Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận môn tài chính hành vi ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi để giải thích các trường hợp trong thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.97 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC
TÀI CHÍNH HÀNH VI
ĐỀ TÀI:
ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH HÀNH VI ĐỂ GIẢI
THÍCH CÁC TRƯỜNG HỢP TRONG THỰC TIỄN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:

TS Nguyễn Hoàng Anh

1. Học Viên Thực Hiện:

Lê Thị Mỹ Linh

2. Học Viên Thực Hiện:

Trần Quốc Đạt

3. Học Viên Thực Hiện:

Lê Tuấn Anh

Lớp chuyên ngành:

Tài chính – Ngân hàng

Nhóm thực hiện:


Nhóm 03


Danh sách nhóm và Mô tả phân công công việc
STT

1

Lê Thị Mỹ Linh

2

Trần Quốc Đạt

3

Lê Tuấn Anh

2


Mục lục


1. Giới thiệu
Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một người
thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi
xem. Mải làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng
bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời
nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối đúng là

tâm địa gian manh. Được một lúc, ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu
đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác
với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo,
khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng
là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa.
Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là ý kiến
mình có sẵn về một người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người
và vật theo suy nghĩ riêng chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung
thực. Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật
đều nhuộm mầu của kính. Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều
xanh. Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh là ở
mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán đoán của người có thiên kiến
thường không chính xác.
Qua câu chuyện trên cũng cho chúng ta thấy được khái quát sơ lược của
thiên kiến là gì? Và để đi sâu nghiên cứu những khía cạnh xung quanh
thiên kiến chúng ta có thể đọc qua ví dụ về bà Tâm để tìm hiểu kĩ hơn
cũng như phân tích hay xây dựng những hướng đầu tư tốt hơn cho bà
Tâm.

4


2. Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết triển vọng (Prospect Theory): Cho rằng lý thuyết hữu dụng
kỳ vọng chuẩn, chúng ta không thể giải thích một cách đầy đủ về việc ra
quyết định trong điều kiện rủi ro. Luận điểm này dựa trên những bằng
chứng thực nghiệm cho thấy con người có những hành vi trái ngược với
lý thuyết hữu dụng kỳ vọng chuẩn. Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng chuẩn
đề cập con người nên hành động thế nào còn lý thuyết triển vọng đề cập
con người thực sự hành động thế nào.

E ngại rủi ro (risk averse): Mô tả một cá nhân ưa thích giá trị kỳ vọng
của triển vọng hơn so chính triển vọng đó.
Khả năng chấp nhận rủi ro (risk capacity): Là mức độ rủi ro phù hợp
với độ tuổi, kế hoạch, nghỉ hưu, thu nhập, nhu cầu thanh khoản và nhiều
yếu tố khác của một cá nhân có thái độ đối với rủi ro ở mức trung bình.
Nhận thức (perception): Có chức năng tải thông tin vào “máy tính con
người” nhưng thường đọc sai thông tin. Chúng ta chỉ nhìn thấy những gì
chúng ta kỳ vọng. Nhận thức có sự chọn lọc, trong đó các kỳ vọng có
yếu tố tác động mạnh mẽ.
Lệch lạc nhận thức muộn hay dự đoán theo sự thật đã xảy ra
(hindsight bias): thường xảy ra trong hoàn cảnh khi mà con người tin
rằng (sau khi sự thật đã xảy ra) sự khởi đầu của một số sự kiện trong
quá khứ là có thể dự đoán được và rất rõ ràng, trong khi thực tế là sự
kiện đó đã không thể được dự đoán trước một cách hợp lý.
Xung đột nhận thức (cognitive dissonance): Đội khi một số nhận thức
bị bóp méo bởi ý muốn bản thân (self-serving fashion). Xung đột nhận
thức tạo nên tình huống trong đó mọi người bị thúc đẩy phải giảm thiểu
hoặc né tránh những mâu thuẫn trong tâm lý, thường để nhằm gia tăng
hình ảnh tích cực của bản thân.
Trí nhớ (memory): Sự sai lệch ngày càng tăng khi một người cố gắng
nhớ lại nhận thức hoặc quan điểm trong quá khứ. Trí nhớ sẽ được tái tạo
lại, tuy nhiên không chỉ tái tạo lại mà còn biến đổi rất mạnh mẽ.
Hiệu ứng tương phản (contrast effect): nhận thức và trí nhớ bị ảnh
hưởng bởi sự trình bày hay bối cảnh.

5


Hiệu ứng ban đầu (primacy effect): Trong một loạt các yếu tố được
đưa ra có tác động đến nhận thức thì yếu tố nào xuất hiện trước sẽ tác

động lớn hơn.
Hiệu ứng tức thì (recency effect): Ngược lại hiệu ứng ban đầu, đó là
những yếu tố xuất hiện cuối cùng sẽ mang tác động lớn hơn.
Hiệu ứng danh tiếng (halo effect): Người ta thường bị quan điểm và
thái độ chung về một sự vật (sự việc hay con người) làm ảnh hưởng đến
việc đánh giá một tính chất nào đó của sự vật đó.
Dễ dàng xử lý thông tin (ease of processing): Con người thường ưa
thích các tình huống mà có thể dễ dàng xử lý thông tin. Thông tin dễ
hiểu thường cho là chắc chắn đúng.
Quá tải thông tin (information overload): Khi xảy ra hiện trạng thừa
thãi thông tin, con người bối rối và né tránh ra quyết định.
Tự nghiệm (heuristic): Trong trường hợp con người phải ra quyết định
nhanh chóng trong bối cảnh thông tin và khả năng xử lý bị hạn chế thì
tự nghiệm là quy tắc đưa ra quyết định sử dụng tập hợp con trong tất cả
thông tin. Được chia ra hai nhóm:


Tự nghiệm dạng 1 (type 1 heuristic): phản thân (reflexive), tự trị
(autonomic), không nhận thức (noncognitive) và tiết kiệm chi phí.
Tự nghiệm phù hợp khi phải nhanh chóng ra quyết định hay với



những số tiền đặt cược nhỏ.
Tự nghiệm dạng 2 (type 2 heuristic): bản chất là nhận thức. Tự
nghiệm này đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn và phù hợp với số tiền đặt
cược cao.

Ngoài ra, một số bài báo khác tự nghiệm có 3 loại: tình huống điển hình
(representativeness), sự sẵn có (availability) và neo quyết định

(anchoring).


Tự nghiệm tình huống điển hình: xu hướng tính xác suất của A dựa



trên mức độ tương đồng của A so với B.
Tự nghiệm sự sẵn có: xu hướng tìm kiếm thông tin dễ dàng có



được và xử lý.
Tự nghiệm neo quyết định: xu hướng bám vào niềm tin trước đó
lâu hơn mức hợp lý.

Sự quen thuộc (familiar): Con người thường thấy an tâm với những
điều quen thuộc. Con người không thích sự mô hồ và tìm cách né tránh
6


rủi ro không được bù đắp. Con người thường có khuynh hướng gắn liền
với những cái gì họ biết thay vì xem xét các lựa chọn khác. Con người
lảng tránh tiếp nhận những sáng tạo mới dù biết điều này rất đáng giá.
Tất cả điều này cho thấy con người luôn tìm kiếm sự an tâm.
E ngại sự mơ hồ (ambiguity aversion): Con người ưa thích sự rủi ro
(xác suất thành công) hơn là sự không chắc chắn.
Tự nghiệm đa dạng hoá (Diversification heuristic): Con người thường
ít cố gắng khi đứng trước các sự lựa chọn không loại trừ lẫn nhau.
Lệch lạc không thích sự thay đổi (Status quo bias) hay hiệu ứng coi

trọng hóa sở hữu (endowment effect): là một tâm lý sợ thua lỗ trong bối
cảnh phi rủi ro, ở đây như một dạng tự nghiệm: “giữ chặt lấy cái mà bạn
có nếu bạn không có lý đo mạnh mẽ nào để làm khác đi”.
Neo quyết định (anchor): Khi con người ra quyết định đều có mốc neo
và điều chỉnh nó theo hướng nhất định. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này
thường không đầy đủ theo một số quan điểm sau như con người không
chắc chắn về giá trị đúng và điều chỉnh lệch mốc neo nên vùng giá trị
hợp lý càng lớn hoặc con người thiếu nỗ lực nhận thức và lười biếng
nhận thức. Khi không chắc chắn, con người thường neo vào những giữ
liệu có sẵn và điều chỉnh quan điểm của họ một cách chậm chạm. Neo
quyết định thậm chí xuất hiện ngay cả khi mốc neo đó không quan
trọng.
Khó khăn trong quyết định phân bổ tài sản đối nhà đầu tư hưu
trí: Nhà đầu tư hưu trí dường như không hiểu về quyết định phân bổ tài
sản (asset allocation), họ không hiểu làm cách nào để lựa chọn các tài
sản để rủi ro tổng thể phù hợp với mức độ chấp nhận rủi ro của mình. Sự
nhầm lẫn này có thể gây ra tác hại vì các quyết định phân bổ danh mục
thường là quyết định quan trọng nhất đối với thành quả danh mục của
nhà đầu tư dài hạn. Cách xác định đối tượng có vấn đề này, đó là xem
liệu họ có nhất quán trong lựa chọn khi họ buộc phải đưa ra ý kiến. Khi
các cá nhân không chắc chắn, họ thường dựa vào tự nghiệm, cho phép
họ làm những gì mà họ cho là hợp lý.
Các nhân tố chuẩn tắc trong quyết định phân bổ tài sản
Có 2 nhân tố chuẩn tắc về nhân khẩu học là thái độ đối với rủi ro và độ
tuổi. Những người có thái độ e ngại rủi ro cao, hoàn toàn do sở thích cá
nhân, thường sẽ chọn một độ nhạy cảm đối với thu nhập cố định cao
7


hơn trong danh mục của mình. Có bằng chứng biến đại diện cho thái độ

rủi ro là giới tính, với nữ giới thường e ngại rủi ro hơn với nam giới. Thứ
2, về độ tuổi thì khi cá nhân càng lớn tuổi và sắp nghỉ hưu , nguồn lực
con người có xu hướng giảm sút, yêu cầu một độ nhạy vốn cổ phần thấp
hơn để duy trì một vị thế rủi ro tương đối ổn định. Thực sự những nhà
lập kế hoạch đề xuất tỷ trọng vốn cổ phần không chỉ phù hợp thái độ đối
với rủi ro mà còn sụt giảm 1%/năm khi họ sắp nghỉ hưu.
Tiến trình truyền thống khi quyết định phân bổ tài sản được vận hành
bằng chiến lược khảo sát thông qua bản câu hỏi đo lường mức độ chấp
nhận rủi ro. Bản câu hỏi thiết kế để đánh giá mức chịu đựng rủi ro (risk
tolerance) là hàm số gồm khả năng chấp nhận rủi ro (risk capacity) và
thái độ đối với rủi ro (risk attitude). Khả năng chấp nhận rủi ro đề cập
đến mức độ rủi ro trung bình phù hợp với các cá nhân có cùng độ tuổi,
kế hoạch nghỉ hưu, thu nhập, nhu cầu thanh khoản. Thái độ đối với rủi ro
được xem là nhân tố điều chỉnh, phản ánh mức độ mà một cá nhân cụ
thể lệch khỏi khả năng chấp nhận rủi ro do những ưu tiên cá nhân và
các yếu tố tâm lý => Cách thức phân bổ tài sản từ bản câu hỏi là rủi ro
chủ quan (subjective risk).
Rủi ro chủ quan khác với rủi ro khách quan (objective risk), có được từ
các quyết định đầu tư thực sự được phản ánh trong tỷ lệ phần trăm các
tài sản rủi ro trong toàn danh mục. Hai cách này đều có kết quả tương
tự nhau nhưng đôi khi cũng có phân tán dẫn đến liệu cái nào tốt hơn.
Xin trình bày 2 dạng đều có vấn đề. Mặc dù những gì thực sự làm tốt
hơn đó là rủi ro khách quan nhưng có thể sai lầm do thiếu hiểu biết,
quán tính. Sự thiếu hiểu biết dẫn đến các lựa chọn đầu tư mà rủi ro của
nó không phù hợp với sự ưa thích. Việc không tái cân bằng do quán tính
có thể khiến phân bổ tài sản khác với dự tính khi thị trường dịch chuyển
lên xuống.
Rủi ro chủ quan có thể sai lầm do lỗi công cụ hoặc/và lỗi người trả lời.
Lỗi của người trả lời có thể họ không hiểu câu hỏi và trả lời theo hướng
khác với mục tiêu chính mà câu hỏi đặt ra cho họ. Lỗi của công cụ là

thiếu tính hiệu lực và độ tin cậy. Tính hiệu lực ở đây là bảng câu hỏi có
thực sự đo những thứ mà nó thực sự muốn đo, độ tin cậy biểu thi nhất
quán của kết quả. Để đạt tính hiệu lực cần hỏi câu hỏi đúng. Để có độ
tin cậy cần có các “câu hỏi phù hợp” với “số lượng đủ lớn”. Vấn đề là tác
8


động của một câu hỏi bị hiểu sai sẽ bị khếch đại nếu trong bảng chỉ có
một vài câu hỏi.

9


3. Phân tích nội dung case study
3.1. Tóm tắt case study
Trong thời điểm 2018, khi thị trường vốn đang phát triển nhưng không
phải là tối đa, có tài sản tài chính gồm cổ phiếu, trái phiếu và tiền mặt.
Một trong số các nhà đầu tư là bà Tâm - phụ nữ độc thân, 70 tuổi, nghỉ
hưu, tuy giản dị, khiêm tốn nhưng lại bảo thủ có thu nhập duy nhất là
danh mục đầu tư 1 triệu USD. Mục đích đầu tư là tạo thu nhập trang trải
chi phí suốt đời và mục tiêu là không muốn thua lỗ ở bất kỳ trường hợp
nào. Bà chưa bao giờ thay đổi phân bổ tài sản trong danh mục nếu có
nhà tư vấn có khuyến nghị ngược lại. Danh mục gồm trái phiếu chính
phủ và trái phiếu đô thị. Bà Tâm đ¬ược làm bài kiểm tra về đặc điểm cá
nhân nhà đầu tư theo thiên kiến của người tư vấn và có kết quả là bà
Tâm là người có tâm lý sợ thua lỗ, neo quyết định và lệch lạc điều chỉnh,
định kiến về trạng thái hiện tại. Sau khi có kết quả khả năng chịu đựng
rủi ro từ bà Tâm qua bài kiểm tra khác, nhà đầu tư đưa ra khuyến nghị
phân bổ tài sản: 70% trái phiếu, 20% cổ phiếu, 10% tiền mặt.
3.2. Sự ảnh hưởng của các thiên kiến của bà Tâm đến quyết định

phân bổ danh mục đầu tư
Dựa vào các lý thuyết được ghi nhận bởi các tài liệu tài chính hành vi
tham khảo uy tín và các kết quả tâm lý đã được chứng minh qua các
khảo sát tại các bài báo nghiên cứu nước ngoài liên quan thì chúng tôi
đưa ra các nhận định về các thiên kiến của bà Tâm như sau:


Lệch lạc nhận thức muộn hay dự đoán theo sự thật đã xảy ra
(hindsight bias): Trong bối cảnh năm 2018, nghĩa là sau cuộc
khủng hoảng năm 2008 thì thị trường đang dần hồi phục. Xét khía
cạnh bà Tâm đang sinh sống tại Mỹ thì bà Tâm là người chứng kiến
cuộc khủng hoảng ngay tại quốc gia mình sinh sống. Những ảnh
hưởng và tổn thất của cuộc khủng hoảng rất nặng nề đến nền kinh
tế trong nước cũng cuộc sống gia đình bà (những người bà con
đều bị thua lỗ) vì thế bà Tâm có xu hướng dự đoán cuộc khủng
hoảng có thể xảy ra một lần nữa trong tương lai. Trong trí nhớ

10


(memory) của bà Tâm ghi nhớ ký ức xấu đó là hậu quả của khủng


hoảng tài chính gây ra.
Bà Tâm là người phụ nữ, sống độc thân, 70 tuổi, đã nghỉ hưu: Theo
lý thuyết trình bày phần trên, thái độ đối với rủi ro của phụ nữ
thấp hơn đàn ông, độ tuổi càng lớn thì rủi ro chỉ có thể chấp nhận
ở mức tương đối ổn định, những cặp vợ chồng thì nắm giữ chứng




khoán vốn sở hữu (cổ phiếu) cao hơn người độc thân.
Nguồn thu nhập duy nhất là danh mục 1 triệu đô: Vì đây là tài sản
sinh lời duy nhất và có giá trị lớn nên bà Tâm có xu hướng coi
trọng hàng hóa sở hữu, ngại đánh đổi rủi ro, không thích sự thay
đổi mang tính rủi ro hơn dù theo xu hướng có lợi nhuận hơn. Theo
thuật ngữ hiệu ứng coi trọng hàng hóa sở hữu (endowment effect
hay status quo bias) thì giá trị hàng hóa tăng lên khi người ta đã
sở hữu nó phù hợp với lý thuyết triển vọng bởi mất mát sẽ được
cảm nhận mạnh mẽ hơn nhiều so với lợi ích có được nó. Trong
trường hợp bà Tâm, danh mục đầu tư 1 triệu được xem là tài sinh
lời duy nhất và bà Tâm cảm thấy thà chấp nhận lợi nhuận thấp



hơn là mất mát hoặc thua lỗ từ tài sản đó.
Mục đích đầu tư là đủ trang trải chi phí sinh hoạt đến cuối đời: Từ
chi tiết bà Tâm “có lối sống giản dị, khiêm tốn”, ta thấy bà có xu
hướng chi tiêu sinh hoạt không cao tuy nhiên vẫn phải có thu nhập
thường niên ổn định, lâu dài. Vì thế theo bà Tâm lựa chọn trái
phiếu là cảm thấy phù hợp theo ý kiến của bà Tâm. Các loại tài
sản vốn trên thị trường tài chính hiện nay bao gồm: cổ phiếu, trái
phiếu, tiền mặt. Khi nhìn lại ta có biết loại nào trong những tài sản
vốn mà thị trường đang có hiện mang cho người nắm giữ cảm giác
yên tâm về độ rủi ro thấp, mức độ sinh lời ổn định trong thời điểm
mới bước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng chưa bao lâu. Thì đây, ta
xem cách lựa chọn của bà Tâm cách đây là chỉ lựa chọn trái phiếu
và đặc biệt là trái phiếu chính phủ và trái phiếu đô thị (địa phương
phát hành). Những trái phiếu được bảo đảm bởi chính phủ, chính
quyền địa phương, có mức sinh lời ổn định, thời gian lâu dài phù

hợp với đối tượng nghỉ hưu như bà Tâm. Một số tự nghiệm
(heuristic) ảnh hưởng đến sự ưa thích thông qua quá trình tìm
kiếm cảm giác an tâm. Bà Tâm chỉ đầu tư vào những tài sản vốn
11


có lợi nhuận dài hạn và rủi ro thấp hơn gồm trái phiếu chính phủ
và trái phiếu đô thị, nó cũng phù hợp với mục tiêu là trang trải chi
phí cho phần đời còn lại của bà. Các nhà đầu tư càng nhận định
khả năng suy thoái kinh tế thì mức độ rủi ro danh mục đầu tư càng


thấp , danh mục bà Tâm là một điển hình như vậy,
Dù bất cứ trường hợp nào, bà cũng không muốn mất (hay thua lỗ)
tiền đầu tư: Đây là tâm lý sợ thua lỗ. Khi nhận thức của bà
(perception) về thị trường tài chính là có tâm lý sợ thua lỗ thì bà
chỉ thường nhìn thấy những gì mà bà muốn thấy đó là vấn đề
khủng hoảng tài chính, rủi ro thua lỗ trước mắt. Khiến bà bị lệch



lạc nhận thức về thị trường tài chính hiện tại.
Bà Tâm bị ám ảnh bởi những người thua lỗ: Đây tự nghiệm neo
quyết định với niềm tin cứ đầu tư thị trường chứng là nguy cơ thua
lỗ, mất mát rất cao, bà Tâm đã bám vào niềm tin ấy trong thời
gian cuộc khủng hoảng đến bây giờ. Đó là lý do bà Tâm không đầu
tư vào cổ phiếu hay trái phiếu công ty. Khi không chắc chắn, con
người thường neo (anchor) vào những dữ liệu có sẵn và điều chỉnh
quan điểm của họ một cách chậm chạp, trong trường hợp này, bà
Tâm cũng là một cá nhân điển hình cho việc ảnh hưởng neo quyết

định. Bà Tâm neo thông tin khủng hoảng tài chính để ra quyết



định và chưa từng thay đổi phân bổ tài sản danh mục đầu tư.
Bà Tâm có định kiến về trạng thái hiện tại, mong muốn mọi thứ
giữ nguyên. Bà Tâm ảnh hưởng đến những điều quen thuộc
(familiar) và có sự lệch lạc không thích sự thay đổi (status quo
bias), khó tiếp nhận các thông tin mới, lảng tránh tiếp nhận bất kỳ
sự phân bổ tài sản trong danh mục đầu tư đặc biệt danh mục đầu
tư của nhà tư vấn đưa ra có mức rủi ro cao hơn nhưng có mức lợi
nhuận cao hơn ban đầu. Vì thế có thể nhận ra bất kể nhà tư vấn
có khuyến nghị tốt như thế nào hay thời gian quen biết giữa nhà
tư vấn và bà Tâm có lâu hay không (3 năm) thì bà Tâm cũng không
thay đổi quyết định phân bổ tài sản của mình. Tuy nhiên việc
không thay đổi tài sản trong danh mục này không chỉ do tâm lý
ngại thay đổi và mà còn một phần do tính cách bảo thủ, cứng
nhắc của bà Tâm (lệch lạc cảm xúc - sự lệch lạc nằm sâu trong
viền não). Với lệch lạc về cảm xúc này của bà Tâm rất khó thay
12


đổi, thậm chí nếu nhà tư vấn cố gắng đẩy bà Tâm vào những tình
huống đầu tư rủi ro thì có thể gây ra tình trạng mối quan hệ căng
thẳng giữa bà Tâm và nhà tư vấn.
Tổng kết lại, bà Tâm có tâm lý sợ thua lỗ, ngại rủi ro, ngại sự thay đổi và
khó thay đổi cảm xúc (tính cách bảo thủ) vì thế rất khó để nhà tư vấn
điều tiết các thiên kiến của bà Tâm.
3.3. Nên điều tiết hay chọn cách thích ứng với các thiên kiến của
bà Tâm

Theo Micheal Pompian (2006) có 2 nguyên tắc đưa ra:


Nguyên tắc 1: Trung hòa (điều chỉnh) lệch lạc với những khách
hàng ít giàu có hơn. Thích nghi với các lệch lạc ở những khách



hàng giàu có hơn.
Nguyên tắc 2: Trung hòa các lệch lạc nhận thức. Và thích nghi các
lệch lạc cảm xúc.

Trong nguyên tắc 1 thì một rủi ro lớn đối với những người ít khá giả hơn
trong đầu tư để nghỉ hưu là tài sản trong dài hạn. Với cùng lệch lạc đó
nhà đầu tư giàu có vẫn sẽ có đủ nguồn lực khi về hưu vì thế tốt hơn là
thuyết phục nhà đầu tư ít giàu có điều chỉnh theo suy nghĩ của mình.
Cần chỉ cho họ thấy rằng nhiều người lo ngại thua lỗ nhưng qua thời
gian dài, thị trường có xu hướng trunh hòa giữa điều kiện tốt và kém, là
bước hướng dẫn cho nhà đầu tư đi đúng hướng.
Trong nguyên tắc 2 thì ý tưởng ở đây là các lệch lạc (cả về nhận thức và
đánh giá) thường dễ dàng ngăn lại bằng việc giáo dục phù hợp hơn cảm
xúc. Cảm xúc nằm sâu trong viền não nên khó thay đổi hơn nhiều. Nếu
những cân nhắc về mặt cảm xúc gây ra quan điểm sai về việc chấp
nhận rủi ro, thì tốt nhất là nhà đầu tư nên chấp nhận những quan điểm
này. Giả định rằng, khách hàng mong muốn rủi ro thấp hơn mức đề xuất,
nếu người này bị đẩy vào những đầu tư rủi ro hơn, ngược lại xu hướng
của họ, họ sẽ thay đổi quá trình (và thậm chí sa thải cả nhà tư vấn bất
chấp lời khuyên đúng) khi thị trường đi xuống.
Dựa theo 2 nguyên tắc mà Micheal Pomian đưa ra được trình bày ở phần
lý thuyết thì chúng tôi nhận định bà Tâm thuộc đối tượng khách hàng

giàu có (mức tài sản 1 triệu USD), có lệch lạc nhận thức do tự nghiệm

13


neo quyết định và có lệch lạc về cảm xúc (bảo thủ) thì thích ứng với các
thiên kiến của bà Tâm là phù hợp.
Tuy nhiên, trên thực tế, chúng tôi lựa chọn giải pháp ban đầu sẽ
dùng mọi nỗ lực để điều tiết các thiên kiến và nếu mọi nỗ lực
điều tiết thất bại thì mới lựa chọn trung hòa thiên kiến. Như vậy,
chúng tôi có thể cải thiện được mối quan hệ của bà Tâm và nhà tư vấn
đồng thời danh mục sẽ được quản lý phù hợp với mục tiêu mong muốn,
gia tăng mức lợi nhuận hiện có phù hợp với mức độ chịu đựng rủi ro của
bà Tâm.
Cách thức điều tiết như sau:


Tư vấn bà Tâm chi tiêu tiền như du lịch, mua sắm, thăm họ hàng,
bạn bè…=>Thấy được sự tận hưởng của người có tiền, thay đổi
thói quen chi tiêu lúc cao tuổi.



Tư vấn bà Tâm những mất mát nếu bà chỉ đầu tư vào trái phiếu và
càng cho thấy nhiều mất mát thì càng tốt =>Tâm lý lo sợ thua lỗ
sẽ khiến bà Tâm thay đổi quan điểm đầu tư.



Cần thay đổi tỷ lệ phân bổ một cách từ từ như từ 100% trái phiếu

xuống còn 85%, sau đó giảm dần về 70% => Bà Tâm thấy các
mức lợi nhuận được cải thiện sau mỗi lần thay đổi và sẽ càng tin
tưởng vào sự tư vấn của chúng tôi.

3.4. Cách thức phân bổ tài sản tối ưu cho khách hàng
Chúng tôi dựa trên những nguyên tắc sau đây để phân bổ tài sản một
cách tối ưu đối với hàng như bà Tâm:


Không đặt tất cả số trứng vào cùng 1 giỏ , đó là cần đa dạng hóa



danh mục đầu tư, phân tán rủi ro.
Phân bổ theo tài sản theo các quỹ vòng đời: Đây là giải pháp giải
quyết độ tuổi nhà đầu tư, sự chấp nhận rủi ro, mục tiêu đầu tư để
phân bổ các tài sản sao cho phù hợp. Một sự tham khảo được cho
là tốt nhất dành cho những nhà đầu tư có số tiền lớn nhưng tuổi
cao, đã nghỉ hưu, mức độ chấp nhận rủi ro thấp, mục tiêu lợi
nhuận ổn định và thời gian đầu tư lâu dài đó là tham gia quỹ đầu
tư (quỹ tương hỗ) Vanguard

- Một trong những quỹ đầu tư lớn

nhất thế giới và thành công của Mỹ trong mục tiêu xây dựng quỹ
đầu tư thụ động theo một chỉ số thị trường.
14


Chúng tôi có 2 phương án chọn lựa:

Phương án 1: Phân bổ 1 triệu USD vào nhiều quỹ tương hỗ, ưu tiên các
quỹ tương hỗ chứng khoán thu nhập ổn định.
Phương án 2: Tự lựa chọn và phân bổ theo danh mục đầu tư gồm:




70%: Trái phiếu
20%: Cổ phiếu
10%: Tiền mặt

Chúng tôi giải thích lý do vì sao lại lựa chọn 2 phương án trên:
Phương án 1: Dựa trên các khảo sát thực tế từ bài nghiên cứu tham khảo
“Asset location for retirement savers” (2000) của Jame M.Poterba et al.,
chúng tôi nhận thấy việc đầu tư vào các công ty quỹ đầu tư/quỹ tương
hỗ mang lại mức sinh lời cao hơn khi nhà đầu tư mua và nắm giữ trái
phiếu. Chúng tôi sẽ phân bổ càng nhiều quỹ tương hỗ càng tốt, đa dạng
hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Quỹ tương hỗ ở đây là Quỹ đầu tư trái
phiếu/chứng khoán có thu nhập cố định, quỹ ưu tiên đầu tư vào các
công cụ nợ chính phủ và công ty. Trong đó, danh mục nên có chứng
khoán kho bạc để giảm thiểu rủi ro lạm phát. Các quỹ tương hỗ này áp
đặt tỷ lệ phân bổ tài sản trong danh mục đầu tư và đưa ra cam kết mức
sinh lời tối thiểu. Ở phương án này, nhà đầu tư không có quyền chủ
động lựa chọn tài sản mà bị áp đặt bởi quỹ tương hỗ, vì thế chúng tôi
không đưa ra cụ thể tỷ lệ phân bổ tài sản.
Phương án 2: Malkiel (1973) đưa ra yếu tố độ tuổi ảnh hưởng đến sự
phân bổ danh mục đầu tư và đưa ra kết quả khảo sát về danh mục phân
bổ tài sản của những người trên 60 tuổi bao gồm cổ phiếu, trái phiếu,
bất động sản, tiền mặt theo tỷ lệ tương ứng là 40:35:15:10.
Shauna C.H (2018) đưa ra 2 tỷ lệ phân bổ cho những người đầu tư bảo

thủ và tương đối bảo thủ, trong đó:
Danh mục đầu tư “bảo thủ” gồm chứng khoán thu nhập cố định, cổ
phiếu và tiền mặt theo tỷ lệ tương ứng là 70-75:15-20:5-15.
Mục tiêu chính của danh mục đầu tư bảo thủ là bảo vệ giá trị gốc của
danh mục đầu tư của bạn (số tiền bạn đầu tư ban đầu). Do đó, các mô
hình này thường được gọi là "danh mục đầu tư bảo toàn vốn".
Danh mục đầu tư “tương đối bảo thủ” gồm chứng khoán thu nhập cố
định, cổ phiếu và tiền mặt theo tỷ lệ tương ứng là 55-60:35-40:5-10.

15


Mục tiêu của những người muốn bảo toàn một phần lớn tổng giá trị của
danh mục đầu tư, nhưng sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao hơn để có được
sự bảo vệ lạm phát
Robert Farrington (2014) đưa ra lựa chọn dành cho những người gần
nghỉ hưu và trên 50 tuổi như sau:


25% cổ phiếu vốn hóa lớn (Vanguard Large Cap Index Fund NYSE:



VV)
20% cổ phiếu vốn hóa nhỏ (Vanguard Small Cap Index Quỹ NYSE:



VB)
5% Chỉ số thị trường chứng khoán quốc tế (Quỹ chỉ số chứng




khoán quốc tế Vanguard NYSE: VXUS)
40% Trái phiếu Trung hạn (Quỹ Trái phiếu Trung hạn Vanguard



NYSE: BIV)
10% Trái phiếu Ngắn hạn (Quỹ Trái phiếu Ngắn hạn Vanguard
NYSE: BSV)

Dựa trên 3 nguồn tham khảo trên chúng tôi nhận thấy trường hợp bà
Tâm phù hợp với chiến lược danh mục đầu tư bảo thủ của Shauna C.H
(2018) và trùng khớp với tỷ lệ phân bổ mà nhà đầu tư ban đầu muốn lựa
chọn là 70% trái phiếu: 20% cổ phiếu: 10% tiền mặt.

16


4. Kết luận
Qua những phân tích trên chúng tôi kết luận bà Tâm bị tâm lý sợ thua
lỗ, neo quyết định, lệch lạc điều chỉnh và định kiến về trạng thái hiện
tại. Để cải thiện mối quan hệ giữa nhà tư vấn và bà Tâm tốt đẹp hơn và
để có mức lợi nhuận phù hợp hơn, chúng tôi chọn cách sử dụng mọi nỗ
lực để điều tiết các thiên kiến của bà Tâm và sẽ trung hòa nếu mọi nỗ
lực điều tiết thất bại. Tuy nhiên để đưa ra một danh mục phù hợp nhất
thì chúng tôi dựa trên các bài tham khảo khác nhau để giúp đa dạng hóa
lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro và ảnh hưởng của lạm phát đó là tỷ lệ phân
bổ danh mục như sau: 70% trái phiếu, 20% cổ phiếu, 10% tiền mặt.

Mối quan hệ giữa nhà tư vấn tài chính và khách hàng có tính duy nhất không trường hợp nào giống trường hợp nào và không có phương pháp
nào tối ưu để có thể chắc chắn giúp phát hiện và ngăn chặn những thiên
kiến (biases) của khách hàng.
Với một nhà tư vấn đầu tư tài chính, nên tập trung vào quy trình phương
pháp, đánh giá tác động, quyết định phản ứng của khách hàng và cách
phân bổ tài sản thực tế để đưa ra những khuyến nghị hợp lý, tốt nhất và
tối ưu nhất đối với danh mục đầu tư của khách hàng.

17


Tài liệu tham khảo
Ackert, L., & Deaves, R. (2009). Behavioral finance: Psychology, decisionmaking, and markets. Cengage Learning.
Tversky, A., & Kahneman, D. (1974). Judgment under uncertainty: Heuristics
and biases.
Barsky, R. B., Juster, F. T., Kimball, M. S., & Shapiro, M. D. (1997). Preference
parameters and behavioral heterogeneity: An experimental approach in the
health and retirement study. The Quarterly Journal of Economics, 112(2), 537579.
Bodie, Z., Merton, R. C., & Samuelson, W. F. (1992). Labor supply flexibility and
portfolio choice in a life cycle model. Journal of economic dynamics and
control, 16(3-4), 427-449.
Schooley, D. K., & Worden, D. D. (1999). Investors' asset allocations versus lifecycle funds. Financial Analysts Journal, 55(5), 37-43.
Poterba, J. M., Shoven, J. B., & Sialm, C. (2001). Asset location for retirement
savers. In Private Pensions and Public Policies (Brookings Institution.
Malkiel, B. G., & McCue, K. (1985). A random walk down Wall Street (Vol. 332).
New York: Norton.
Shauna Carther Heyford, “Achieve optimal asset allocation”, March 2018,
< />Robert Farrington, “Building the perfect portfolio allocation – 5 models to
follow”,


May 2014,

< />
portfolio-allocation-5-models-follow/>

18



×