
5. CÁC PHẾ PHỤ LIỆU TRONG SẢN XUẤT TINH BỘT TỪ KHOAI MÌ (SẮN)
5.1. Bã sắn
Hiện nay ở Việt Nam có trên 60 nhà máy tinh bột sắn với tổng công suất khoảng

38 triệu tấn củ tươi/năm. Theo ước tính một nhà máy chế biến tinh bột sắn có công suất
30 – 100 tấn/ngày sẽ sản xuất được 7,5 – 25 tấn tinh bột, kèm theo đó là 12 – 48 tấn bã
bao gồm hai loại:
- Loại thứ nhất là bã thải do quá trình rửa và bóc vỏ gỗ chiếm tỉ trọng ít và thành phần
chủ yếu là xenluloza, hemixenluloza và cát, sạn.
- Loại này thường được chôn lấp hợp vệ sinh hoặc dùng làm phân bón. Loại thứ hai là
phần bã còn lại sau khi tách tinh bột sắn được gọi là bã sắn.
Hiện nay, bã sắn tại các nhà máy sản xuất tinh bột sắn được bán ra với giá rất rẻ
khoảng 200 đồng/kg bã tươi và 800 – 1000 đồng/kg bã khô. Với giá thành như vậy thì
việc sử dụng bã sắn để sản xuất các sản phẩm khác là hoàn toàn thuận lợi, vừa giải quyết
được vấn đề môi trường, vừa tăng thêm giá trị sử dụng và kinh tế cho bã sắn.
Ở Việt Nam bã sắn chủ yếu được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm sau:
- Thức ăn cho động vật nhai lại
- Sản xuất thức ăn chăn nuôi có giá trị cao từ bã sắn
- Sản xuất cồn sinh học
5.1.1. Thành phần hóa học trong bã sắn


Thành phần hóa học
Hàm lượng %
Protein
1,82 – 2,03
Chất béo
0,09 – 0,2
Tro
1,61 – 2,38
Chất xơ
10,61 – 14,35
Tinh bột
60,84 – 65,9

Cacbonhydrat
72,19 – 79,51
Độ ẩm
80,16 – 85,5
Bảng 1: Thành phần hóa học trong bã sắn
Bã sắn có độ ẩm trên 80% nên khi phơi dễ bị nhiễm khuẩn, sinh mùi khó chịu và
ảnh hưởng môi trường xung quanh. Như vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường trở nên trầm
trọng, khiến sức khỏe con người giảm sút và chất lượng cuộc sống bị xáo trộn. Hơn nữa,
xử lí bã sắn giúp làm tăng giá trị cho bã sắn, tạo được sản phẩm phụ có ích, đồng thời
giảm thiểu được tối đa ảnh hưởng không tốt đến môi trường.

Hình 5: Bài báo về ảnh hưởng của bã sắn đến môi trường
5.1.2. Bã sắn làm thức ăn gia súc
Bã sắn là phụ phẩm của quá trình chế biến tinh bột từ sắn từ củ sắn. Sử dụng bã là
nguồn cung cấp chất béo và phần tinh bột còn lại trong bã. Đây là nguồn cung cấp chất
dinh dưỡng như protein, chất đạm, tinh bột, đường. Bã sắn có thể dự trữ được khá lâu do
một phần tinh bột trong bã sắn bị lên men và tạo ra pH= 4-5. Bã sắn tươi có vị hơi chua,
gia súc nhai lại thích ăn. Mỗi ngày có thể cho mỗi con bò ăn khoảng 10-15kg bã sắn tươi.
Ta cũng có thể phơi, sấy khô bã sắn để làm nguyên liệu phối chế thức ăn hỗn hợp.
5.1.2.1. Phát triển bã sắn thành thức ăn gia súc


Từ bã khoai mì mà ngay cả động vật cũng chê, các chuyên gia thuộc Viện Sinh
học Nhiệt đới đã tạo ra hai loại thức ăn kích thích tăng trưởng cho mọi vật nuôi, kể cả
thuỷ sản.
Kỹ sư Lê Thị Bích Phượng và các cộng sự đã sản xuất thành công hai loại sản
phẩm lên men từ bã khoai mì sống: ProBio-S và Bio-E.
Bio-E là chế phẩm dạng bột khô, được tạo ra bằng cách cấy chủng nấm mốc hữu
ích A.Niger lên bã khoai mì với tỷ lệ 2g mốc/kg bã. Chủng nấm mốc này do chính các
chuyên gia thuộc Viện Sinh học Nhiệt đới tạo ra trước đó. Tiếp đến, bã được ủ trong các

khay nhôm 20 tiếng, sau đó được phơi khô, sấy và đóng bao. ProBio-S và Bio-E được
trưng bày tại Cuộc thi Ngày sáng tạo Việt Nam. Những sản phẩm này được sản xuất trên
quy mô nhỏ tại Viện Sinh học Nhiệt đới
Do cả hai chế phẩm trên đều có mùi thơm thơm, đặc trưng cho quá trình lên men,
nên rất hấp dẫn vật nuôi. Kết quả thử nghiệm sơ bộ trên 15-20 con lợn 1 tháng tuổi cho
thấy sau ba tháng được ăn hai chế phẩm trên, lợn tăng trọng nhanh hơn 1,1-1,3kg so với
những con đối chứng (chỉ ăn thức ăn bình thường).
So với mức 200đồng/kg bã tươi và 800-1.000 đồng/kg bã khô thì việc sản xuất hai
loại chế phẩm trên vừa giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường, vừa tăng giá trị cho
bã khoai mì, tăng thêm thu nhập cho công nhân, các chủ nhà máy sản xuất tinh bột khoai.
Theo kỹ sư Phượng, quá trình lên men nói trên tạo ra ba loại enzyme
(glucoamylase, cellulase và α amylase) trong sản phẩm, có vai trò kích thích tiêu hoá. Cụ
thể là khi được trộn với các thức ăn chính thì enzyme này sẽ làm cho thức ăn chuyển hoá
tốt hơn, dễ tiêu, giảm tiêu tốn thức ăn, do vậy làm vật nuôi tăng trọng nhanh. Ngoài ra,
thành phần đạm trong chế phẩm đạt 9-10%, so với 0,2% trong bã khoai mì ban đầu. Giá
thành của Bio-E là 10.000-12.000 đồng/kg.
Còn ProBio-S lại là chế phẩm dạng lỏng, được sản xuất bằng cách cho bã tươi vào
những bao tải lớn rồi cấy chế phẩm EM-S chứa nhiều chủng vi sinh vật hữu ích như
Bacillus sp., Lactobacillus sp., Saccharomyces sp. với tỷ lệ 1lít EM-S/25kg bã (1ml chứa
1010 tế bào vi sinh vật hữu ích). Ba ngày ủ làm cho lượng vi sinh vật tăng mạnh.
Với những chủng vi sinh vật hữu dụng nói trên, chế phẩm ProBio-S giúp cân bằng
hệ sinh thái vi sinh vật đường ruột của vật nuôi cũng như giảm lượng vi sinh vật có hại.
Nhờ thế mà vật nuôi tiêu hoá tốt hơn, giảm tỷ lệ bệnh đường ruột, tăng trọng nhanh hơn.
Giá thành của ProBio-S là 5.000-6.000 đồng/kg.
5.1.2.2. Quy trình sản xuất thức ăn gia súc từ bã sắn
Vi sinh vật

Bã sắn

Lên men 1 ngày


Phơi sấy ở 50oC
Nghiền

Phụ gia


Chế phẩm BI-O giàu enzym

Bã sắn

Vi sinh vật

Phụ gia

Lên men 2-3 ngày

Phơi sấy

Chế phẩm BI-P
độ ẩm 60%

Chế phẩm BI-P độ ẩm 12%

5.1.3. Bã sắn sản xuất cồn sinh học
5.1.3.1. Phát triển bã sắn thành cồn sinh học
Vấn đề nghiên cứu nhiên liệu sinh học thay thế cho xăng cũng được nhiều nước
trên thế giới quan tâm từ rất lâu. Thái Lan là nước đã sản xuất thành công etanol sinh học
từ bã sắn, đây thực sự là một bước ngoặc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước
này vì Thái Lan phải nhập 2/3 nguồn năng lượng từ nước ngoài.

Tiến hành bằng cách thủy phân bã để tạo đường và lên men tạo rượu. Phương
pháp này có ý nghĩa rất lớn trong tình hình nguồn than đá, xăng dầu đang có nguy cơ cạn
kiệt và không thể tái tạo. Các nhà nghiên cứu đã nổ lực tìm kiếm nguồn thay thế, trong số
đó, etanol đang được cho là phù hợp hơn cả, nhiên liệu này có thể làm giảm lượng khí
phát thải của xăng và là phụ gia để tăng trị số octan, loại trị số có khả năng gây kích nổ.
Ethanol là một trong số các sản phẩm lên men phổ biến nhất ở vi sinh vật. Vi sinh vật sản
sinh ethanol chủ yếu là nấm men, đặc biệt là các chủng thuộc loài Saccharomyces
cerevisiae. Giống như đa số nấm, nấm men là những cơ thể hô hấp hiếu khí, nhưng khi


vắng mặt không khí chúng sẽ lên men hiđrat cacbon thành ethanol và CO 2. Đường và các
chất dinh dưỡng khác của môi trường lên men, trước tiên được hấp thụ trên bề mặt và sau
đó khuếch tán qua màng bán thấm và vào bên trong tế bào nấm men, sự phân hủy đường
thành rượu trong tế bào nấm men xảy ra bằng hàng loạt các phản ứng với sự tham gia rất
phức tạp của nhiều loại enzyme khác nhau, bước cuối cùng của quá trình lên men là sự
chuyển hóa axit pyruvic thành rượu etylic và khí CO2.
5.1.3.2. Quy trình sản xuất cồn sinh học từ bã sắn

Bã sắn

Men giống

Nhân giống

Xử lý

Thanh trùng

Làm nguội


Lên men

Bổ sung chất dinh
dưỡng

Thu dịch

Chưng cất

Thu cồn

5.2. Thân cây sắn
5.2.1. Đặc điểm và tính chất của thân cây sắn
Là loại cây thân gỗ, hình trụ, có chia đốt và có lóng, sinh trưởng lâu năm, cây cao
từ 1-5 m. Đường kính ở gỗ thân biến động từ 2-6 cm. Thân và cành già đã hóa gỗ có màu
trắng bạc, xám, nâu hoặc hơi vàng. Mặt cắt ngang của một thân sắn gồm: lõi xốp, tế bào
gỗ, tần sinh gỗ, libe, mô mềm, sợi vòng và vỏ.


Thân cây sắn có hàm lượng độc tố HCN cao nhất so với các bộ phận trên mặt đất,
đạt tới 13.8mg/100mg, chiếm 27.2% lượng HCN trong cây sắn.
Trước đây các nhà kh,oa học coi HCN như một yếu tố hạn chế khi sử dụng sắn
làm thức ăn gia súc. Ngày nay, HCN không còn là trở nại nữa. Bởi vì 80-90% HCN sẽ bị
loại trừ bằng các phương pháp chế biến đơn giản như phơi khô, ủ silo, ngâm nước, nấu
chín. Ở thân cây sắn, hàm lượng HCN ở thân già nhiều hơn thân non.
5.2.2. Thân cây sắn ủ chua làm thức ăn cho gia súc
Thân cây sắn chặt thành từng đoạn nhỏ dài khoảng 2-5 cm, trộn 0.5% muối hoặc
0.5% rỉ mật đường, thêm cám gạo hoặc bột sắn, cho vào bao nilon lèn chặt, hút hết không
khí, mỗi bao ủ khoảng 10 kg, để lên men tự nhiên 30-60 ngày cho gia súc ăn, có thể giữ
trong 5-6 tháng.

Cây sắn ủ chua có mùi thơm dễ chịu, màu vàng nhạt, chua nồng, còn kèm theo
mùi ngọt của rỉ đường rất ngon miệng đối với trâu bò. Qua phân tích, thành phần dinh
dưỡng trong thân cây sắn không thay đổi nhiều. Đặc biệt khi thân cây sắn được ủ chua,
hàm lượng độc tố HCN không còn. Đồng thời còn tăng hàm lượng các chất dinh dưỡng
như prtein thô, xơ thô, vật chất khô, chất khoáng, pH…Kết quả cho thấy sau khi cho trâu,
bò ăn thức ăn ủ chua từ thân cây sắn trọng lường từ khi bắt đầu nuôi đến tháng thứ 2 tăng
tới 16.32 kg/con/tháng.
Chặt nhỏ

Thêm rỉ mật

Thêm cám gạo hoặc bột sắn

Cho vào bao, lèn chặt

Hút không khí

Lên men tự nhiên, 30-60 ngày


5.3. Vỏ khoai mì
5.3.1. Đặc điểm và tính chất của vỏ khoai mì
Biểu bì (vỏ lụa): dày 0,2-0,3 mm, đôi khi có những vân thô dài dọc theo củ.
Tầng vỏ: dày khoảng 1,6-1,7mm, lớp trên thường màu đổ tía, trắng vàng... (tùy
theo giống) bao gồm:
+ Lớp vỏ ngoài hóa gỗ
+ Mô mền amilic (cũng dự trữ tinh bột nhưng rất ít)
+ Tế bào Libe
+ Tầng sinh gỗ giới hạn trụ giữa của vỏ trong.
Tầng vỏ chứa tương đối đầy đủ các chất dinh dưỡng: tinh bột, prôtêin, pentozan và

đặc biệt HCN rất cao. Tinh bột:13,1- 14,2%; đạm:2,9- 3,2%.
5.3.2. Khái niệm về compost
Qúa trình chế biến compost: là quá trình phân hủy sinh học và ổn định của chất
hữu cơ dưới điều kiện nhiệt độ thermophilic. Kết quả của quá trình phân hủy sinh học tạo
ra nhiệt, sản phẩm cuối cùng ổn định, không mang mầm bệnh và có ích trong việc ứng
dụng cho cây trồng.
Compost: là sản phẩm của quá trình chế biến compost, đã được ổn định như chất
mùn, không chứa các mầm bệnh, không lôi kéo các côn trùng, có thể được lưu trữ an toàn
và có lợi cho sự phát triển của cây trồng.
5.3.3. Quy trình sản xuất phân compost từ vỏ khoai mì
Hệ thống làm phân Compost Lemna là một công nghệ kỹ thuật kín được cấp bằng
sáng chế độc quyền. Công nghệ Lemna sử dụng các bao ủ có hàm lượng polythene thấp
để chứa và bảo vệ rác hữu cơ có thổi khí nhằm mục đích đẩy nhanh quá trình composting
tự nhiên để sản xuất ra phân bón hữu cơ chất lượng cao. Từ khâu xử lý nguyên liệu đầu
vào cho đến giai đoạn sản xuất cuối cùng thành phẩm phân Compost hữu cơ và các sản
phẩm phụ khác có thể bán được, thì việc thiết kế quy trình và chất lượng thiết bị tiên tiến
được sử dụng trong Hệ Thống Composting Lemna luôn đảm bảo được sự kiểm soát đáng
tin cậy quy trình xử lý.
Hệ Thống Composting Lemna có nhiều ưu điểm hơn các kỹ thuật composting
khác. Những ưu điểm này bao gồm:
+ Các bao là những ống chứa hiệu quả, chịu được các tác động của mưa, gió.
+ Không có mùi hôi và ruồi muỗi.
+ Ngăn chặn bụi và nước rò rỉ
+ Giảm nhu cầu về diện tích đất
+ Đẩy nhanh quá trình làm phân compost
+ Quá trình vận hành đơn giản và chi phí bảo dưỡng thấp.
+ Không có nguy hiểm về hỏa hoạn
+ Các bao chứa rác có thể tái sử dụng lại.
+ Hệ thống này dễ mở rộng thêm để tăng công suất trong tương lai.
Tất cả những đặc điểm trên giúp Hệ Thống Composting Lemna có vốn đầu tư, chi

phí vận hành và bảo dưỡng thấp nhất so với bất kỳ hệ thống nào khác hiện có.


5.3.4. Mô tả và tính toán công nghệ
5.3.4.1. Trạm kiểm tra
Tất cả xe cộ và người đi vào đường dẫn tới khu Nhà máy đều qua một trạm kiểm
tra. Người gác hay người cân xe sẽ kiểm tra sơ bộ rác và quyết định cho xe rác được đi
vào nhà máy hay không. Tất cả các xe chở rác được phép vào sẽ đi qua trạm cân và được
cân. Số liệu thích hợp cho từng chuyến được ghi lại. Khi đi ra khỏi khu bãi, mỗi xe được
cân lại để biết trọng lượng ròng của từng chuyến xe rác đã đổ.
5.3.4.2. Cắt rác
Kích cỡ nguyên liệu giúp xác định nguyên liệu đó sẽ làm phân Compost tốt như
thế nào.Các miếng nguyên liệu lớn sẽ không thành phân compost nhanh bằng các miếng
nhỏ. Nguyên liệu càng nhỏ thì càng có thêm diện tích bề mặt để vi khuẩn tấn công vào và
do vậy, quá trình thành phân compost của nguyên liệu nhanh hơn. Tất cả nguyên liệu còn
lại trên băng tải nhặt rác sẽ đi thông qua lớp vách mở và chuyển tới bàn máy để cắt. Máy


cắt đưa các nguyên liệu được cắt nhỏ xuống sàn bê tông để lưu vào kho ngay trước khi
đem trộn.
5.3.4.3. Trộn rác
Trạm trộn gồm có máy nghiền trộn lớn được tiếp nguyên liệu từ một băng tải
chuyển nguyên liệu đến từ các thùng chứa nguyên liệu. Việc thỉnh thoảng kiểm nghiệm
mỗi loại nguyên liệu là cần thiết để xác định việc trộn nguyên liệu như mong muốn. Mỗi
loại nguyên liệu đưa ra từ thùng chứa đều được đo như thiết kế máy trộn yêu cầu. Một
người vận hành máy xúc bổ sung thêm nguyên liệu khi chúng được sử dụng hết trong
mỗi thùng nguyên liệu.
Các chất phụ gia cần để bổ sung cacbon và thiết lập tỉ lệ Cacbon/Nitơ tối ưu. Bên
cạnh đó, các chất phụ gia còn dùng để tạo FAS (không gian trống cho không khí hoạt
động) để không khí lưu thông và làm khô nguyên liệu.Trong trường hợp sử dụng chất

phụ gia khô, nó còn dùng để hấp thụ trực tiếp độ ẩm còn dư.
5.3.4.4. Ủ phân
Các ống làm phân Compost được sử dụng trong Hệ Thống Composting Lemna là
các bao hàm lượng polythene thấp có đường kính 3 mét và chiều dài lên đến 60 mét. Mỗi
bao sẽ chứa đến 210 tấn phân Compost.
Thời gian ủ: 49 ngày. Trung bình 1 năm ủ được 7 đợt
970389
= 660 (bao)
7 × 210

Số bao cần thiết để ủ cho mỗi nhà máy là:
Chia số bao ủ phân làm tám hàng, mỗi hàng 82 bao
Khoảng cách giữa 2 bao là 2m, khoảng cách giữa các hàng là 12m (khoảng cách
đủ đặt các thiết bị chế biến phân)
5.3.4.5. Đưa nguyên liệu vào bao bằng máy đóng bao đặc biệt
Hệ Thống Composting Lemna sử dụng các bao gồm 3 lớp nilong làm bằng chất
dẻo polythene và các máy đóng bao thích hợp với ngành công nghiệp dự trữ thức ăn gia
súc. Một máy trộn, xe tải hay xe chất rác đưa nguyên liệu đã chuẩn bị vào một bàn đưa
vật liệu, băng chuyền hay vào một cái phễu. Từ đây, nguyên liệu được chuẩn bị được đưa
vào bộ phận nén trên máy đóng bao.Áp lực nén có thể được kiểm soát bởi vì áp lực cần
thiết phụ thuộc vào loại nguyên liệu và vào bề mặt thiết bị đang chạy trên đó. Nói chung,
một loại nguyên liệu quá ẩm ướt, có kích cỡ vừa phải sẽ có thể kết lại thành một khối cô
đặc hơn là nguyên liệu khô hơn và chắc chắn hơn. Mục tiêu là một khối được kết lại có
đủ không gian cho không khí vào (FAS) để cho phép không khí xâm nhập vào tất cả các
phần của bao.
5.3.4.6. Lắp đặt hệ thống thông khí
Vận tốc thổi khí cho quá trình ủ phân thường trong khoảng 5 –10m3¬¬ khí/tấn
nguyên liệu/h. Chọn 7m3 khí/tấn nguyên liệu/h
Với bao 210 tấn có hệ thống thổi khí cho từng bao có công suất: 7 x 210 = 1470
(m3/h)

Trong suốt quá trình đưa nguyên liệu vào bao, ống đã đục lỗ được lắt đặt cùng với
nguyên liệu chạy dọc theo toàn bộ chiều dài của bao. Đường kính của ống và việc đục lỗ


được thiết kế cùng với máy quạt gió để cung cấp không khí cần thiết vào nguyên liệu
trong suốt quá trình ủ phân.
Các bộ phận kiểm soát được thiết lập để tắt và mở máy quạt gió hoạt động theo
từng đợt suốt thời gian trong ngày để nguyên liệu đang ủ nhận được lượng không khí cần
thiết. Khi nguyên liệu được đặt vào bao lần đầu tiên, mức Oxy đủ để xúc tiến quá trình
phát triển vi khuẩn hiếu khí trong một thời gian ngắn. Khi lượng cung cấp Oxy ban đầu
được sử dụng hết, máy quạt gió được sử dụng để đưa một lượng Oxy mới vào nguyên
liệu composting.
Trong Hệ Thống Composting Lemna, sự phát triển vi khuẩn và nhiệt độ sử dụng
được kiểm soát bằng cách hạn chế lượng Oxy có sẵn. Do đó, nếu nhiệt độ bắt đầu tăng
quá nhanh, người vận hành sẽ chuyển sang lựa chọn chương trình ít thời gian thông khí
hơn. Mục tiêu là nhằm để giữ mức nhiệt độ ở mức từ 90o – 140o Fa-ren-hét.Nhiệt độ bên
ngoài những giới hạn này có thể xảy ra và mặc dù không phải là nhiệt độ tối ưu, chúng
không gây ra tác hại gì. Việc trộn và/hay phân phối không khí không đều có thể làm cho
nhiệt độ thay đổi từ phần này sang phần khác của bao. Khi điều này xảy ra, một phần
nguyên liệu có thể đạt đến độ chín nhanh hơn so với các phần khác.
Lượng không khí, Cacbon Đioxyt và hơi ẩm dư thừa được đưa ra ngoài thông qua
các lỗ thông khí được thiết kế dọc theo mỗi bên của bao. Đây là dòng khí không độc hại
có thể thoát ra đi vào bầu khí quyển mà không gây ra bất cứ nguy hại nào hoặc ảnh
hưởng sức khỏe của công nhân, dân cư lân cận hay ảnh hưởng đến hệ động vật và hệ thực
vật gần đó. Tất cả vi khuẩn trong phân compost xuất hiện tự nhiên, và trong quá trình
phân hủy thành phân compost, chúng sử dụng khí Oxy được cung cấp. Không có tác nhân
gây bệnh hay vi khuẩn bị thải vào không khí; các tác nhân gây bệnh bị phân hủy trong
quá trình làm phân compost và các vi khuẩn có ích vẫn còn lại trong nguyên liệu làm
phân và dần dần chuyển hóa nguyên liệu thành phân compost. Nếu cần thoát khí ra thêm
thì có thể tạo thêm các lỗ thông khí bổ sung. Nếu sau này không còn cần lỗ thông khí

được tạo bằng dao nữa thì có thể niêm phong chúng bằng dây.
5.3.4.7. Đưa Compost thành phẩm ra khỏi bao
Việc đưa phân Compost thành phẩm ra khỏi bao thường được thực hiện bằng xe
máy ủi sau khi bao được cắt dọc theo phần dưới của mỗi bên và được cuốn lui về phía
sau. Nguyên liệu được lấy ra từ giữa và trên các ống thổi khí cho đến khi các ống hết
sạch phân và được kéo đi cho khu vực sử dụng kế tiếp.Bao có thể được cắt thành các
phần có thể quản lý được, được cuộn hay gấp lại để lưu trữ cho đến khi được xử lý với
các chất dẻo mỏng khác.
5.3.4. 8. Xử lý độ chin
Độ chín hay độ ổn định nói về sự oxy hóa nguyên liệu hữu cơ hay sự chuyển đổi
của chúng thành một dạng ổn định hơn. Sự ổn định hoàn chỉnh sẽ mang lại một sản phẩm
ít hay không có giá trị như một chất điều hòa đất trồng. Tuy nhiên, quá nhiều nguyên liệu
hữu cơ còn lại có thể gây ra vấn đề do các điều kiện về hiếu khí và mùi hôi khi được lưu
trữ hay khi sử dụng. Do đó, phân compost đã chín và sẵn sàng cho sử dụng là khi nó rơi
vao khoảng giữa hai mức độ đó.
Một cách đánh giá độ chín phân compost khác là dựa vào số lượng nguyên liệu
hữu cơ dễ bay hơn còn lại (các chất dễ bay hơi) hay nguyên liệu sẽ trở thành phân


compost khi được cung cấp đủ thời gian và các điều kiện thuận lợi. Tỉ lệ xếp hạng một
nguyên liệu phụ thuộc vào kích cơ hạt phân và khả năng chống đỡ của nguyên liệu đối
với quá trình phân hủy.Cách thức này có thể hữu ích trong việc xác định độ chín phân
compost của những nguyên liệu đưa vào tương tự nhau nhưng có thể cho kết quả không
chính xác khi được sử dụng để so sánh các nguyên liệu không giống nhau.
Có rất nhiều chỉ thị khác được sử dụng để xác định độ chín phân compost, chẳng
hạn như tỉ lệ Oxy được sử dụng cho hoạt động của vi khuẩn, số phần trăm cacbon (được
xác định từ lượng tro), tỉ lệ cacbon/nitơ … nhưng trong hầu hết trường hợp, kinh nghiệm
vận hành cuối cùng là sự phán đoán tốt nhất.
Phân compost sẽ được để trong bao cho đến khi nó đã chín và sẵn sàng để xử lý
thêm. Độ ẩm có thể được kiểm tra bằng việc lấy mẫu với một dụng cụ lấy mẫu hoặc bằng

cách mở bao ra và kiểm tra nguyên liệu.Thông thường lớp bên ngoài gần bao ẩm hơn
nguyên liệu gần ống thổi khí.Cũng giống vậy, phần nguyên liệu ở đáy bao thường ẩm hơn
phần nguyên liệu còn lại.
Hệ Thống Composting Lemna sử dụng các bao gồm 3 lớp nilong làm bằng chất
dẻo polythene và các máy đóng bao thích hợp với ngành công nghiệp dự trữ thức ăn gia
súc. Một máy trộn, xe tải hay xe chất rác đưa nguyên liệu đã chuẩn bị vào một bàn đưa
vật liệu, băng chuyền hay vào một cái phễu. Từ đây, nguyên liệu được chuẩn bị được đưa
vào bộ phận nén trên máy đóng bao được thiết kế đặc biệt.Áp lực nén có thể được kiểm
soát bởi vì áp lực cần thiết phụ thuộc vào tỷ trọng và độ ẩm của loại nguyên liệu.Mục tiêu
là một khối được kết lại nhưng vẫn có đủ không gian cho không khí đi vào để cho phép
không khí xâm nhập vào tất cả các phần của bao.
Khi phân compost đạt đến độ chín như mong muốn, nó sẽ được kiểm tra về độ ẩm.
Điều này có thể được thực hiện hoặc bằng máy góp trung tâm hoặc bằng cách chế tạo
một lỗ mở kiểm tra đủ rộng để có thể đi sâu vào mọi nơi trong khối nguyên liệu để kiểm
tra dung lượng hơi ẩm. Thông thường, lượng hơi ẩm khoảng 35% là lý tưởng để sàng lọc.
Nếu phân compost quá ẩm, bộ phận kiểm soát máy quạt gió sẽ được thiết lập để thổi
lượng không khí tối đa càng nhiều càng tốt để đạt đến độ khô ráo như mong muốn.Việc
này có thể mất vài tuần, phụ thuộc vào lượng không khí hiện hữu, độ ẩm và nguyên liệu
ẩm ướt như thế nào để bắt đầu.Một khi được làm khô đến mức độ cần thiết, máy quạt gió
có thể được tắt đi và mang đi chỗ khác. Một kỹ thuật khác được sử dụng để làm khô thêm
là thông khí vào bao mỗi lần vài feet trên cao và dưới thấp dọc theo mỗi bên bao để quá
trình đối lưu tự nhiên diễn ra.
5.3.4.9. Sàng lọc
Bất cứ nguyên liệu nào không thể làm phân compost được đều phải được loại bỏ
ra bằng cách sàng lọc. Các nguyên liệu này bao gồm các miếng plastic mỏng hay cứng,
thủy tinh … Trong đa số trường hợp, phân compost nên đạt được độ ẩm từ 35 – 40%
trước khi được sàng lọc. Các vật quá cỡ không thể làm compost được sẽ đem đi chôn
lấp.Phương thức cắt nhỏ rác bằng hơi thổi có thể tinh lọc thêm sản phẩm cuối cùng, nếu
cần.
Nếu thành phẩm phân Compost cần được dự trữ, hoặc trực tiếp lấy từ bao ủ hoặc

sau khi sàng, thì phân Compost dự trữ cần được đậy lại để tránh đông cục do nguyên liệu


dự trữ quá ẩm ướt. Phân Compost rất nhạy cảm với độ ẩm và trở nên khó xử lý nếu quá
thừa độ ẩm thấm vào phân.
5.4. Lá sắn
5.4.1. Hàm lượng dinh dưỡng trong lá sắn
Lá sắn có hàm lượng đạm khá cao (20-25% trọng lượng chất khô) với nhiều chất
bột, chất khoáng và vitamin. Chất đạm của lá sắn có khá đầy đủ các acid amin cần thiết,
giàu lysin nhưng thiếu methionin.
Trong lá sắn ngoài các chất dinh dưỡng, cũng chứa một lượng độc tố [HCN] đáng
kể. Các giống sắn ngọt có 80-110 mg HCN/ 1kg lá tươi. Các giống sắn đắng chứa 160240 mg HCN/ 1kg lá tươi. Lá sắn ngọt là một loại rau bổ dưỡng có chứa nhiều chất đạm,
canxi, caroten, vitamin B1, C. nhưng cần chú ý luộc kỹ để làm giảm hàm lượng HCN. Lá
sắn đắng không nên luộc ăn mà nên muối dưa hoặc phơi khô để làm bột lá sắn phối hợp
với các bột khác làm bánh thì hàm lượng HCN còn lại không đáng kể.
Độc tố HCN: Sắn có chứa một lượng độc tố ở dạng glucozit với công thức hóa
học C10H17O6N. Độc tố này được phát hiện lần đầu vào năm 1885 bởi Peckolt và được gọi
là manihotoxin. Sau đó, Dunstan và Henry đã phân ly đựơc chất này có tính độc tương tự
như chất say của một số loại họ Đậu (Bùi Huy Đáp, 1987). Chất độc này vị đắng có mặt
trên hầu hết các bộ phận của cây và tất cả các giống (Narty,1973). Dưới tác dụng của dịch
vị có chứa acid clohydric hoặc men tiêu hóa, chất này bị phân hủy và giải phóng ra acid
cyanhydric (Cyanogenes) là chất độc với người:

C6H17O6N
Linamarin

+

H2O


===>

C6H12O6 + (CH3)3 + HCN
Glucoze

Axeton

Acid cyahydric

HCN là chất gây độc đối với người và gia súc. Liều gây độc cho người lớn là 20
mg HCN . Liều gây ngộ độc có thể chết người là 1,4mg HCN /1 kg trọng lượng cơ thể.
Đối với trẻ em, người già và người ốm yếu thì liều gây độc và gây chết còn thấp hơn
(Hoàng Phương, 1978). Cơ chế gây độc là do HCN thấm vào máu, kết hợp với phân tử
của máu, gây cản trở việc vận chuyển O2 và thải CO2, nên bệnh nhân khó thở.
5.4.2.Lá sắn làm thức ăn trực tiếp cho chăn nuôi
Trồng sắn (khoai mì) ngoài mục đích lấy củ, lá còn sử dụng để nuôi tằm sắn, đây là
một sự kết hợp cho hiệu quả cao cùng với lợi ích kép trong nông nghiệp. Sử dụng lá sắn
để nuôi tằm sắn nhằm tận dụng lượng lá sắn sẵn có mà không phải mất thêm đất đai và


vốn đầu tư trồng trọt. Vì vậy nghề nuôi tằm sắn đã trở thành một trong những giải pháp
xóa đói, giảm nghèo của đồng bào miền núi.
5.4.3. Lá sắn muối chua
Nguyên tắc ủ chua: Đảm bảo hoàn toàn yếm khí: Ủ chua lá sắn tươi là phương
pháp ủ chua yếm khí. Do đó đảm bảo yếm khí là điều kiện tiên quyết của ủ chua Nghĩ là
phải giảm lượng không khí trong bao ủ tới mức tối đa và không khí từ bên ngoài không
thể vào trong bao được, nếu không thì thức ăn ủ sẽ bị thối, mốc. Vì vậy nên ủ thức ăn
trong bao nilon hai lớp hoặc bể, thùng kín.
Qui trình ủ chua: Sau khi hái xong phải sơ chế qua rau sắn, giữ lại chừng 2, 3
cuống lá từ ngọn trở xuống, còn các lá sắn thấp hơn thì bấm lấy lá rồi bỏ cuống.

Nhặt rau xong phải vò rau thật kỹ cho ra hết nhựa. Vò rau phải dùng lực vừa đủ, để rau
nhục, nhừ mà vẫn còn nguyên hình dạng ngọn rau đẹp mắt, chứ không được để rau bị nát
vụn, tả tơi. Vò xong rửa rau nhiều lần với nước cho tới khi nào nước không còn đục, tức
là rau đã hết nhựa thì thôi.

Hình . Lá sắn muối chua
Làm dưa lá sắn cũng giống như món dưa cải phổ biến của người Việt Nam. Để có
được vại dưa sắn ngon, người ta phải chọn những tàu lá bánh tẻ - không quá non cũng
không quá già, ngọn to, mập. Lá sau khi rửa sạch để cho thật ráo nước, hoặc phơi qua để
dưa sắn có độ dai và mau chua.
Công đoạn muối đòi hỏi sự khéo léo của người làm. Cứ mỗi lớp lá người ta rải
một lớp muối mỏng. Nước để làm dưa sắn phải còn hơi nóng. Sau một ngày đem đổ nước
cũ đi thay nước khác vào. Dưa sắn muối trong khạp, trong hũ sành, đậy kín để hơn một
tuần khi dưa có màu vàng là ăn được.
Với dưa lá sắn, người Phú Thọ có thể dùng nấu nồi canh chua đặc biệt. Chỉ cần
cho hành khô vào phi thơm, đem dưa sắn bỏ vào đảo đều cho chín mềm, đổ nước dưa vào
(tùy sở thích có thể pha thêm nước cho bớt chua) đun sôi rồi cho cá đã rán qua vào đun


nhỏ lửa bỏ chút gia vị cho vừa ăn. Cuối cùng cho thêm ớt vào lấy vị cay, nhấc khỏi bếp là
đã có một nồi canh chua ngon lành.
Lá sắn ủ chua còn được sử dụng làm thức ăn gia súc với số lượng lớn.
5.4.4. Lá sắn làm thực phẩm bán sang EU
Lá sắn keo - loại sắn truyền thống của Việt Nam, là một món ăn yêu thích, đặc sản
của người dân gốc Phi ở châu Âu. Lá sắn, sau khi làm sạch, xay nhuyễn (tên là Cassava
leaves minced) cho thêm gia vị, hải sản… tạo thành món súp ăn với cơm trắng. Để có
những gói lá sắn đủ tiêu chuẩn xuất khẩu không phải là việc dễ dàng. Đầu tiên phải chọn
đúng loại sắn ta chứ không phải sắn cao sản (sắn lai) mà người dân đang trồng nhiều nơi.
Sắn lai có hàm lượng cyanua trong lá cao nên rất khó chế biến và không đủ tiêu chuẩn
xuất khẩu, chúng tôi chỉ mua lá sắn thường từ vùng Long An để xuất khẩu” - ông Trần

Thanh Phú, giám đốc Công ty Tân Đông nói.
Trước khi thu hoạch củ sắn vài ngày, người dân sẽ hái lá bán lại cho công ty. Hiện
giá lá sắn mà Công ty Tân Đông mua là 3.500 đồng/kg, cao hơn nhiều so với giá bán củ
của bà con nông dân.
Lá sắn được vận chuyển từ nơi thu hạoch về kho của nhà máy. Tại đây, các công
nhân sẽ cắt cuống chỉ giữ lại phần lá rồi rửa sạch, ngâm qua nước muối, xử lý rồi cho vào
xay nhỏ, đóng gói khoảng 500 gam/gói rồi cấp đông ở nhiệt độ âm 38 oC đến âm 40oC
trước khi đóng thùng xuất khẩu. Mỗi lô hàng đều phải lấy mẫu để các phòng thí nghiệm
kiểm tra hàm lượng cyanua, nếu đạt mới dám xuất khẩu.
5.4.5. Lá sắn làm bột lá sắn
Bột lá sắn kết hợp với các bột khác làm bánh, còn có thể làm thức ăn chăn nuôi.
Lá sắn

Bỏ cuống, rửa sạch,
để ráo

Cắt, băm

Sấy khô

Nghiền


Bột lá sắn

Đóng gói, bảo quản

Sau khi thu hoạch củ, lá sắn cũng được thu hoạch để bán cho các công ty cần. Lá
sắn sau khi thu hoạch đem về nhà máy sẽ được rửa sạch, để ráo và loại bỏ cuống vì cuống
của lá sắn rất cứng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bột lá sắn lúc thành phẩm. Sau

khi xử lí sơ bộ, lá sắn được đem đi băm nhỏ để cho quá trình nghiền dễ dàng hơn, sau khi
băm nhỏ, lá sắn sẽ được đem đi sấy ở nhiệt độ thích hợp để mất hết nước. Quá trình
nghiền sẽ dễ dàng nhờ quá trình băm nhỏ trước khi sấy, sau khi nghiền thành bột, sẽ được
bổ sung một số phụ gia bảo quản và đóng gói.
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> />


×