Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học và đặc điểm nhóm dinh dưỡng chức năng của côn trùng nước tại suối chảy qua khu dân cư thuộc xã ngọc thanh, thành phố phúc yên, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN
======

ĐÀO THỊ LAN

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM
NHÓM DINH DƯỠNG CHỨC NĂNG CỦA CÔN TRÙNG NƯỚC
TẠI SUỐI CHẢY QUA KHU DÂN CƯ THUỘC XÃ NGỌC THANH,
THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học

HÀ NỘI, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN
======

ĐÀO THỊ LAN

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM
NHÓM DINH DƯỠNG CHỨC NĂNG CỦA CÔN TRÙNG NƯỚC
TẠI SUỐI CHẢY QUA KHU DÂN CƯ THUỘC XÃ NGỌC THANH,
THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học


Người hướng dẫn khoa học:

TS. Nguyễn Văn Hiếu

HÀ NỘI, 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện khóa luận này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ
tận tình của nhiều đơn vị và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Hiếu, cán bộ giảng
dạy tổ Động vật, Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, đã tận tình hướng dẫn và đưa ra những ý kiến quý báu trong suốt thời
gian tôi thực hiện đề tài này.
Đồng thời qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ
nhiệm Khoa cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, chị Hoàng Thị Thúy - K20 cao học, những người đã
truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, thầy cô
những người đã luôn động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Đào Thị Lan


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận này là
kết quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn
Văn Hiếu
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong khóa luận
này.
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Đào Thị Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................2
3. Nội dung nghiên cứu ...................................................................................................2
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .....................................................................................2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................3
1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới ..................................................3
1.1.1. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học về loài .....................................................3
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về nhóm dinh dưỡng chức năng .........................................7
1.2. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam ..................................................8
1.2.1. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học về loài ....................................................8
1.2.2. Tình hình nghiên cứu về nhóm dinh dưỡng chức năng .......................................13
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................14
2.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................14
2.2. Địa điểm nghiên cứu...............................................................................................14
2.3. Thời gian nghiên cứu ..............................................................................................15
2.4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................15
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên ............................................................15

2.4.2. Phương pháp phân tích mẫu ...............................................................................16
2.4.3. Chỉ số đa dạng sinh học ......................................................................................16
2.4.4. Phương pháp xử lý số liệu ...................................................................................17
2.5. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Ngọc Thanh ........................17
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................................................19
3.1. Thành phần loài côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu .......................................19
3.1.1. Thành phần loài Phù du (Ephemeroptera) ..........................................................22
3.1.2. Thành phần loài Chuồn chuồn (Odonata) ..........................................................23


3.1.3. Thành phần loài Cánh nửa (Hemiptera) .............................................................23
3.1.4. Thành phần loài Cánh cứng (Coleoptera) ..........................................................23
3.1.5. Thành phần loài Cánh rộng (Megaloptera) ........................................................23
3.1.6. Thành phần loài Hai cánh (Diptera) ...................................................................23
3.1.7. Thành phần loài Cánh lông (Trichoptera) ..........................................................24
3.1.8. Thành phần loài Cánh vảy (Lepidoptera) ...........................................................24
3.2. Một số đặc điểm quần xã côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu.........................25
3.2.1. Mật độ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ..................................................25
3.2.2. Loài ưu thế và chỉ số đa dạng sinh học ...............................................................26
3.3. Cấu trúc nhóm dinh dưỡng chức năng của côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu
.......................................................................................................................................27
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .........................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................30
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Số lượng và tỷ lệ (%)các taxon thuộc các bậc phân loại của côn trùng nước
tại khu vực nghiên cứu...................................................................................................19
Bảng 3.2. Thành phần các loài côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ......................21

Bảng 3.3.Số lượng cá thể của các bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu trên đơn
vị thu mẫu 2,5 m2 ...........................................................................................................25
Bảng 3.4. Chỉ số đa dạng sinh học Shannon – Weiner (H’) .........................................27


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Tỷ lệ (%) số loài theo từng bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ........20
Hình 3.2 .Số lượng cá thể thu được của mỗi bộ côn trùng nước tại điểm nghiên cứu
trên đơn vị 2,5 m2...........................................................................................................26
Hình 3.3. Tỷ lệ % số lượng cá thể theo nhóm dinh dưỡng chức năng tại khu vực nghiên
cứu .................................................................................................................................28


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Côn trùng nước giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của hệ
sinh thái các thủy vực. Chúng có mặt hầu hết ở các thủy vực nước ngọt, đặc biệt là
thủy vực dạng suối mỗi một dạng môi trường sống chúng lại có những biến đổi
riêng để thích nghi với điều kiện sống khác nhau. Côn trùng nước có các đặc tính
nổi trội như số lượng loài, số lượng cá thể lớn, thích nghi tốt với điều kiện môi
trường so với các nhóm động vật khác. Đặc biệt chúng là những mắt xích không thể
thiếu trong chuỗi và lưới thức ăn. Chúng vừa là những sinh vật tiêu thụ tiếp nhận
các mùn bã hữu cơ, các vật chất rơi rụng làm nguồn thức ăn nhưng đồng thời lại trở
thành nguồn thức ăn cho nhóm sinh vật tiêu thụ của nhiều loài động vật có xương
sống khác. Sự phát triển đa dạng của quần thể côn trùng nước đóng góp lượng sinh
khối đáng kể vào hệ thống dòng chảy. Côn trùng nước tùy vào từng loài mà có thể
có lợi hoặc gây hại cho con người. Một số loài côn trùng nước gây hại là tác nhân
truyền bệnh, tác nhân gây bệnh, tác nhân phá hoại sản phẩm công nghiệp, nông
nghiệp… Chính vì vậy, côn trùng nước là đối tượng lý tưởng cho các nhà khoa học
trong nước và trên thế giới tiến hành các công trình nghiên cứu.

Xã Ngọc Thanh là xã vùng núi duy nhất của thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc với tổng diện tích 7.732,68 ha. Địa hình chủ yếu của xã là đồi núi thấp với độ
cao so với mặt nước biển dưới 300m xen lẫn vùng đồng bằng phì nhiêu. Khu vực
nghiên cứu có nhiều dạng thủy vực khác nhau, trong đó thủy vực dạng suối tương
đối đa dạng và phong phú. Các suối này là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển
của các loài thủy sinh vật nói chung và các loài côn trùng nước nói riêng. Trước đây
cũng đã có một số nghiên cứu về nhóm côn trùng nước ở khu vực này. Tuy nhiên
các nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu đa dạng sinh học về loài ở các suối
thuộc Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh [27] hoặc đa dạng sinh học về loài Phù du
[6] mà chưa nghiên cứu về nhóm côn trùng nước trong toàn bộ khu vực, đặc biệt
các nghiên cứu về phân bố và cấu trúc nhóm dinh dưỡng chức năng của chúng ở
khu vực này còn ít và tản mạn. Bên cạnh đó, dưới tác động của con người các hệ
thống suối đã có những biến đổi nhất định so với ban đầu. Nhiều đoạn suối chảy
qua các khu dân cư cũng ít nhiều chịu sự tác động trong sinh hoạt hàng ngày của
người dân.
Để góp phần tìm hiểu sâu hơn về nhóm sinh vật này chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài “Nghiên cứu đa dạng sinh học và đặc điểm nhóm dinh dưỡng chức
1


năng của côn trùng nước tại suối chảy qua khu dân cư thuộc xã Ngọc Thanh,
thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc”
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định thành phần loài và phân bố của côn trùng nước tại một số thủy
vực dạng suối chảy qua khu dân cư thuộc xã Ngọc thanh, thành phố Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Nghiên cứu thành phần loài, mật độ cá thể, đa dạng sinh học côn trùng
nước tại địa điểm nghiên cứu.
- Tìm hiểu đặc điểm phân bố và cấu trúc nhóm dinh dưỡng chức năng của
côn trùng nước.

3. Nội dung nghiên cứu
- Đa dạng về loài côn trùng nước tại suối chảy qua khu dân cư thuộc xã Ngọc
Thanh, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Mức độ đa dạng về thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu.
- Đặc điểm nhóm dinh dưỡng chức năng cuả côn trùng nước.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài nghiên cứu sẽ cung cấp những dẫn liệu về thành
phần côn trùng nước, cấu trúc nhóm dinh dưỡng chức năng tại một số thủy vực
dạng suối chảy qua khu dân cư thuộc xã Ngọc Thanh, thành phố Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh phúc.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài là cơ sở đưa ra các giải pháp
nhằm bảo tồn, xây dựng quy hoạch, khai thác hợp lý, sử dụng bền vững tài nguyên
thiên nhiên tại khu vực nghiên cứu.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 .Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới
1.1.1. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học về loài
Côn trùng nước đã được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới, đặc biệt
là những nước phát triển. Khác với các nhóm động vật khác, côn trùng nước tồn tại
cả trong môi trường nước và môi trường cạn. Chúng có vai trò rất quan trọng trong
việc duy sự ổn định mối quan hệ dinh dưỡng của thủy vực dạng suối cũng như đối
với đời sống con người. Do đó các nghiên cứu về côn trùng nước ngày càng được mở
rộng, các hướng nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân loại mà còn đi sâu
vào các cơ chế bên trong như: biến động quần thể côn trùng, các mối quan hệ dinh
dưỡng, đáp ứng yêu cầu của sinh thái học (Resh và Rosenberg, 1984; Cummins,
1994) [24].
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố hàng

loạt các công trình nghiên cứu về côn trùng nước như: McCafferty, 1983; Kawai,
1985; John, Yang và Tian, 1994; Yoon, 1995; Merritt và Cummins, 1996; Wilhm,
1968 [36],..... .Các nghiên cứu này đã bổ sung và cung cấp nhiều kiến thức về côn
trùng nước bao gồm cả phân loại học, sinh thái học, tiến hóa, ứng dụng…
Qua các công trình nghiên cứu, đến nay có thể xác định 9 bộ thuộc nhóm
Côn trùng ở nước: Phù du (Ephemeroptera), Chuồn chuồn (Odonata), Cánh lông
(Tricoptera), Cánh úp (Plecoptera), Cánh nửa (Hemiptera), Cánh cứng (Coleoptera),
Hai cánh (Diptera), Cánh rộng (Megaloptera), Cánh vảy (Lepidoptera).
Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Bộ Phù du là côn trùng có cánh cổ sinh tương đối nguyên thủy, thậm chí còn
được xem như một trong những tổ tiên của côn trùng. Dựa vào những bằng chứng
hóa thạch, chúng có thể đã phát sinh vào giai đoạn cuối của kỷ Cacbon và đầu kỷ
Pecmơ trong đại Cổ sinh, cách đây khoảng 290 triệu năm [15]. Các loài thuộc bộ
Phù du được mô tả từ rất sớm. Công trình nghiên cứu đầu tiên về phân loại học Phù
du là của nhà tự nhiên học nổi tiếng Lineaus (1758). Ông đã mô tả 6 loài Phù du tìm
thấy ở châu Âu và xếp chúng vào một nhóm là Ephemera [28].
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển hình là các
công trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás (1920,
1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự (1935) [10].
3


Cho đến nay trên toàn thế giới đã có hơn 3000 loài được mô tả thuộc 42 họ
và hơn 400 giống của bộ Phù du. Các nghiên cứu về Phù du, đặc biệt là phân loại
học vẫn đang phát triển, vẫn còn nhiều loài chưa được mô tả, nhất là ở các khu vực
nhiệt đới [19].
Đối với khu vực châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về Phù du được thực
hiện bởi các nhà côn trùng học đến từ châu Âu như: Navás (1922, 1925), Lestưa age
(1921, 1924) [30]. Gần đây các nhà khoa học đã nghiên cứu đến khả năng sử dụng
phù du làm sinh vật chỉ thị chất lượng môi trường nước rất nhiều vì nhiều loài thuộc

bộ Phù du rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường. Các nghiên cứu về Phù du,
đặc biệt là phân loại học vẫn đang phát triển, vẫn còn nhiều loài chưa được mô tả,
nhất là các khu vực nhiệt đới.
Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Ban đầu, các công trình nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn chủ yếu tập chung
vào việc môt tả hình dạng, các đặc điển bên ngoài của các loài để xây dựng được
khóa định loại. Bộ Chuồn chuồn được chia thành 3 phân bộ là: phân bộ
Anisozygoptera, phân bộ Zygoptera (Chuồn chuồn kim) và phân bộ Anisoptera
(Chuồn chuồn ngô). Phân bộ Anisozygoptera chỉ có 1 giống là Epiophlebia, giống
này có một số loài chỉ phân bố ở độ cao khoảng 2.000m ở những con suối thuộc
Nhật Bản và vùng núi cao Himalaya (Tani & Miyatake, 1979; Kumar & Khanna,
1983). Hai phân bộ còn lại phân bố rộng cả ở nơi nước đứng cũng như nước chảy
với số lượng loài vô cùng phong phú [25].
Ngoài các công trình nghiên cứu về phân loại học còn có những công trình
nghiên cứu về Sinh học, Sinh thái học và Tập tính sinh học của Corbet (1999),
Silsby (2001) [8]. Các công trình nghiên cứu này chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng
thành. Đối với giai đoạn thiếu trùng, Ishida & Ishida (1985) đã xây dựng khóa định
loại có kèm theo hình vẽ rõ ràng tới giống ở vùng châu Á [1].
Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Trên thế giới đã xác định được khoảng 3500 loài Cánh úp, đây là một trong
những nhóm côn trùng phát triển qua biến thái không hoàn toàn. Hóa thạch của chúng
được tìm thấy đầu tiên thuộc kỷ Pecmi, nó có những đặc điểm khác biệt với Cánh úp
hiện đại về số đốt bàn và cánh ở phần ngực (Hynes, 1976) [19].Bộ Cánh úp phân bố
rộng rãi trên thế giới và có vai trò quan trọng trong những nghiên cứu đánh giá chất

4


lượng môi trường nước do chúng có sự nhạy cảm cao đối với sự ô nhiễm môi trường
nước.

Để nhận dạng bộ Cánh úp, người ta dựa vào một số đặc điểm: chúng có 3 đốt
bàn nhưng chân sau không biến đổi để thích hợp theo kiểu nhảy như một số loài
thuộc bộ Cánh thẳng (như dế và châu chấu). Chúng có ăng ten dài dạng chỉ, tơ đuôi
khá dài đặc biệt là các thiếu trùng ở nước. Hầu hết, cánh của các loài thuộc bộ Cánh
úp rất phát triển nhưng đôi khi lại ngắn. Các đặc điểm đó dùng để phân biệt chúng
với bộ Cánh màng. Ấu trùng bộ Cánh úp trải qua thời gian dài sống ở nước. Các
thiếu trùng Cánh úp giống con trưởng thành ở nhiều đặc điểm. Thiếu trùng luôn có
tơ đuôi dài và không bao giờ có tơ đuôi ở giữa. Mang nếu có, chỉ tìm thấy ở phần
ngực và phần bụng được tạo thành giữa các tơ đuôi. Thiếu trùng sống chủ yếu ở
nước, có một vài loài sống trong đất ẩm (Harpers và Stewart, 1996) [19].
Morse J. C., Yang Lianfang & Tian Lixin (1994); Merritt & Cummins (1996)
khi nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả đã xây dựng
khóa định loại tới giống thiếu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc định loại các
loài thuộc bộ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này [25].
Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là một trong những bộ có số lượng loài phong phú và đa dạng
trong số các bộ côn trùng nước. Những nghiên cứu về hệ thống phân loại bậc cao
của bộ Cánh lông được thực hiện bởi Ross (1956, 1967) và sau đó tiếp tục được bổ
sung và hoàn thiện bởi Morse (1997) [22].
Bộ cánh lông được nghiên cứu rất sớm tại khu vực Đông Nam Á điển hình là
các nghiên cứu của Ulmer với hướng nghiên cứu dựa vào giai đoạn ấu trùng khác
với các hướng nghiên cứu trước đây chủ yếu dựa vào gia đoạn trưởng thành [22].
Ngoài các công trình nghiên cứu ở các nước Đông Nam Á, khu hệ Cánh lông
cũng được quan tâm nghiên cứu ở các quốc gia khác như: Ấn Độ, Srilanka được
nghiên cứu bởi Martynov (1935, 1936), Trung Quốc (Martynov, 1931; Wang,
1963), Nhật Bản (Iwata, 1927; Tanida, 1987). Trong giai đoạn hiện nay, hướng
nghiên cứu đánh giá chất lượng nước dựa trên đối tượng là các loài thuộc nhóm côn
trùng này được nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Do đó, các công trình liên
quan đến giai đoạn ấu trùng xuất hiện ngày càng đồ sộ như nghiên cứu của Wiggins
(1996) [22]. Ở khu vực Bắc Mỹ, Merritt & Cummins (1996), đã xây dựng khóa

định loại tới giống của bộ Cánh lông ở cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành [24].
5


Nghiên cứu về bộ Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng được xem là nhóm côn trùng nguyên thủy trong nhóm côn
trùng biến thái hoàn toàn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài được biết trên
thế giới và chia thành hai họ là: Corydalidae và Sialidae. Giai đoạn trưởng thành ở
cạn và ăn thịt, thường hoạt động vào ban đêm. Tuy nhiên, giai đoạn ấu trùng lại
sống dưới nước và ăn thịt các loài động vật [25].
Các loài thuộc họ Sialidae có khu vực phân bố rất hẹp. Ở châu Á, họ này
mới chỉ phân bố ở vùng ôn đới thuộc Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nơi ở Trung
Quốc (Bank, 1940) [25].
Nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera)
Bộ Cánh cứng là bộ lớn nhất trong giới Động vật. Hiện nay, số loài thuộc bộ
côn trùng này vào khoảng 277.000 đến 350.000 loài và khoảng 10.000 thuộc nhóm
côn trùng nước [25]. Theo các kết quả nghiên cứu nhóm sống dưới nước được xem
là đa dạng nhất ở khu hệ suối vùng nhiệt đới. Hiện nay, các công trình nghiên cứu
về bộ Cánh cứng tập trung vào phân loại học, sinh thái học, tiến hóa như: các
nghiên cứu của Feng (1932, 1933), Gschwendtner (1932), Fernando (1962, 1969),
Nertrand (1973), Jach (1984). Heinrich & Balke (1997), Gentuli (1995), Jach & Ji
(1995, 1998, 2003) [26] đã cung cấp khá đầy đủ những dẫn liệu về phân loại học
của bộ Cánh cứng ở châu Á.
Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã định
loại được 311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở Úc có khoảng 510 loài
và White (1984) đã phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh
cứng [27].
Tuy nhiên do có số lượng nhỏ hơn rất nhiều so với số loài của bộ Cánh
cứng trên cạn nên việc nghiên cứu về bộ Cánh cứng ở dưới nước ít được quan tâm
hơn.

Nghiên cứu về bộ Hai cánh (Diptera)
Bộ Hai cánh là một trong số những bộ có số lượng loài nhiều nhất. Các
nghiên cứu về bộ Hai cánh đã được rất nhiều các nhà khoa học công bố, đặc biệt là
các công trình nghiên cứu của Alexander (1931), Mayer (1934), Zwich & Hortle
(1989) [24]. Đối với khu vực châu Á, Delfinado & Hardy (1973, 1975, 1977) đã
tổng hợp một danh lục khá đầy đủ về thành phần loài của bộ Hai cánh ở miền Ấn
6


Độ - Mã Lai. Khóa định loại tới họ và giống hiện nay chủ yếu thực hiện theo khóa
định loại được xây dựng bởi Harris (1990) [25].
Nghiên cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)
Hiện nay, trên thế giới đã xác định được trên 4.000 loài thuộc bộ Cánh nửa
sống ở nước (Dudgeon, 1999). Trong đó, khu vực châu Á có số lượng loài chiếm ưu
thế, đặc biệt có rất nhiều giống đặc hữu, thậm chí có cả những phân họ đặc hữu ở
khu vực này (Andersen, 1982; Spence & Andersen, 1994) [26]. Các công trình
nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở châu Á được bắt đầu khá sớm bằng các nghiên cứu
của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury (1972, 1973) [25].
Bộ cánh nửa bao gồm ba phân bộ: Gerromorpha, Nepomorpha và
Leptopodomorpha. Phân bộ Gerromorpha gồm hầu hết những cơ thể côn trùng sống
trên bề mặt của nước. Trong phân bộ này, có hai họ lớn là Velliidae (trên thế giới có
khoảng 850 loài) và họ Gerridae (khoảng 700 loài) (Chen và cộng sự, 2005). Theo
Bendell (1988), Damgaard & Andersen (1996) các loài trong họ Gerridae được xem
như những sinh vật chỉ thị cho chất lượng môi trường nước [24].
Nghiên cứu về bộ Cánh vảy (Lepidoptera)
Trong bộ Cánh vảy chỉ có một số loài thuộc họ Pyralidae, Pyraustidae và
Crambidae sống ở nước. Ở châu Á, các nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu là về
phân loại học trong đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis
(1994) và Munroe (1995) [24]. Trong các nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thành
lập khóa định loại cụ thể tới loài.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về nhóm dinh dưỡng chức năng
Hệ sinh thái thủy sinh của các dòng với quần xã sinh vật cư trú lưỡng cư, cá,
động vật đáy, phiêu sinh vật và đặc biệt là nhóm côn trùng thuỷ sinh đã đóng góp
nhiều giá trị về đa dạng sinh học cho toàn bộ hệ thống sông, suối . Các quần thể này
gắn kết chặt chẽ với nhau thông qua mạng lưới dinh dưỡng và được phân theo nhóm
chức năng dinh dưỡng. Phương pháp phân nhóm chức năng dinh dưỡng (Functional
Feeding Groups – FFGs) được Merrit và Cummin (1980) phát triển dựa trên đặc
điểm sinh cảnh sống, cấu tạo phần phụ miệng, cách thu nhận thức ăn của nhóm côn
trùng thủy sinh, đây là nhóm sinh vật chiếm ưu thế trong các quần xã sinh vật thủy
vực suối đầu nguồn [24].

7


Các nhóm côn trùng được chia thành 8 nhóm chức năng cơ bản: nhóm cắt xé
(shredders: shr) sẽ lấy thức ăn từ các vật chất thô, vật chất rơi rụng (lá, mảnh thân
thực vật); nhóm cào nạo (scrappers: scr) lấy thức ăn là nhóm tảo bảm đá; nhóm thu
lọc (collector - filterer: c-f) lấy thức ăn là các hạt vật chất mịn, lơ lửng trong môi
trường nước; nhóm thu gom (collector – gatherers: c-g) thu thập các vật chất ở nền
đáy; nhóm ăn thịt (predators –p) ăn các sinh vật khác như các nhóm côn trùng thủy
sinh, …; nhóm ký sinh (parasite: par) thường ký sinh trên các nhóm động vật khác,
nhóm đục thân (piercer: pir) thường sống ở các cây thủy sinh và đục lỗ trong thân
cây thủy sinh và nhóm ăn tạp (omnivore:omn).
1.2 . Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học về loài
Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Ở Việt Nam, mở đầu cho những nghiên cứu về phemeroptera ở Việt Nam,
nhà côn trùng học Lestage (1921, 1924), đã công bố một loài mới của bộ Phù du
cho khoa học, dựa vào mẫu vật được lưu giữ ở bảo tàng Paris. Ông đặt tên loài là
Ephemera duporti. Sau đó, Navas (1922, 1925) đã công bố hai loài Ephemera

longiventris và Ephemera innotata, cũng dựa trên các mẫu vật thu được ở miền Bắc
Việt Nam [30].
Nguyễn Xuân Quýnh và cs. (2001), khi xây dựng khoá định loại các nhóm
động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã đưa ra khoá định
loại tới họ ấu trùng Phù du [9].
Nguyen Van Vinh and eon ae Bae (2001, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007,
2008) ở một số Vườn Quốc gia của Việt Nam. Những nghiên cứu này, đã công bố
hàng loạt các kết quả về các loài Ephemeroptera ở Việt Nam, và đã bổ sung danh
sách thành phần loài, mô tả các loài mới, cũng như xây dựng các khóa định loại tới
loài [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34].
Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xác định được 102 loài thuộc 50 giống và 14
họ Phù du ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng khóa định loại
và mô tả đặc điểm hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam,
nghiên cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù
du ở nước ta [29].

8


Nguyễn Văn Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn Quốc gia Tam
Đảo đã xác định được 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó, có 10 loài lần đầu
tiên ghi nhận cho Vườn Quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc, đó là: Platybaetis edmundsi
Muller - Liebenau, 1980; Baetiella trispinata Tong and Dudgeon, 2000; Serratella
albostriata Tong and Dudgeon, 2000; Torleya arenosa Tong and Dudgeon, 2000;
Cincticostella boja Allen, 1975; Ephemera serica Eaton, 1871; Choroterpes
trifrucata Ulmer, 1939; Habrophlebiodes prominens Ulmer, 1939; Caenis
cornigera Kang and Yang, 1994; Isonychia formosana Ulmer, 1912 [13].
Nguyễn Văn Vịnh (2005), khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn Quốc gia Ba
Vì, Hà Tây đã thu được 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ. Trong đó có một loài ghi
nhận lần đầu tiên cho khu vực là Teloganodes tristis (Hagen, 1858) [15]. Trong

khoảng thời gian này, tác giả cũng tiến hành điều tra thành phần loài Phù du ở một
số Vườn Quốc gia khác ở Việt Nam [17].
Ở Vườn Quốc Gia Hoàng Liên được tiến hành với nhiều nghiên cứu khác
nhau, Nguyễn Văn Vịnh (2005) đã xác định được 53 loài thuộc 31 giống và 11 họ.
Kết quả đã công bố được 4 loài mới cho khoa học dựa vào các mẫu chuẩn thu được
tại Sapa, đó là: Isca fasica Nguyen and Bae, 2003; Rhoenanthus sapa Nguyen and
Bae, 2004; Afronurus meo, Nguyen and Bae, 2003; Iron longintibius, Nguyen and
Bae, 2004... Đồng thời, xác định được 10 loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ
động vật của Việt Nam [14]. Jung và cs. (2008) đã xác định được 53 loài, 30 giống,
9 họ. So với nghiên cứu trước đó của Nguyễn Văn Vịnh, nghiên cứu này không thu
được 02 họ (Prosopistomatidae và Neoephemeridae) và 01 giống [23].
Như đã thấy, so với nhiều bộ côn trùng nước khác thì bộ Phù du ở Việt Nam
đã được nghiên cứu một cách có hệ thống với nhiều công trình nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước, đồng thời đây cũng là bộ có khóa định loại ở giai đoạn
ấu trùng tương đối hoàn thiện.
Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Nghiên cứu về khu hệ thiếu trùng Chuồn chuồn ở Việt Nam còn tản mạn và
chưa thành hệ thống. Chủ yếu các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn trưởng thành.
Bộ Chuồn chuồn ở Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên vào những năm đầu thập
niên 90 của thế kỷ XX dưới thời Pháp thuộc bởi một số nhà nghiên cứu người Pháp:
Martin trong báo cáo được công bố năm 1902 khi điều tra khu hệ động vật Đông
Dương. Trong báo cáo này, ông công bố 139 loài thuộc 3 họ: Libellulidae,
9


Aeshnidae và Agrionidae. Trong 139 loài, Martin đã mô tả 9 loài mới và một giống
mới là Merogomphus [1].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khóa định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã xây dựng
khóa định loại tới họ của bộ Chuồn chuồn [9].

Nguyễn Thị Minh Huệ (2009) trong nghiên cứu khu hệ côn trùng nước
VQG Bạch Mã tỉnh Thừa Thiên Huế xác định được 15 loài thuộc 11 họ. Cũng trong
năm đó, Nguyễn Văn Hiếu và cộng sự khi nghiên cứu đa dạng côn trùng nước tại
VQG Tam Đảo đã xác định được 32 loài thuộc 12 họ tại khu vực này [3][7].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về phân loại học nghiên cứu về ứng
dụng của bộ Chuồn chuồn đã được đề cập đến trong nghiên cứu của Đặng Ngọc
Thanh và nhóm nghiên cứu (2002), nghiên cứu đã đưa ra những dữ liệu về ấu trùng
Chuồn chuồn dùng để dánh giá chất lượng môi trường nước
Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về bộ Cánh úp đã được quan tâm nghiên cứu
trong thơi gian gần đây. Một vài loài đã được mô tả bởi Kawai (1968, 1969), Zwick
(1988), Stark và cộng sự (1999) [19], nhưng tất cả các mẫu vật đều ở giai đoạn
trưởng thành. Mục đích của những nghiên cứu là nhằm xác định lại và mô tả một số
loài mới thuộc bộ Cánh úp dựa trên những nghiên cứu trước đó và những điều tra về
sau của cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng được thu thập ở Việt Nam. Thêm vào
đó là việc xác định khóa định loại tới loài của bộ Cánh úp ở cả giai đoạn trưởng
thành và ấu trùng ở Việt Nam cũng như sinh thái, nơi ở của chúng. Cao Thị Kim
Thu (2002), đã xây dựng khóa định loại tới loài Cánh úp ở Việt Nam. Công trình là
cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ Cánh úp ở nước ta [19].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), khi nghiên cứu về nhóm côn trùng
nước ở Vườn Quốc gia Tam Đảo đã tiến định loại các loài thuộc bộ Cánh úp. Kết
quả cho thấy số loài Cánh úp ở Vườn Quốc gia Tam Đảo là 12 loài thuộc 3 họ [13].
Đỗ Mạnh Cừơng (2004), Nghiên cứu Đa dạng sinh học khu hệ Odonata khu
vực Mã Đà, Cát Tiên - Tỉnh Đồng Nai [2].
Cao Thị Kim Thu (2007) công bố hai loài mới thuộc họ Cánh úp lớn
(Perlidae) cho khu hệ Cánh úp Việt Nam là Agnetina den Cao & Bae, 2007 và
Chinoperla rhododendroma Cao & Bae, 2007 [20]. Đến 2009, tác giả trong nghiên
cứu thành phần loài họ Perlidae thuộc bộ Cánh úp ở khu vực miền Trung Việt Nam
10



đã xác định được 22 loài thuộc 10 giống, trong đó có 4 loài mới là Neoperla
tamdao, Tyloperla trui, Acroneuria bachma, Chinoperla rhododendrona và 4 loài
lần đầu ghi nhận cho khu hệ Việt Nam. Cũng trong năm này đã mô tả thêm hai loài
nữa thuộc giống Acroneuria (Perlidae) và 1 loài thuộc giống Phanoperla [11].
Cao Thị Kim Thu (2011) từ các mẫu vật thu thập được và tham khảo các tài liệu
đã công bố, đã tổng hợp được danh lục gồm 70 loài Cánh úp lớn thuộc 13 giống ở Việt
Nam. Do đó, hiện nay đã có 48 loài mới cho khoa học được mô tả từ mẫu vật và có 55
loài mới chỉ thấy ở Việt Nam mà chưa ghi nhận ở một nơi nào trên thế giới [12].
Nguyễn Văn Hiếu và cs. (2015) đã công bố thành phần loài và phân bố của
bộ Cánh úp ở VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai dựa trên mẫu vật thu thập từ năm
2012 đến năm 2013, kết hợp với các mẫu vật đã thu thập từ trước đến nay đang
được lưu giữ tại Phòng Sinh thái môi trường nước, Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật và tại Bộ môn Động vật Không xương sống, Khoa Sinh học, Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên. Ngoài ra, tác giả còn kết hợp với các tài liệu có liên quan
đến khu vực nghiên cứu để đưa ra dẫn liệu về thành phần loài Cánh úp. Kết quả đã
ghi nhận được 58 loài, 21 giống, 5 họ thuộc bộ Cánh úp. Đây có thể coi là dẫn liệu
đầy đủ và cập nhật nhất về thành phần loài bộ Cánh úp tại VQG Hoàng Liên [6].
Năm 2016, tác giả cũng đã công bố về thành phần loài Cánh úp tại VQG Hoàng
Liên, đã có 27 loài thuộc 14 giống và 4 họ được ghi nhận [4].
Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Ở Việt Nam, bộ Cánh lông được nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu về
Cánh lông đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nước châu Âu
như: Đức (Ulmer, 1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Sau những nghiên cứu đầu
tiên của Ulmer về 2 loài Hydromanicus buenningi và Paraphlegopteryx tonkinensis,
ông đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về Cánh lông ở Việt Nam. Tiếp theo,
Navás (1913, 1917, 1921, 1922, 1930, 1932, 1933) đã mô tả một số loài thuộc các
tổng họ của Hydropsychoidae, Philopotamoidae (Stenopsychidae), Leptoceroidae,
Limnephiloidae và Rhyacophiloidae. Banks (1931) và Mosely(1934)[16] nghiên
cứu về Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae. Oláh(1987-1989)

mô tả các loài thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacophiloidae [22].
May (1995-1998) và Malicky (1994, 1995, 1998), mô tả các loài thuộc các
họ Hydropsychoidae, Glossosomatoidae, Rhyacopphiloidae, Phiolopotamoidae,
Limnephiloidae, Hydroptiloidae, Sericostomatoidae và Leptoceroidae từ các mẫu
vật thu được ở một số vùng của Việt Nam. Malicky và Mey (2001), mô tả 2 loài
11


mới thuộc giống Ceratopsyche ở miền Bắc Việt Nam. Schefter và Johanson (2001),
mô tả 3 loài thuộc giống Helicopsyche. Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001) định
loại được 23 loài thuộc 16 họ của bộ Cánh lông ở Vườn Quốc gia Tam Đảo khi
nghiên cứu về nhóm côn trùng nước tại khu vực này [3].
Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), đã xây dựng khóa định
loại tới họ của bộ Cánh lông thường gặp ở nước ta. Hoàng Đức Huy (2005) mô tả
đặc điểm hình dạng, cấu tạo ngoài của các loài Cánh lông ở Việt Nam dựa vào giai
đoạn ấu trùng [9].
Năm 2016, Nguyễn Văn Hiếu và cs. đã ghi nhận được 36 loài, 35 giống, 17
họ thuộc bộ Cánh lông, trong đó có 1 loài ghi nhận mới cho VQG Hoàng Liên, tỉnh
Lào Cai [4].
Nghiên cứu về các bộ Cánh cứng, bộ Hai cánh, bộ Cánh nửa, bộ Cánh
vảy và bộ Cánh rộng
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera), Hai
cánh (Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng (Megaloptera) còn tản
mạn. Các nghiên cứu thường không tập trung vào một bộ cụ thể mà thường đi cùng
với các công trình nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước nói chung như: Nguyễn
Văn Vịnh (2001) nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Tam Đảo [28]; Cao Thị Kim Thu,
Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008) nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Bạch Mã
[21], Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) khi định loại các nhóm động vật
không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam [9].
Những nghiên cứu đầu tiên về khu hệ Cánh nửa ở Việt Nam được bắt đầu

vào những năm đầu của thế kỷ XX. Loài đầu tiên thuộc họ Gerridae (Hemiptera)
được mô tả ở Việt Nam là Ptilomera hylactor Breddin, 1903 thuộc Bắc Việt Nam.
Tiếp theo, khu hệ Gerridae ở Việt Nam tiếp tục được mô tả bởi Andersen (1975,
1980, 1993); Andersen & Cheng (2004); Polhemus (2001); Chen & Zettel (1999),
Polhemus & Andersen (1994); Polhemus & Karunaratne (1993) [35].
Trần Anh Đức (2008), mô tả khá đầy đủ và chi tiết hình dạng ngoài của các
loài thuộc họ Gerridae ở Việt Nam. Đây là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ
Cánh nửa ở nước ta [35].

12


1.2.2. Tình hình nghiên cứu về nhóm dinh dưỡng chức năng
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu về nhóm chức năng dinh dưỡng của
côn trùng thủy sinh đã được một số nhà khoa học tiến hành nghiên cứu. Tuy nhiên
các nghiên cứu mới chỉ được thực hiện tại các dòng chảy đầu nguồn và hầu hết đều
tập trung khảo sát sự đa của côn trùng thủy sinh và khái quát về đánh giá chất lượng
nước sạch. Tại khu vực nghiên cứu có nhiều dạng thủy vực khác nhau, trong đó
thủy vực dạng suối tương đối đa dạng và phong phú. Các suối này là điều kiện rất
tốt cho sự phát triển của các loài thủy sinh vật nói chung và các loài côn trùng nước
nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu về nhóm côn trùng nước ở khu
vực này mới chỉ tập trung nghiên cứu đa dạng sinh học về loài ở các suối thuộc
Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh [27] hoặc đa dạng sinh học về loài Phù du [5] mà
chưa nghiên cứu về nhóm côn trùng nước trong toàn bộ khu vực, đặc biệt các
nghiên cứu về phân bố và cấu trúc nhóm dinh dưỡng chức năng của chúng ở khu
vực này còn ít và tản mạn.

13



CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các loài côn trùng nước thu được tại các suối chảy qua khu dân cư thuộc xã
Ngọc thanh, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
- Tiến hành nghiên cứu thành phần loài và phân bố của côn trùng nước tại
một số thủy vực dạng suối chảy qua khu dân cư thuộc xã Ngọc thanh, thành phố
Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Tiến hành nghiên cứu trên 5 điểm thuộc xã Ngọc Thanh (kí hiệu 5 điểm
nghiên cứu lần lượt là DC1, DC2, DC3, DC4, DC5). Trong quá trình thu mẫu các
đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu được ghi lại như sau:
+ Điểm 1 (DC1) Thôn Đồng Chằm: độ cao: 48m, Tọa độ: N: 21022’53,5” E:
105043’36,5”. Chiều rộng của suối từ 3-7 m, độ sau 40- 150 cm. Nền đáy chủ yếu là
bùn, đá sỏi, mảnh đồ dùng sinh hoạt và xây dựng. Suối ít bã mùn thực vật. Hai bên suối
có cây bụi và cây cỏ che phủ. Suối chảy qua hệ thống cầu và đường giao thông.
+ Điểm 2 (DC2) Thôn Thanh Cao: Độ cao: 43m, Tọa độ: N: 21021’05,8”
:105045’17,3”. Chiều rộng suối là 3-5 m, độ sâu 80-100cm. Nền đáy chủ yếu là
bùn, đá sỏi, mảnh đồ dùng sinh hoạt và xây dựng. Suối nhiều mùn bã thực vật. Hai
bên suối có cây bụi, cây cỏ che phủ. Độ che phủ 20 - 40%.
+ Điểm 3 (DC3) Thôn Ngọc Quang: Độ cao: 37m, Tọa độ: N: 21021’05,8”
:105045’17,3”. Chiều rộng của suối là 2-3m, nền đáy chủ yếu là bùn, sỏi và đồ
dùng sinh hoạt. Suối có nhiều mùn bã thực vật. Hai bên có cây bụi và cây cỏ che
phủ. Độ che phủ 10-25%. Nước suối và đáy suối chịu ảnh hưởng nhiều của rác thải
và nước thải sinh hoạt của nười dân.
+ Điểm 4 (DC4) Thôn Đồng Câu: Độ cao: 35m, Tọa độ: N: 21022’34,9”
: 105043’14,4”. Chiều rộng của suối 3-5m, độ sau 40-100cm. Nền đáy chủ yếu là
bùn, đá sỏi, mảnh đồ dùng sinh hoạt và xây dựng. Suối nhiều mùn bã thực vật. Hai
bên có cây bụi và cây cỏ che phủ. Độ che phủ là 30-50%. Nước suối chịu ảnh
hưởng nhiều của rác thải, nước sinh hoạt và chăn nuôi của người dân.
+ Điểm 5 (DC5) Thôn T80: Độ cao: 22m, Tọa độ: N: 21018’21,1”


14


: 105043’53,3”. Chiều rộng của suối là 2-3,5m, chiều sâu 40-100cm. Nền đáy chủ
yếu là bùn, đá sỏi, mảnh vụn đồ dùng sinh hoạt và xây dựng. Suối nhiều mùn bã thực
vật. Hai bên có thực vật che phủ. Độ che phủ 10-20%. Suối thuộc hệ thống kênh tưới
tiêu, chịu ảnh hưởng của rác thải sinh hoạt và chăn nuôi của người dân.
2.3. Thời gian nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu được thực hiện từ tháng 4/ 2017 đến tháng 9/ 2018.
Mẫu vật sử dụng trong nghiên cứu được thu ngoài thực địa từ ngày 18/10/2017 đến
ngày 22/10/2017. Các điểm nghiên cứu thuộc suối chảy qua khu dân cư khu vực xã
Ngọc Thanh, thành phố Phúc yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Toàn bộ mẫu vật thu ngoài tự nhiên được bảo quản và lưu trữ tại phòng thí
nghiệm Động vật học, Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học sư phạm
Hà Nội 2.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên
-Trước khi thu mẫu, tiến hành xác định tọa độ và độ cao của các điểm thu
mẫu bằng thiết bị định vị GPS MAP 78 của Đức
- Quá trình thu mẫu định tính bằng vợt ao (Pond net) và vợt cầm tay (Hand
net). Thu mẫu định lượng bằng cách sử dụng lưới Surber (50cm x 50cm, kích thước
mắt lưới 0,2mm). Tiến hành thu mẫu định tính bằng cách: đặt miệng vợt ngược dòng
nước, dùng chân đạp phía trước vợt trong vòng vài phút (thu mẫu đạp nước). Ở nơi
có nhiều bụi cây dùng vợt để thu mẫu. Ở những nơi đáy có đá lớn không thu mẫu đạp
nước được thì nhấc đá lên để tìm kiếm và thu mẫu bám ở dưới bằng panh mềm để
tránh làm nát mẫu.
Thu mẫu định tính được tiến hành ở cả khu vực nước chảy và nước đứng. Ở
những nơi có cây bụi thủy sinh thì dùng vợt tay sục vào các cây bụi đó và các đám
cỏ ven bờ suối, ở những vùng nước nhỏ hoặc dòng chảy hẹp việc thu mẫu được tiến

hành bằng vợt cầm tay.
- Đối với quá trình thu mẫu định lượng, sử dụng lưới Surber với 5 lần tại mỗi
địa điểm thu mẫu. Mẫu sau khi thu sẽ được loại bỏ sạch rác, làm sạch bùn đất. Do
các cá thể côn trùng nước có cơ thể mềm, dễ nát nên thu mẫu cần phải làm một cách
nhẹ nhàng và nhặt qua mẫu ngay tại thực địa. Mẫu thu ngoài thực địa được bảo
quản trong cồn 800, ghi etiket đầy đủ và đem về lưu trữ, bảo quản, phân tích và định
15


loại tại phòng thí nghiệm Bộ môn Động vật Không xương sống, Khoa Sinh học,
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2.
2.4.2. Phương pháp phân tích mẫu
- Phương pháp nhặt mẫu: Mẫu được rửa sạch cho ra khay. Dùng panh nhặt
các đại diện của ấu trùng và thiếu trùng côn trùng nước ở trong đó, mẫu sau khi nhặt
cho vào lọ và bảo quản trong cồn 800.
- Phương pháp phân tích:
+ Dụng cụ phân tích gồm: kính soi nổi, đĩa petri, kim nhọn, panh.
+ Phân loại mẫu vật: mẫu vật được phân loại theo các khóa định loại được
công công bố trong và ngoài nước của Nguyễn Văn Vịnh (2003) [30], Cao
Thị Kim Thu (2002) [19], Hoàng Đức Huy (2005) [22], Nguyễn Xuân Quýnh
và cộng sự (2001) [9], Meritt và Cummins (1996) [24], Morse et al. (1994) [25].
2.4.3. Chỉ số đa dạng sinh học
Các chỉ số đa dạng sinh học (ĐDSH) được sử dụng trong đề tài là: chỉ số
Shannon - Weiner (chỉ số H’) và chỉ số loài ưu thế (DI).
Chỉ số Shannon - Weiner được tính bằng cách lấy số lượng cá thể của một
đơn vị phân loại chia cho tổng số cá thể trong mẫu, sau đó nhân với logarit của tỷ số
đó. Tổng các đơn vị phân loại cho chỉ số đa dạng.
+ Chỉ số Shannon - Weiner (chỉ số H’) nhằm xác định lượng thông tin hay
tổng lượng trật tự (hay bất trật tự) có trong một hệ thống. Công thức để tính chỉ số
này là:

s

H '  
i 1

Với

ni ni
ln
N N

H’: chỉ số đa dạng loài
s: số lượng loài
N: số lượng cá thể trong toàn bộ mẫu
ni: số lượng cá thể của loài i

Hai thành phần của sự đa dạng được kết hợp trong hàm Shannon - Weiner là
số lượng loài và tính bình quân của sự phân bố các cá thể giữa các loài. Do vậy, số
lượng loài càng cao thì chỉ số H` càng lớn và sự phân bố các cá thể giữa các loài
16


càng ngang bằng nhau thì cũng gia tăng chỉ số đa dạng loài được xác định thông
qua hàm số Shannon - Weiner.
Từ kết quả tính toán, có thể nhận xét về mức độ đa dạng theo các cấp sau
đây:
- Nếu chỉ số đa dạng > 3: ĐDSH tốt và rất tốt
- Nếu chỉ số đa dạng từ 1 - 3: ĐDSH khá
- Nếu chỉ số đa dạng < 1: ĐDSH kém và rất kém
+ Chỉ số loài ưu thế được tính theo công thức:


Trong đó: n1: số lượng cá thể của loài ưu thế thứ nhất
n2: số lượng cá thể của loài ưu thế thứ hai
N: tổng số cá thể trong điểm thu mẫu
2.4.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Ofice Excel® 2007 của hãng
Microsoft Corporation® và phần mềm Primer V.6 của hãng Primer®-ETM Ltd, UK.
2.5. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Ngọc Thanh
Xã Ngọc Thanh diện tích tự nhiên là 7.732,68 ha, dân số hiện nay là 12.905
nhân khẩu tương ứng với 2.818 hộ. Ngọc Thanh là xã miền núi duy nhất của thành
phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời cũng là địa bàn cư trú của hầu hết các
đồng bào dân tộc Sán Dìu trong toàn thành phố. Có địa hình đa dạng đan xen giữa
các dãy núi là các vùng đồng bằng vì vậy nên có khí hậu khác nhau giữa các vùng,
vùng giáp núi và kề hồ Đại Lải có khí hậu trong lành, mát mẻ, nhiệt độ xuống thấp
hơn vào mùa đông nhất là ở các thung lũng. Toàn xã có 21 thôn: Thanh Lộc, Thọ
An, Tân An, Bắc Ái, Đồng Chằm, Đồng Câu, Đồng Tâm, Gốc Duối, Ngọc Quang,
Thanh Cao, Đồng Đầm, Đồng Giãng, T80, Lập Đinh, An Bình, An Thịnh, Sơn
Đồng, Thôn Chung, Miếu Gỗ, An Ninh, Đồng Cao. Do địa hình đồi núi, dốc thoải
nên Ngọc Thanh có nhiều suối bắt nguồn từ các núi đổ về hồ Đại Lải. Đây là hồ
nhân tạo lớn nhất của tỉnh Vĩnh Phúc không chỉ cung cấp nước phục vụ nước tưới
tiêu mà còn là một địa điểm du lịch lý tưởng. Phát huy lợi thế có hồ Đại Lải, cảnh
quan thiên nhiên hùng vĩ, khí hậu mát mẻ, trong lành, những năm qua, Ngọc Thanh
17


×