Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Tiểu Luận Những vấn đề cơ bản nhất về Công nghiệp hóa Hiện đại hóa Nông nghiệp Nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.38 KB, 82 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ Ở XÃ
Chuyên đề 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
I. Khái niệm và chủ trương, đường lối của của Đảng về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn là
quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn theo định hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, gắn nông
nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi
nguồn lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước
và quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp và nông
thôn, xây dựng nông thôn mới giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh và xã hội
chủ nghĩa. Thực chất CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là quá trình phát
triển nông thôn theo hướng tiến bộ kinh tế - xã hội của một nước công nghiệp.
Điều đó có nghĩa là không chỉ phát triển công nghiệp nông thôn mà bao gồm cả
việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, và đời sống
văn hóa, tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông
thôn và cả nước nói chung.
Như vậy, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển biến
quy trình kĩ thuật sản xuất từ trình độ thủ công sang một nền sản xuất tiên tiến,
hướng tới một nền sản xuất hàng hóa lớn, gắn kết vối công nghệ chế biến và thị


trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng các ngành công
nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp.
2. Chủ trương, đường lối của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn


Trong từng thời kỳ phát triển, Đảng ta lại hoàn thiện những quan điểm xây
dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện thực tế và xu thế vận động của
thời đại. Trên cơ sở quan điểm phát triển chung, các ngành, các cấp vận dụng
cho phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành mình. Trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần quán triệt các quan điểm sau:
- Coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong nông nghiệp và xây dựng nông
thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn. Đây là nhiệm vụ
quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính
trị xã hội, củng cố liên minh công nông với tầng lớp trí thức đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải tạo ra một nền nông nghiệp
hàng hóa đa dạng trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, đáp ứng nhu cầu trong
nước và hướng mạnh về xuất khẩu.
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải ưu tiên phát triển các ngành
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhằm khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, sử
dụng nhiều lao động và yêu cầu ít vốn, chú trọng phát triển các cơ sở có quy mô
vừa và nhỏ kể cả quy mô hộ gia đình.
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải đảm bảo cho công nghiệp
nông thôn có trình độ công nghệ tiên tiến kết hợp với công nghệ truyền thống để
tạo ra sản phẩm có chất lượng cao đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế. Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các
tiến bộ khoa học và công nghệ để phát triển hàng hóa đa dạng, đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm với nhiều thành phần kinh tế.


- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải gắn bó chặt chẽ với sự phát
triển kinh tế đô thị và các khu công nghiệp, trong đó cần khuyến khích phát triển
các ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động hiện đang tập trung ở đô thị
vào phát triển ở nông thôn.
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải dựa trên cơ sở sử dụng hợp lí

các nguồn tài nguyên đất, nước, rừng; đảm bảo những yêu cầu về cải tạo môi
trường sinh thái ở nông thôn.
II. Mục tiêu và giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Mục tiêu tổng quát của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là xây dựng
một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng năng suất lao
động, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập
và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh, hiện
đại.
Nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn:
- Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, xây dựng các vùng chuyên
canh sản xuất trên quy mô lớn và từng bước hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu của
thị trường trong nước và xuất khẩu. Trước mắt tập trung một số ngành chủ lực
như: cây lương thực (lúa, ngô), cây công nghiệp (cao su, cà phê, chè, mía, lạc),
cây ăn quả, rau, hoa, chăn nuôi và nuôi trồng thủy, hải sản.
- Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn bao
gồm thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa. Phát triển giao thông nông thôn,
phát triển thông tin liên lạc, phát triển giáo dục, văn hóa, y tế, khoa học công
nghệ và ứng dựng các thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ sản xuất
vào đời sống.


- Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn như: công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; công nghiệp dệt may, giày dép, thủy tinh,
sành sứ, cơ khí sửa chữa; các ngành nghề truyền thống tại các địa phương.
- Phát triển các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn như:
dịch vụ thủy nông, dịch vụ thú y, dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ cung ứng vật
tư và tiêu thụ sản phẩm.

- Xây dựng nông thôn mới sạch về môi trường, giàu có, công bằng, dân
chủ, văn minh.
2. Giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
a) Hiện đại hóa nền nông nghiệp
- Gia tăng nhanh quá trình hiện đại hóa nền nông nghiệp phù hợp với điều
kiện tự nhiên, sinh thái của từng vùng và từng loại sản phẩm. Như vậy mới rút
được lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp mà vẫn bảo đảm nông nghiệp đáp
ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ngày càng gia tăng.
- Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
+ Điều chỉnh quy hoạch phù hợp và ổn định các vùng sản xuất lương thực
phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, tăng năng suất lao động đi đôi với
nâng cấp chất lượng. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa hàng hóa; tận
dụng điều kiện thích hợp trên các địa bàn khác để sản xuất lương thực có hiệu
quả. Có chính sách bảo đảm lợi ích của người sản xuất lương thực.
+ Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các cây công
nghiệp như cà phê, chè, dừa bông, mía, lạc..., hình thành các vùng rau quả có giá
trị cao gắn với phát triển các cơ sở bảo quản, chế biến.
+ Phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm,
áp dụng rộng rãi phương pháp chăn nuôi gắn với chế biến sản phẩm, tăng tỷ
trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp.


+ Phát huy lợi thế của các ngành thủy sản, tạo thành một ngành kinh tế
mũi nhọn. Phát triển mạnh nuôi trồng thủy, hải sản theo phương thức tiến bộ và
bền vững môi trường; nâng cao năng lực và hiệu quả đánh bắt hải sản xa bờ.
+ Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên
43%. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài, kết hợp lâm nghiệp
với nông nghiệp để định canh, định cư ổn định và cải thiện đời sống người dân
miền núi. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế và ngăn chặn nạn đốt phá rừng, tạo
nguồn gỗ, nguyên liệu cho công nghiệp bột giấy, chế biến đồ gỗ gia dụng và mỹ

nghệ xuất khẩu.
b) Phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
- Phát triển các làng nghề truyền thống để khai thác các tiềm năng kinh tế
của các địa phương và phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng CNH, HĐH. Thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào
phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn với những chính sách ưu đãi như:
đất đai, thuế, tín dụng...
- Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác;
từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp; mở rộng quy mô
sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn.
- Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế nông thôn phải đặt trong điều
kiện của kinh tế thị trường, tránh chủ quan duy ý chí; chú ý tới các yếu tố
khách quan như khả năng về vốn, tổ chức quản lý, công nghệ và điều kiện thị
trường.
c) Giảm bớt tỷ trọng lao động làm nông nghiệp
Đây là một tiêu chí quan trọng nhất để thực hiện và đánh giá kết quả quá
trình CNH, HĐH ở nông thôn. Hiện nay, cơ cấu lao động nông nghiệp và nông
thôn đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Theo số liệu tại Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, cơ cấu lao động trong nông nghiệp từ 57,1% (năm 2005)
giảm xuống còn 48,2% (năm 2010). Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu lao động


trong những năm qua đã có một bước tiến đáng kể. Với thực tiễn này, chương
trình Chiến lược phát triển nông thôn bền vững ở Việt Nam đã đề ra mục tiêu
đến năm 2015 tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm 40-41% lao động xã hội, đến
năm 2020 còn khoảng 25-30% lao động xã hội. Để đạt được những mục tiêu đó,
phải có thêm nhiều việc làm phi nông nghiệp được tạo ra ngay tại khu vực nông
thôn và những đô thị vừa và nhỏ nằm rải rác trên khắp các vùng ngay sát với các
làng xóm nông thôn còn xa các thành phố lớn.
d) Phát triển nông nghiệp và nông thôn nhìn theo giác độ vùng

- Đối với các vùng trung du miền núi:
Đặc điểm của các vùng trung du miền núi là đất đai nhiều (bình quân đầu
người chiếm đất nông nghiệp, lâm nghiệp là 4.624m 2, trong đó đất nông nghiệp là
1.267m2) song chất lượng đất thấp, bạc màu, thoái hóa. Hệ sinh thái ở các vùng này
thuận lợi cho phát triển các cây lương thực như: ngô, khoai, sắn, lạc đậu, chè, cây
rừng (cả rừng cây nguyên liệu giấy, gỗ trụ mỏ, rừng phòng hộ đầu nguồn). Tuy đất
và lao động làm nông nghiệp khó khăn song việc chuyển đổi lao động sang làm
việc phi nông nghiệp, công nghiệp là có điều kiện tương đối thuận lợi, nếu có vốn
để phát triển nhiều loại chế biến nông sản, công nghiệp chế tác. Ở các vùng trung
du miền núi có điều kiện phát triển kinh tế trang trại vì có thể tập trung ruộng đất,
có nhiều ngành nghề: trồng trọt, chăn nuôi. Khó khăn lớn ở vùng miền núi là do đất
làm lương thực ít, trồng các cây có giá trị kinh tế không nhiều, một bộ phận du
canh, du cư hoặc chưa ổn định sản xuất. Vì vậy yêu cầu đặt ra phải tìm cách ổn
định sản xuất và phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa, cùng với phát triển công
nghiệp chế biến đi kèm với các loại sản phẩm cây công nghiệp, cây ăn quả, phấn
đầu nâng cao thu nhập của tất cả nông dân và xóa đói giảm nghèo ở những địa bàn
còn khó khăn. Việc phát triển hạ tầng vẫn phải đầu tư nhiều cho giao thông đường
xá, cấp nước, thủy lợi, lưới điện, viễn thông, cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa. Vấn đề
cộng đồng người thiểu số chiếm tỉ lệ đáng kể ( 50%) với 42 dân tộc thiểu số khác
nhau đặt ra yêu cầu về phát triển kinh tế để nâng mức sống, về thực hiện các chính


sách để nâng cao dân trí, đoàn kết dân tộc, giữ gìn và phát huy bản số văn hóa dân
tộc.
e) Đẩy mạnh ứng dựng khoa học công nghệ trong nông nghiệp và nông thôn
CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải trang bị kỹ thuật cho các ngành của nền
kinh tế theo hướng hiện đại. Do đó phát triển kinh tế nông thôn trong điều kiện
CNH, HĐH cần phải đẩy mạnh ứng dụng của tiến bộ khoa học công nghệ vào
sản xuất nông nghiệp. Ngoài những việc về thủy lợi hóa, sử dụng giống mới đã
có phương thức, quy hoạch thực hiện tốt, trên nhiều lĩnh vực còn có chưa có

phương thức, cách làm có hiệu quả như cơ giới hóa, sinh học hóa, đưa tiến bộ
khoa học công nghệ vào sản xuất... rất cần có những mô hình được xây dựng từ
thực tiễn, thích hợp với từng địa bàn sinh thái và tính chất của từng hoạt động
sản xuất. Cần đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất thu hoạch, bảo quản, chế
biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; ứng dụng công nghệ sạch
trong nuôi trồng và chế biến thực phẩm, hạn chế việc sử dụng hóa chất độc hại
trong nông nghiệp, tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật viên bám sát
đồng ruộng, huấn luyện về kỹ năng cho người nông dân.
f) Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
Kinh tế hộ nông dân là hình thức kinh tế phổ biến ở nông thôn trong các
làng nghề, trong hoạt động dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Nhà nước cần
khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ trang trại phát triển sản xuất
hàng hóa với quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế tập thể với
nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã dựa trên sở hữu của
các thành viên và sở hữu tập thể. Đối với kinh tế tư nhân cần có chính sách hỗ
trợ hướng dẫn tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này phát triển vì đây là lực
lượng quan trọng và năng động trong cơ chế thị trường, có khả năng về vốn, tổ
chức quản lý và kinh nghiệm sản xuất. Thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò
then chốt trong nền kinh tế nông nghiệp nông thôn.
h) Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn


Nguồn nhân lực ở nông thôn có đặc điểm là trình độ học vấn thấp và phần
lớn không qua đào tạo. Đây là một cản trở lớn trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn. Do vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp,
nông thôn phải có chính sách giáo dục đào tạo riêng, không chỉ tính đến trình độ
đầu vào, ưu đãi về tài chính cho khu vực nông nghiệp mà còn phải tính đến nhu
cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động được đào tạo trong hiện tại và
tương lai.
i) Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn

Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn bao gồm: hệ thống đường xá,
thông tin, thủy lợi, trạm biến thế, trạm giống, trường học, nhà văn hóa rất cần
thiết cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn. Cần quy hoạch hợp lý và nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, nguồn nước, vốn, rừng, gắn với bảo vệ môi trường.
Quy hoạch các khu dân cư phát triển các thị trấn, thị tứ, các điểm văn hóa ở
làng, xã; nâng cao đời sống vật chất văn hóa tinh thần, xây dựng cuộc sống dân
chủ, công bằng, văn minh ở nông thôn.
III. Phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam theo hướng bền vững
1. Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát
triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong
tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên
thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn
hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên
nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản:
“Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà
còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái học”. Đến năm 1987, khái niệm phát triển bền vững chính thức


xuất hiện và được phổ biến rộng rãi trong Báo cáo “Tương lai của chúng ta” của
Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển như là sự phát triển đáp ứng được
những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ mai sau. Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được
sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng giữa các
công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên;
phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường.

Ở Việt Nam hiện nay, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan
điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Theo Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, khái niệm phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển
đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau, và phải bảo đảm có sự kết hợp chặt chẽ, hợp
lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường; coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Tại Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI cũng đề ra quan điểm về phát triển nông
nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
2. Chiến lược phát triển bền vững
* Chiến lược phát triển nông thôn bền vững:
Các ưu tiên cần được triển khai thực hiện trong 10 năm tới (2010-2020)
trước mắt được xác định trong định hướng chiến lược phát triển nông thôn bền
vững ở Việt Nam bao gồm:
- Mục tiêu và cũng là động lực phát triển nông thôn bền vững là nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân, xét trên cả khía cạnh kinh tế, xã hội và môi
trường. Theo đó, nông dân phải là nhân vật trung tâm, người được hưởng lợi
trước tiên từ những thành quả của quá trình phát triển.


Nội dung của phát triển nông thôn bền vững bao gồm 4 quá trình: công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; đô thị hóa; kiểm soát dân số; bảo vệ môi trường sinh
thái.
Có thể nói về thực chất của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là phát triển nông thôn bền vững với 4 quá
trình đó.
- Xét riêng quá trình phát triển nông nghiệp bền vững (bao gồm trồng trọt,
chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản), yếu tố đầu tiên và căn
bản là nông sản phải đảm bảo 4 yêu cầu:
+ Chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường,

trước hết là đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm. Đồng thời
sản phẩm nông nghiệp phải đa dạng, có hàm lượng công nghệ cao.
+ Giá cả nông sản hợp lý, có sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
+ Khối lượng nông sản phải có quy mô đủ lớn theo yêu cầu thị trường, cụ
thể là theo từng yêu cầu của nhà phân phối, nhất là của nhà nhập khẩu nông sản
từ Việt Nam.
+ Thời gian cung ứng nông sản phải đáp ứng yêu cầu khắt khe của nhà
phân phối, nhất là của nhà nhập khẩu nông sản từ Việt Nam.
Muốn đáp ứng 4 yêu cầu trên, nền nông nghiệp phải được phát triển trên
các cơ sở: thực hiện một nền nông nghiệp đa chức năng, vừa sản xuất nông
phẩm hàng hóa vừa kết hợp phát triển du lịch sinh thái và tạo cảnh quan môi
trường sống tốt đẹp cho con người; nông sản phải được sản xuất theo tiêu chuẩn
và quy trình GAP (good agriculture practice), ISO.1.4000 và HCACCP; và áp
dụng công nghệ cao trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp, từ
chọn, tạo, sản xuất giống đến sản xuất và chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản.
Muốn vậy cần triển khai các mô hình sản xuất sau:
Các trang trại có quy mô lớn về diện tích đất chủ yếu tồn tại dưới hình
thức trang trại gia đình hay trang trại cá nhân, trang trại hợp doanh có 1 cấp


quản trị phải trở thành lực lượng sản xuất nông sản hàng hóa chủ yếu kết hợp
với du lịch nông thôn trên các vùng nông nghiệp sinh thái.
Các Hợp tác xã (HTX) làm dịch vụ đầu vào - đầu ra cho các trang trại phải
trước hết và chủ yếu là của các chủ trang trại này, được thành lập và phát triển
do nhu cầu và khả năng quản lý của chính các chủ trang trại sản xuất hàng hóa
nông sản có quy mô lớn. Đồng thời, việc điều hành hoạt động kinh tế của các
HTX phải do những nhà quản trị chuyên nghiệp (được đào tạo và trả công xứng
đáng theo giá cả sức lao động trên thị trường) đảm trách.
Sản xuất theo hợp đồng (Contrac farming) giữa các trang trại và doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản trên thị trường trong và ngoài nước cũng như

các doanh nghiệp du lịch sinh thái, phải trở thành hình thức giao dịch buôn bán
nông sản phổ biến và chủ yếu. Doanh nghiệp kinh doanh chế biến, tiêu thụ nông
sản và du lịch nông thôn phải là lực lượng nòng cốt tổ chức lại nền nông nghiệp
hàng hóa của đất nước.
Những mô hình sản xuất kể trên là yếu tố quan trọng để nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp - cơ sở của sự phát triển bền
vững đối với một nước có mức bình quân diện tích/nhân khẩu thấp như nước ta.
Muốn thực hiện được mô hình sản xuất nói trên, thể chế quản lý vĩ mô của
nhà nước phải đảm bảo:
Tạo khung pháp lý cho thị trường đất nông nghiệp hoạt động lành mạnh để
quá trình tích tụ ruộng đất diễn ra thuận lợi, hình thành các trang trại quy mô
lớn.
Đào tạo miễn phí cho con em nông dân, từ bậc tiểu học đến trung học cơ
sở và trung học cao đẳng nghề nông nghiệp, để tạo ra một đội ngũ chủ trang trại
“canh nông tri điền” và các kỹ thuật viên nông nghiệp trên tất cả các vùng nông
nghiệp sinh thái.


Đầu tư cho hoạt động khuyến nông để nâng cao kỹ năng cho đội ngũ nông
dân hiện hữu theo nhu cầu của nông dân và thị trường nông sản, không phân biệt
chủ thể (tổ chức) hoạt động khuyến nông.
Tài trợ 100% kinh phí cho các đề tài khoa học kỹ thuật và kinh tế - xã hội
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, không phân biệt chủ thể (tổ chức và
cá nhân) thực hiện các đề tài khoa học này.
- Quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa nông thôn phải theo mô hình nhiều
trung tâm trên các vùng sinh thái tự nhiên và nhân văn; mỗi trung tâm lại có
nhiều “vệ tinh”, kết nối chặt chẽ với nhau về kinh tế - văn hóa, xã hội, lịch sử và
sinh thái. Mô hình này cho phép tiến tới xóa bỏ sự cách biệt giữa thành thị và
nông thôn xét về mức sống vật chất và tinh thần. Điều khác biệt chỉ còn ở mật
độ dân số và các công trình xây dựng ở đô thị cao hơn nông thôn, còn môi

trường sinh thái tự nhiên ở nông thôn tốt hơn thành thị; Nông thôn có cảnh quan
thiên nhiên thỏa mãn nhu cầu du lịch nông thôn của dân cư thành thị.
Muốn vậy, thể chế quản lý vi mô của Nhà nước cần:
Không được hy sinh lợi ích của bất kỳ nhóm dân cư nào trong quá trình
phát triển nông thôn, nhất là trong việc xây dựng các khu công nghiệp - đô thị
mới, phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
Quy hoạch hệ thống các đô thị trung tâm và vệ tinh trên cả nước và ở mỗi
vùng kinh tế - sinh thái; có chính sách tài trợ, khuyến khích phát triển công
nghiệp, dịch vụ ở các đô thị vệ tinh, phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp và sử
dụng lực lượng lao động nông nghiệp dôi dư. Nhà nước phải đứng ra tổ chức
thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng để xây dựng khu công nghiệp - đô thị, kết
cấu hạ tầng, đấu thầu cho các doanh nghiệp tổ chức thực hiện quy hoạch (không
để các doanh nghiệp - chủ đầu tư trực tiếp thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt
bằng như hiện nay). Tiền lời thu được qua bán đấu giá phải ưu tiên chi cho việc
“an cư, lạc nghiệp” của người dân bị giải tỏa đất đai, nhà cửa, di dời đến chỗ ở
mới với công ăn việc làm tốt hơn nơi ở cũ.


Đào tạo nghề phi nông nghiệp miễn phí cho nông dân theo yêu cầu phát
triển công nghiệp, dịch vụ ở các đô thị, trước hết là cho các đô thị vệ tinh.
Miễn, giảm tiền thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất cho các cơ sở công
nghiệp, dịch vụ đóng tại nông thôn và các khu đô thị vệ tinh.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật: giao thông (kể cả đường sông),
cơ sở giáo dục phổ thông và dạy nghề, chăm sóc sức khỏe con người, cung cấp
nước sạch, khu nhà ở cho người thu nhập thấp ở các khu công nghiệp - đô thị vệ
tinh. (Không dùng ngân sách Nhà nước để đầu tư mà chỉ tài trợ lãi suất hay cho
vay ưu đãi đối với việc xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật để kinh doanh, như
hệ thống sản xuất, truyền tải điện, bưu chính - viễn thông, cầu, đường giao thông
có thể thu phí dưới hình thức BOT).
Để thực thi thành công chiến lược xây dựng nông thôn phát triển bền

vững, Chính phủ cần thành lập chương trình quốc gia về phát triển nông nghiệp,
nông thôn bền vững do một Phó Thủ tướng trực tiếp điều hành; còn ở các tỉnh,
Chủ tịch UBND tỉnh phải trực tiếp điều hành chương trình này.
* Chiến lược phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu
quả, bền vững:
Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất
hàng hóa với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng
nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập và đời
sống nhân dân, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng mô
hình sản xuất kinh doanh phù hợp với từng loại cây, con. Khuyến khích tập trung
ruộng đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và
điều kiện của từng vùng. Gắn kết chặt chẽ hài hòa lợi ích giữa người sản xuất,
người chế biến và người tiêu thụ, giữa việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ với tổ
chức sản xuất, giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới. Đổi
mới cơ bản phương thức tổ chức kinh doanh nông sản, trước hết là kinh doanh
lúa gạo; bảo đảm phân phối lợi ích hợp lý trong từng công đoạn từ sản xuất đến


tiêu dùng. Phát triển hệ thống kho chứa nông sản, góp phần điều tiết cung cầu.
Tiếp tục đổi mới, xây dựng mô hình tổ chức để phát triển kinh tế hợp tác phù
hợp với cơ chế thị trường. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất
là đất trồng lúa sang sử dụng vào mục đích khác đi đôi với việc bảo đảm lợi ích
của người trồng lúa và địa phương trồng lúa. Trên cơ sở quy hoạch vùng, bố trí
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ và giống phù hợp với nhu cầu thị trường và
giảm thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Phát triển các hình thức bảo hiểm phù hợp
trong nông nghiệp. Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại
trong sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng dụng trong công nghệ sinh học
để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên một đơn vị đất canh tác.
Hỗ trợ phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao. Đẩy mạnh chăn nuôi theo

phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, bảo đảm chất lượng và an toàn dịch
bệnh.
Phát triển lâm nghiệp bền vững. Quy hoạch và có chính sách phát triển
phù hợp các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng với chất lượng
được nâng cao. Nhà nước đầu tư và có chính sách đồng bộ để quản lý và phát
triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, đồng thời bảo đảm cho người nhận khoán
chăm sóc, bảo vệ rừng có cuộc sống ổn định. Khai thác bền vững, có hiệu quả
nguồn lợi thủy sản, phát triển đánh bắt xa bờ, gắn với bảo đảm quốc phòng, an
ninh và bảo vệ môi trường biển. Phát triển nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch,
tập trung vào những sản phẩm có thế mạnh, có giá trị cao; xây dựng đồng bộ kết
cấu hạ tầng vùng nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản
xuất và chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp ứng yêu
cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm. Quy hoạch và phát triển có hiệu quả nghề muối,
bảo đảm nhu cầu của đất nước và đời sống diêm dân.
3. Chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững


a) Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và phát triển nông - lâm - ngư nghiệp
toàn diện theo hướng CNH, HĐH gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông
thôn
- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững phải chú ý những nội dung sau:
+ Xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa dạng ngành nghề và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
ở nông thôn.
+ Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào
nông nghiệp (nhất là chương trình giống). Xây dựng và mở rộng mô hình sản
xuất hàng hoá vùng núi khó khăn.
+ Điều chỉnh, bổ sung cập nhật quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp trong từng vùng kinh tế và liên vùng theo hướng phát triển bền vững gắn

sản xuất với thị trường, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến.
+ Xây dựng đề án chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất
nông sản hàng hoá có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường trong
nước và thị trường quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên (đất đai,
lao động và nguồn vốn), nâng cao thu nhập trên một đơn vị ha đất canh tác, trên
01 ngày công lao động; cải thiện đời sống của nông dân.
- Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng
sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng rừng và độ che
phủ rừng trên cơ sở khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư.
Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để người dân có thể sinh sống, làm giàu từ việc
trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng.
- Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi
thế từng vùng gắn với thị trường. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch
vụ phục vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thủy, hải sản.


b) Xây dựng đề án sử dụng hợp lý tài nguyên nông nghiệp và nông thôn
- Xây dựng và thực hiện chương trình nâng cao năng suất sử dụng đất, sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước; áp dụng hệ thống sản xuất nông lâm kết
hợp; nông lâm ngư kết hợp, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, nhằm
sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên đất, nước, khí hậu.
- Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào nông
nghiệp nhất là công nghệ sinh học; thực hiện chương trình cải tạo các giống cây,
giống con.
c) Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển thị trường nông thôn,
tăng khả năng tiêu thụ nông sản kết hợp với việc phát triển nguồn nhân lực phục
vụ phát triển sản xuất.
- Thúc đẩy và phát triển mối liên kết giữa các chủ thể trong các kênh sản
xuất và lưu thông sản phẩm, tạo mới và ổn định các kênh thị trường nhằm tối đa

hóa lợi ích của các thành phần tham gia.
- Xây dựng đề án phát triển đa dạng ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn;
đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo việc làm phi nông nghiệp, tăng thời
gian lao động và cơ cấu lại nguồn lao động ở nông thôn.
d) Xây dựng nông thôn mới
Quy hoạch phát triển nông thôn, phát triển đô thị và bố trí các điểm dân
cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi
trường. Triển khai xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng
theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy
truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Triển khai có hiệu quả
chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm. Thực hiện
tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách,
chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ. Phấn đấu giá trị gia tăng nông
nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6-3%/ năm. Tỷ trọng lao động nông nghiệp đến


năm 2015 chiếm 40-41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn
tăng 1,8-2 lần so với năm 2010.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu hỏi 1: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dẫn đến nguy cơ mai
một những nét đẹp văn hóa, truyền thống của nông thôn. Vậy các anh, chị có
sáng kiến gì để giữ gìn bản sắc văn hóa của các vùng nông thôn?
Câu hỏi 2: Vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, tại sao người dân
tộc lại thắc mắc nhiều?
Câu hỏi 3: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn đã đem lại rất nhiều thành tựu. Vậy theo các đồng chí, thành tựu nào là
quan trọng nhất, vì sao?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX về đẩy nhanh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2001- 2010.
- Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 của Ban chấp hành Trung ương
khóa X về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
- Quyết định số 491/2009/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ
Nông nghiệp & Phát triển nông thôn hướng dẫn thi hành Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới.
- Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4 tháng 6
năm 2010 về Phê duyệt chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010 - 2020.


- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ tài liệu về tập huấn xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, 2008.

Chuyên đề 2:
TỔNG QUAN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở XÃ
I. Hệ thống chính trị ở xã trong thời kỳ đổi mới
1. Khái niệm và đặc điểm hệ thống chính trị ở xã
a) Khái niệm về hệ thống chính trị ở xã
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực
hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống
chính trị. Hệ thống chính trị là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái,
đoàn thể xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa các lực
lượng đó, chi phối sự tồn tại và phát triển đời sống chính trị của một quốc gia, thể
hiện bản chất của chế độ chính trị của quốc gia, con đường phát triển của xã hội.


(Theo Từ điển Luật học của Viện pháp lý - Bộ tư pháp do Nhà xuất bản Tư pháp và

Nhà xuất bản Từ điển bách khoa phối hợp ban hành).
Cấu trúc của hệ thống chính trị không chỉ là hệ thống các tổ chức và các
quan hệ về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn
theo hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống.
Có các cấp độ của từng tổ chức (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể)
quy định vị trí, vai trò, chức trách, thẩm quyền của các cấp, của cấp trên với cấp
dưới trong phạm vi một tổ chức với sự tác động của bộ máy tương ứng với từng
cấp. Hệ thống chính trị được cấu thành bởi các tổ chức nêu trên cũng có các cấp độ
này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung ương với địa phương và
cơ sở.
Giữa các tổ chức lại hình thành quan hệ tác động lẫn nhau trong hệ thống và
trong từng cấp độ. Cụ thể, ở cấp trung ương là quan hệ giữa Đảng với Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể. Ở cấp tỉnh là quan hệ giữa Đảng bộ
tỉnh với chính quyền tỉnh, Mặt trận với các đoàn thể cấp tỉnh. Ở cấp cơ sở xã,
phường, thị trấn là quan hệ giữa Đảng bộ xã với chính quyền và Mặt trận cùng các
đoàn thể trong xã.
Ở đây ta đang xem xét khái niệm cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở trên
quan điểm xã hội học chính trị và quản lý xã hội. Đây là những khái niệm xuất
phát, những khái niệm công cụ để nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cải cách
hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay.
Cơ sở được lấy làm đối tượng nghiên cứu ở đây không phải là một đơn vị cơ sở bất
kỳ (gia đình, cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp hay viện
nghiên cứu…) mà là cơ sở với tư cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống
quản lý hành chính nhà nước bốn cấp hiện hành. Cơ sở đó chính là xã - phường thị trấn, là cấp cơ sở của quản lý nhà nước. Phường, thị trấn là cấp cơ sở ở đô thị,
được đặc trưng bởi quản lý đô thị. Xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn, đây là cả
một địa bàn rộng lớn, chiếm đa số trong tổng số đơn vị cơ sở nước ta. Vì thế, nói


tới hệ thống chính trị ở xã chính là nói tới hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn
nước ta hiện nay.

Như vậy, hệ thống chính trị ở xã (cơ sở ở nông thôn) cũng bao gồm 3 bộ
phận cấu thành: Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở xã. Mỗi
bộ phận tồn tại với vai trò, chức năng riêng và có quan hệ mật thiết với nhau, tạo
thành hệ thống, quản lý và điều hành mọi hoạt động ở xã về các lĩnh vực của đời
sống.
b) Đặc điểm hệ thống chính trị ở xã
Nói tới cơ sở là nói tới xã - phường - thị trấn, trong đó xã là chủ yếu, chiếm
tới 85% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở. Cơ sở và hệ thống chính trị
ở xã là khâu trung tâm cần phải đột phá trong chỉnh đốn và đổi mới hệ thống chính
trị cơ sở. Giải quyết khâu đột phá này, lẽ dĩ nhiên không thể không bàn tới quan hệ
giữa xã và thôn, tới vai trò của Đảng bộ hoặc chi bộ xã, của Mặt trận Tổ quốc ở xã
và các đoàn thể, các tổ chức quần chúng cấu thành thống chính trị ở xã, các phương
thức tổ chức, hoạt động cùng các mối quan hệ giữa chúng. Nhận thức về xã chúng
ta nhấn mạnh tới mấy điểm dưới đây:
- Xã là nơi chính quyền trong lòng dân như Đảng ta đã xác định. Xã là cấp
thấp nhất trong các cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền nhà nước nhưng lại là
nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội.
- Xã là nơi diễn ra cuộc sống của dân, nơi chính quyền và các đoàn thể tổ
chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình. Nếu dân chủ là dân
làm chủ như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, thì xã là nơi thể hiện rõ nhất và trực tiếp
nhất ý thức và năng lực dân chủ của dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp. Chế độ ủy quyền và những phương tiện, những điều kiện nhằm
thực hiện và đảm bảo cho sự ủy quyền đó phải được bắt đầu từ xã mà nhân dân là
chủ thể. Bao nhiêu quyền hành đều là của dân, bao nhiêu lợi ích cũng thuộc về dân.
Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Dân có quyền làm chủ, đồng thời có nghĩa
vụ của người chủ. Do ở xã là nơi làm việc và sinh hoạt hàng ngày của dân chúng, là


nơi thể chế được dân trực tiếp tổ chức nên và dân thường xuyên tiếp xúc, đề đạt

nguyện vọng, yêu cầu của mình với những người đại diện cho mình, đồng thời dân
cũng có điều kiện biết rõ sự hoạt động của thể chế, của con người và tổ chức bộ
máy, mặt hay cũng như mặt dở, mặt tốt cũng như mặt xấu với những khuyết tật của
nó… nên quan hệ và thái độ của dân đối với thể chế ở xã cho thấy rõ nhất hiện
trạng của thể chế nói chung. Động lực, nội lực của sự phát triển hay vật cản kìm
hãm, sự trì trệ và suy thoái được nhận thấy rõ nhất ở ngay xã. Những yếu kém diễn
ra trong thể chế ở xã làm thương tổn đến uy tín và ảnh hưởng xã hội của thể chế nói
chung. Những phản ứng, bất bình của dân đối với cán bộ xã là khởi đầu cho những
mất ổn định, thậm chí trở thành tình huống, thành điểm nóng gây hại tới sự bình
yên của chế độ nói chung. Do vậy, mấu chốt của xã là chất lượng cán bộ, là hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị sao cho giữ được dân, làm cho dân yên ổn,
phấn khởi làm ăn, sinh sống, liên kết cộng đồng, quan tâm và bảo vệ thể chế, phát
triển xã hội, phát triển sức dân.
- Xã là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ mô phải tác động tới.
Xã là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết định, mọi chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước phải tìm đến. Đường lối, nghị quyết có
đi vào cuộc sống thực sự hay không, dân có được tổ chức hành động trong phong
trào rộng khắp để biến khả năng thành hiện thực hay không; đường lối, chính sách
có tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng sai ra sao được chứng thực bởi cuộc sống, tâm
trạng, thái độ, niềm tin và hành động thực tế của dân chúng. Vì vậy, xã tuy là cấp
thấp nhất trong hệ thống quản lý nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống
còn, thành bại của chế độ. Xã là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm
nhất của đời sống xã hội, không được xao nhãng mà cần đặc biệt quan tâm, chỉ đạo
thường xuyên. Thực chất của mất xã là mất dân, mà khởi đầu của sự mất dân là xa
dân của cán bộ xã, sự rệu rã của tổ chức bộ máy và sự hoành hành của nạn quan
liêu, tham nhũng làm cho dân đói khổ, bần cùng.
- Xã không phải là cấp hoạch định đường lối, chính sách... Xã là cấp hành
động, tổ chức hành động, đưa đường lối, nghị quyết chính sách vào cuộc sống. Là



cấp hành động, tổ chức thực hiện nên cán bộ xã phải gần dân, hiểu dân, sát dân và
năng lực của cán bộ xã là năng lực thi hành, tổ chức công việc và thường xuyên giáo
dục, tuyên truyền, vận động quần chúng. Tổ chức bộ máy xã phải thực sự gọn nhẹ,
“thà ít mà tốt”, năng động, nhạy bén, cán bộ xã phải thực sự nhuần nhuyễn lý luận
với thực tiễn, sáng tạo một cách thiết thực, biết rõ phương hướng hành động, có bản
lĩnh dám chịu trách nhiệm, có phương pháp và phong cách dân vận “óc nghĩ, mắt
nhìn, miệng nói, tai nghe, chân đi, tay làm” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra (Hồ Chí
Minh toàn tập Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.5, tr.699). Biết làm cho dân tin, dân
ủng hộ; biết tập hợp dân thành lực lượng và hoạt động trong phong trào; phục vụ
dân, làm lợi cho dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, đó là tất cả những gì cán bộ xã
cần có.
2. Hệ thống chính trị ở xã trong thời kỳ đổi mới
Hệ thống chính trị ở xã có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi
khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Gần
20 năm qua, nói chung hệ thống chính trị ở xã đã tích cực thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình cùng với nhân dân tạo nên những thành tựu quan trọng về kinh
tế, xã hội, văn hóa, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thay đổi đời sống nông dân theo
hướng tích cực.
Cơ cấu của hệ thống chính trị ở xã:
Về mặt tổ chức, hệ thống chính trị ở xã bao gồm ba bộ phận cấu thành là tổ
chức Đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận
Tổ quốc, bao gồm Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến
binh.
a) Tổ chức cơ sở Đảng ở xã
Hiện nay, số lượng tổ chức cơ sở Đảng ở xã chiếm khoảng 20% trong tổng
số các tổ chức cơ sở Đảng, có số lượng lớn nhất so với các loại hình tổ chức cơ sở



Đảng trong cả nước. Gần 50% tổng số đảng viên của toàn Đảng đang sinh hoạt và
hoạt động trong các tổ chức cơ sở Đảng ở xã.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Điều 21, Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam, được Đại hội X của Đảng thông qua, đã quy định: “Tổ chức cơ
sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Ðảng, là hạt nhân chính trị ở
cơ sở”. Như vậy tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Điều này bắt
nguồn trực tiếp từ học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quyết định của
quần chúng nhân dân trong lịch sử, về vai trò của giai cấp công nhân - lực lượng
chủ yếu của cách mạng vô sản và là người lãnh đạo xã hội trong thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là hạt nhân lãnh đạo chính trị, lãnh đạo hệ thống
chính trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng ở xã có vai trò hạt nhân trong lãnh đạo chính
trị, lãnh đạo hệ thống chính trị, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được
cụ thể hóa và được thực hiện thắng lợi ở cơ sở. Tổ chức Đảng ở xã có vai trò lãnh
đạo toàn diện các mặt hoạt động trong xã, lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể
quần chúng.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nơi giáo dục, rèn luyện đảng viên và phát triển
Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi giáo dục lý tưởng cách mạng, rèn luyện ý chí,
trau dồi quan điểm, lập trường cách mạng cho đảng viên ở nông thôn, động viên
đảng viên tham gia các phong trào giữ gìn an ninh, trật tự, phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương; là nơi vận động và bồi dưỡng những người ưu tú, xuất sắc trong
phong trào quần chúng, kết nạp họ vào Đảng nhằm xây dựng, phát triển, tăng
cường số lượng và sức chiến đấu của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng và là chỗ dựa
đáng tin cậy của quần chúng nhân dân ở cơ sở. Bằng việc đưa đường lối, chủ
trương của Đảng vào cuộc sống ở xã, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước; phát triển
lực lượng đảng viên mới trong quần chúng, các tổ chức Đảng ở xã thực sự là “một



đơn vị chiến đấu cơ bản” của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị và
là chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân ở cơ sở.
b) Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Theo Hiến pháp 1992, hệ thống chính quyền nhà nước ta bao gồm bốn cấp từ
Trung ương đến cơ sở, trong đó, chính quyền cấp cơ sở ở xã có vị trí rất quan trọng.
Đây là đơn vị thực hiện, đồng thời cũng là nơi kiểm tra, đánh giá đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; là nơi trực tiếp và có ưu thế
trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khai thác tiềm năng tại chỗ ở địa
phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, tạo
điều kiện cho nhân dân địa phương xây dựng một cuộc sống ổn định. Chính quyền
cơ sở ở xã, bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, được bầu ra theo
Hiến pháp và pháp luật.
- Hội đồng nhân dân:
Theo Hiến pháp 1992, Hội đồng nhân dân xã được xác định là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của nhân dân. Thông qua Hội đồng nhân dân xã, nhân dân ở cơ sở thực hiện
quyền làm chủ của mình. Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước cơ quan cấp trên và trước nhân dân địa phương.
Về mặt tổ chức, Hội đồng nhân dân xã có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các đại
biểu Hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân năm 2003, Hội đồng nhân dân xã có Thường trực Hội đồng nhân dân nhưng
không có các ban chuyên môn như Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện. Nhiệm kỳ
của Hội đồng nhân dân là 5 năm. Số lượng đại biểu được quy định tối thiểu là 15
người (xã có 1000 người trở xuống) và tối đa không quá 25 người (xã có từ 3000
người trở lên). Cũng như Hội đồng nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân xã có hai
chức năng cơ bản là quyết định và giám sát.
Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện phát triển kinh tế xã hội hàng năm nhằm phát huy tiềm năng của địa phương, quyết định trong lĩnh
vực văn hóa, giáo dục, xã hội và đời sống, quyết định trong lĩnh vực quốc phòng,



an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyết định đối với việc thực hiện chính sách dân tộc
và tôn giáo, quyết định trong lĩnh vực thi hành pháp luật, quyết định trong lĩnh vực
xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.
Trong chức năng giám sát, Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở xã; giám sát việc thực hiện
nghị quyết của Hội đồng nhân dân, việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân
và công dân ở địa phương.
- Ủy ban nhân dân:
Theo Nghị định 107/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 4 năm 2004
(có sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 27/2009/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 19
tháng 3 năm 2009), Uỷ ban nhân dân xã miền núi, hải đảo có dân số từ 5.000 người
trở lên; xã đồng bằng, trung du có dân số từ 8.000 người trở lên và xã biên giới, có
5 thành viên gồm có 1 Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 2 ủy viên. Uỷ ban nhân dân xã
không thuộc diện trên thì có 3 thành viên gồm có 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1
ủy viên. Trong đó Chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội xã. Các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phụ trách khối
kinh tế - tài chính, xây dựng, giao thông, nhà đất và tài nguyên - môi trường và phụ
trách khối văn hóa - xã hội và các lĩnh vực xã hội khác. Các ủy viên Uỷ ban nhân
dân thì phụ trách công an và phụ trách quân sự.
c) Các đoàn thể nhân dân ở xã
“ Các đoàn thể nhân dân ” ở nước ta là một phạm trù rất rộng, có thể bao
gồm cả các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội, giới chức, lợi ích, từ
thiện. Phạm trù “đoàn thể nhân dân” được đề cập ở đây là các tổ chức chính trị - xã
hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Ở nông thôn, rất ít nơi có tổ chức công đoàn,
vì vậy, nói đến các đoàn thể nhân dân ở xã thuộc hệ thống chính trị, chủ yếu có năm
tổ chức là Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội
Cựu chiến binh.



×