Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.69 KB, 19 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một phương
thức chủ yếu và là xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới
hiện nay. Trong xu thế này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
trên thế giới nói chung và các thành phần trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói
riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường các hoạt động
hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu vực. Bởi vậy xu thế
này đang chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc
tế bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động
quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở các biện pháp mở cửa thị trường, tự do
hoá nền kinh tế của một quốc gia hoặc việc tham gia của quốc gia này vào các cam
kết thoả thuận hợp tác kinh tế thương mại song phương (giữa hai nước với nhau),
khu vực (tham gia vào một tổ chức hợp tác giữa các nước trong cùng một khu vực
địa lý như khu vực Đông Nam á – ASEAN…), đa phương ở phạm vi toàn cầu như
tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO. Mục tiêu bao trùm, lớn nhất và
nhất quán của việc hội nhập kinh tế quốc tế, dù ở cấp độ đơn phương của một quốc
gia hay tham gia các định chế khu vực và toàn cầu đều hướng tới việc tự do hoá
thương mại, đầu tư ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới.
Nắm bắt được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế trên thế giới, Việt Nam đã tiến hành các chính sách đổi mới kinh tế,
mở cửa và cải cách nền kinh tế. Đối với nước ta, Đảng đã khẳng định: "Việt Nam
muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Điều này chứng tỏ rằng, hội nhập kinh tế
quốc tế là một trong những quan điểm chiến lược, là con đường tất yếu đất nước
phải trải qua để tiến nhanh trở thành nước công nghiệp hoá hiện đại, là con đường
cả nước ta phải chủ động bước vào với quyết tâm chính trị cao nhất. Bởi hội nhập
kinh tế đặt các quốc gia, các nền kinh tế vào tình huống phải vận động, phải năng
động, đây vừa thách thức và cũng là thời cơ lớn, nếu không tận dụng được thì đất
nước tiếp tục lạc hậu, đói nghèo. Do vậy, tất yếu đòi hỏi Việt Nam phải xử lý thành


công mọi thách thức và nắm lấy mọi cơ hội trên con đường hội nhập vào xu thế
vận động của kinh tế thế giới ngày nay.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế chung
trên toàn cầu, một thị trường thế giới chung. Quá trình này vận động trên nền tảng
của nền kinh tế tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh càng phát triển, thì thị trường
của nền kinh tế thế giới càng rộng, càng tự do. Thị trường càng rộng, càng thông
thoáng thì những nước mạnh về vỗn, giàu kinh nghiệm quản lý, nhạy bén trong
việc vận dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến càng có nhiều lợi thế, phần
bất lợi thuộc về những nước đang phát triển, yếu về vốn, hạn chế về kinh nghiệm
quản lý và nhất là không tận dụng được những lợi thế do toàn cầu hoá và cách
mạng khoa học công nghệ mang lại.
Đối với các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng, hội nhập
kinh tế quốc tế vừa tạo ra nhiều cơ hội và cũng đặt ra không ít thách thức phải vượt
qua. Những nước phát triển và các tập đoàn kinh tế của họ đang chi phối quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Hố ngăn cách giữa nước
giàu với nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo có nguy cơ ngày càng sâu
rộng; giá trị bản sắc văn hoá dân tộc ngày càng bị xói mòn; tính phụ thuộc một
chiều của các nước nghèo vào các nước giàu ngày càng gia tăng nếu quốc gia đó
không phát huy được hiệu quả nội lực và tận dụng tốt các nguồn lực bên ngoài,
.v.v.
Sau 11 năm nộp đơn, chuẩn bị các điều kiện và thực hiện đàm pháp gia nhập
WTO, mới đây Việt Nam đã kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ, quốc gia
cuối cùng trên con đường Việt Nam gia nhập WTO và nước ta sẽ chính thức trở
thành thành viên của Tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu này trong một tương lai rất
gần.Việc gia nhập WTO thể hiện sự nỗ lực tổng hợp của nước ta, đồng thời cũng
thể hiện nước ta đã hoàn tất bước đi cuối cùng của quá trình chuẩn bị để tham gia
vào toàn bộ các thể chế hiện hành của kinh tế quốc tế.
Có thể nói rằng vấn đề chung nhất, tổng quát nhất, quan trọng nhất trong hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay là làm thế nào để hội nhập có hiệu quả,
đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sức cạnh tranh của nền kinh tế, thực

hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện thắng
lợi mục tiêu chung là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
I. Những vấn đề chung của hội nhập kinh tế quốc tế
Tiến trình hội nhập của nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới đang đi vào
chiều sâu với việc thực hiện trên diện rộng các cam kết quốc tế mà nước ta phải
thực hiện. Xét trên bình diện kinh tế quốc tế, hội nhập là thước đo hiệu quả của
mọi nền kinh tế, nó đặt ra những chuẩn mực thương mại ngày càng cao hơn và tác
động mạnh mẽ tới diện mạo thương mại thế giới nói chung và bức tranh kinh tế
của mỗi quốc gia nói riêng. Những diện mạo đó biểu hiện ở cả trạng thái “động”
lẫn trạng thái “tĩnh” và điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh của mỗi nền
kinh tế và cách tham gia của các chủ thể. Có thể thấy rằng việc đổi mới chủ trương,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước là một trong nguyên
nhân quan trọng dẫn đến thành công trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta,
nhưng đồng thời thực tiễn những năm vừa qua cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề cần
phân tích lý giải. Dưới đây là một số vấn đề cơ bản của hội nhập kinh tế đang đặt
ra cho nước ta đòi hỏi sự đồng lòng, quyết tâm cao của Nhà nước nói chung, của
doanh nghiệp nói riêng,…để giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra và có thể nảy
sinh nhằm góp phần thành công vào tiến trình hội nhập kinh tế:
1. Vấn đề hoàn thiện thế chế thương mại
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải chấp nhận "luật chơi" và "cách chơi"
của các sân chơi khác nhau như: WTO, ASEAN, APEC..., song cho tới nay cơ chế,
hệ thống chính sách kinh tế, thương mại của nước ta vẫn còn nhiều bất cập mặc dù
đã có những điều chỉnh bổ sung tích cực. Bởi hiện nay, cơ chế, hệ thống pháp luật
chúng ta đang áp dụng vẫn còn có những yếu tố, những điều khoản chưa phù hợp
với "luật chơi" của WTO, ASEAN, APEC (chẳng hạn như chính sách thuế của
nước ta chưa thể hiện được như một công cụ kích thích và điều tiết sự chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, góp phần thu hút
đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế) trong khi những biện pháp,
chính sách mà được các tổ chức trên thừa nhận tạo lợi thế cho kinh tế và thương

mại thì chúng ta lại chưa có. Đây là một điểm yếu mà Việt Nam cần lưu ý khắc
phục.
Thể chế thương mại là những luật lệ, hình thức, các định chế và chế tài quy
định luật chơi và cách chơi đối với các chủ thể tham gia trên thị trường. Nền kinh
tế thương mại thế giới hiện nay đang vận động trong bối cảnh của quá trình toàn
cầu hoá và khu vực hoá diễn ra rất sâu sắc, nhanh chóng. Khái niệm về ranh giới
giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài đã bị thay đổi theo hướng đan
xen với nhiều hình thức quan hệ đa dạng, phức tạp. Các chiến lược phát triển
hướng vào xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu không còn giữ nguyên ý nghĩa cổ
điển của nó, bởi vì thị trường của mỗi quốc gia đều phải "mở cửa" thông qua việc
cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Các cuộc chiến tranh thương mại
nhằm giành giật thị trường giữa hàng nội và hàng ngoại ngày một trở nên quyết liệt
hơn.
Do đó, để đảm bảo một sân chơi cạnh tranh theo đúng chuẩn mực và thông
lệ quốc tế đòi hỏi nước ta phải hoàn thiện thể chế thương mại theo hướng phù hợp
với những nguyên tắc và thông lệ thương mại quốc tế. Đây là vấn đề đang đặt ra
những thách thức không nhỏ đối với nước ta bởi nước ta là một quốc gia đang
chuyển đổi nền kinh tế, việc tổng kết thực tiễn phát triển cũng như dự báo kinh tế
quốc tế còn hạn chế dẫn đến những khó khăn có tính chất cơ sở trong việc hoàn
thiện thể chế thương mại sao cho vừa phải phù hợp với những chuẩn mực và thông
lệ thương mại quốc tế, vừa phải phù hợp với thực tiễn và bối cảnh cụ thể của nước
ta.
2. Vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh
Ngày nay, cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là động lực phát triển nền
kinh tế thị trường. Trong thương mại quốc tế, cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết
các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả
mãn được các nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh,
không một chính phủ nào cần phải quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng
gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy định những
vấn đề đó với các doanh nghiệp. Theo nhà kinh tế học Alan V. Deardorff, khái

niệm “năng lực cạnh tranh” thường dùng để nói đến các đặc tính cho phép một
hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các hãng khác nhờ có chi phí thấp hoặc
sự vượt trội về công nghệ trong so sánh quốc tế.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, tính đến thời
điểm hiện tại, nền sản xuất hàng hoá của Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, trình độ
phát triển chung còn thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp
còn yếu, sản phẩm của các doanh nghiệp làm ra mẫu mã nghèo nàn, bao bì, nhãn
mác xấu, thiếu các kênh phân phối, tiếp thị chưa bài bản, chi phí đầu vào cao,
nguyên liệu cho sản xuất có đến 80% phải nhập khẩu vừa làm giảm lợi nhuận vừa
dễ xảy ra rủi ro do giao hàng chậm vì không chủ động nguyên liệu, trong khi đó
hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi tính cạnh tranh ngày càng cao, ngày càng hốc liệt.
Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của doanh nghiệp
nói riêng trong tiến trình hội nhập là yêu cầu sống còn đối với nước ta nếu không
muốn bị thua ngay trên "sân nhà" nói riêng, trên thương trường quốc tế nói chung.
Do đó, đây vừa là một vấn đề, vừa là một nội dung quan trọng trong bối cảnh mở
cửa toàn diện nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (gồm năng lực cạnh tranh
quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng hoá,
dịch vụ) là nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường hiện
đại trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Bởi xây dựng một nền kinh tế thị
trường năng động thì cạnh tranh được coi là công cụ hữu hiệu để thúc đẩy phát
triển kinh tế, nâng cao hiệu quả và chất lượng, tạo dựng nên những doanh nghiệp
thành đạt, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Nói cách khác
một nền kinh tế thị trường hiện đại là một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao của
các yếu tố cấu thành của nền kinh tế đó. Điều này có nghĩa là để sức cạnh tranh của
nền kinh tế ngày càng cao, chúng ta phải có một cơ cấu kinh tế hiện đại và thích
ứng với cơ cấu kinh tế thế giới hôm nay. Thực tế cho thấy sức cạnh tranh của nền
kinh tế của ta còn thấp, doanh nghiệp của ta còn yếu, trong khi đó hội nhập thì
chúng ta phải mở cửa thị trường để hàng hoá nước ngoài vào và điều này sẽ gây

khó khăn cho nền kinh tế và doanh nghiệp nước ta. Do đó, nếu không có những
giải pháp đồng bộ, nếu không xây dựng được một nền kinh tế có sức cạnh tranh
cao hơn thì sẽ kéo theo nạn thất nghiệp gia tăng, xã hội sẽ phức tạp và chúng ta sẽ
là người tụt hậu, chúng ta sẽ ở lại cùng với sự đói nghèo, trong lúc những người
chiến thắng bứt lên phía trước.
2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Doanh nghiệp đóng vai trò chủ yếu tạo ra sức cạnh tranh của hàng hoá và
dịch vụ. Để đáp ứng đòi hỏi của thị trường và yêu cầu hội nhập với kinh tế khu vực
và thế giới, vấn đề đặt ra là cần phải tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Bởi thực trạng hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung
còn thể hiện ở những bất cập sau đòi hỏi phải được khắc phục ngay:
Thứ nhất, khả năng cạnh tranh yếu về mặt tài chính. Quy mô vốn và năng
lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều doanh
nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh yếu về quản lý. Đội ngũ chủ doanh nghiệp,
giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ
năng quản lý. Số lượng doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ
chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh
nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh
doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh
doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế.
Thứ ba, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao
dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu của của hàng hoá, dịch vụ và các doanh nghiệp
nước ta. Vấn đề này đã được nhiều nhà chuyên môn phân tích khi so sánh giữa sản
phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines.
Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế làm ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh. Một số khá lớn doanh nghiệp nước ta còn chưa chấp hành
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý
tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp. Tình trạng
các doanh nghiệp bị các cơ quan chức năng phàn nàn, thậm chí “thổi còi” vì vi

phạm các chế độ về thuế, tài chính còn khá phổ biến. Một trong những nguyên
nhân của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận
thức, hiểu biết của doanh nghiệp về luật pháp còn nhiều hạn chế.
Để vượt qua những hạn chế nêu trên, con đường phát triển duy nhất là nâng cao
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ của nước ta. Vì nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ chính là nâng cao
năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành. Tuy nhiên vấn đề này cũng còn phụ
thuộc vào cả chính sách quốc gia.
3. Vấn đề xây dựng và quảng bá thương hiệu trong bối cảnh hội nhập
Trong thời đại mở cửa, hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, rõ ràng không ai
là không biết đến các giá trị của thương hiệu. Cụm từ "thương hiệu" được nói đến
đầu tiên khi lý giải về sự thành công của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hoặc
một doanh nghiệp nào đó. Thậm chí, một ca sĩ tên tuổi được mời biểu diễn liên tục
nhiều nơi, một diễn viên được mời đóng nhiều phim người ta cũng cho là do...."có
thương hiệu".
Ngày nay, một quốc gia mạnh về kinh tế là quốc gia sở hữu những doanh
nghiệp mạnh và năng động. Một doanh nghiệp mạnh là doanh nghiệp sở hữu
những thương hiệu mạnh phục vụ cho mục tiêu quốc gia. Một thương hiệu tầm cỡ
quốc tế không chỉ đơn thuần là tài sản của bản thân doanh nghiệp mà chính là
niềm kiêu hãnh của cả một quốc gia, là niềm cảm hứng cho các thương hiệu khác
vươn lên mạnh mẽ.
Tầm quan trọng của thương hiệu hầu như không còn được bàn cãi nữa.
Nhưng trên thực tế, thực trạng xây dựng và quảng bá thương hiệu ở các doanh
nghiệp Việt Nam còn yếu và chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
và đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho việc xây dựng và quản bá thương
hiệu Việt Nam. Do đó mà yêu cầu cấp thiết đang đặt ra cho Việt Nam là làm gì để
khẳng định và quảng bá thương hiệu trong bối cảnh hội nhập sâu vào kinh tế quốc
tế. Đặc biệt, khi thương hiệu đã trở thành tài sản của doanh nghiệp, thì một yêu cầu
bức xúc lại đặt ra là làm thế nào để bảo vệ thương hiệu của mình trước nạn xâm
phạm thương hiệu đang xảy ra ngày càng nhiều trên thị trường. Thương hiệu thành

công là phải tạo được cảm giác thân quen với người tiêu dùng.
3.1. Xây dựng thương hiệu
Trong bối cảnh hội nhập và mở cửa nền kinh tế, không ai có thể phủ nhận
giá trị của thương hiệu trong kinh doanh và câu chuyện thương hiệu đã trở thành
một vấn đề thời sự trong kinh doanh, song nhiều doanh nghiệp và các tập đoàn
kinh tế Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến việc đầu tư cho thương hiệu của
mình, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập như hiện nay.Tuy nhiên, việc đầu tư để
xây dựng một thương hiệu tầm cỡ cũng đang là vấn đề đặt ra nhiều thách thức
đối với mỗi tập đoàn kinh tế và mỗi doanh nghiệp của nước ta.
3.2. Đăng ký thương hiệu hàng hoá
Hội nhập, thương hiệu hàng hoá phải trở thành tài sản quan trọng của mỗi
doanh nghiệp, phát triển thương hiệu là quá trình tạo lập uy tín đối với người tiêu
dùng và giúp cho doanh nghiệp thực hiện được kinh doanh lợi nhuận. Như vậy,
Thương hiệu sản phẩm đã trở thành tài sản vô hình có giá trị rất lớn (trong đa số
trường hợp còn lớn hơn tài sản hữu hình) và không thể thiếu của các doanh
nghiệp vì giá trị của tài sản phụ thuộc vào uy tín và quy mô thương hiệu được sử
dụng, nó sẽ là một công cụ đắc lực cho kinh doanh, và sẽ là nguồn vốn rất có giá
trị khi doanh nghiệp thực hiện việc chuyển nhượng, bán li-xăng hoặc liên doanh.
Vì thế, thương hiệu hàng hoá khi đã được xây dựng, các doanh nghiệp cần phải
đăng ký trong tiến trình hội nhập vào thị trường thế giới.
3.3. Bảo hộ thương hiệu bằng luật pháp
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và quyền lợi chính đáng của nhà
sản xuất, Nhà nước cần phải ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá phù hợp với các
chuẩn mực thương mại quốc tế. Đồng thời, Luật nhãn hiệu hàng hoá phải có hiệu
lực và hiệu quả trong việc ngăn chặn không cho phép bên thứ 3 sử dụng hàng hoá

×